NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
(Tọa đàm ngày 17/6/2016, Dự án JICA)
Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2017 có nhiều nội dung đổi mới, trong đó có phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong các nội dung đổi mới của Bộ luật dân sự 2015 thì các chế định mới về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được coi là một trong những chế định có tính chất năng động nhất, thị trường nhất của Bộ luật này. Với tiêu chí, tầm nhìn hướng tới sự đổi mới, tiệm cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế hiện đại, tiên tiến về giao dịch bảo đảm, quan hệ thì các nội dung của chế định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) có vai trò quan trọng trong việc mở ra, khuyến khích, tạo động lực cho việc phát triển thị trường tín dụng, mở rộng các cơ hội tín dụng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân sử dụng và khai thác tối đa giá trị kinh tế của khối tài sản của mình để tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng với các chi phí thấp.
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã giải quyết được cơ bản các vướng mắc, khó khăn phát sinh, bộc lộ trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng bảo đảm trong giai đoạn vừa qua, ghi nhận và thể hiện được một số giá trị cốt lõi của lý thuyết vật quyền trong chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong sự hài hòa hóa với lý thuyết trái quyền. Với việc ghi nhận nguyên lý của vật quền trong các quy định về giao dịch bảo đảm, Bộ luật dân sự 2015 đã tạo một khuôn khổ thể chế rõ ràng, khả thi trong việc bảo vệ, hài hòa hóa quyền và lợi ích của các bên liên quan trong giao dịch bảo đảm, góp phần xử lý hiệu quả các khoản nợ nợ xấu và hình thành, phát triển thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp, hiện đại.
Đặc biệt hơn, các chế định mới về giao dịch bảo đảm của Bộ luật dân sự 2015 cũng sẽ góp phần đáng kể vào việc giảm thiểu các rủi ro, các vụ việc tranh chấp, khởi kiện phát sinh từ hoạt động ký kết và thực hiện giao dịch bảo đảm; giảm thiểu được phần nào các khó khăn, gánh nặng cho Tòa án trong việc thụ lý, giải quyết tranh chấp phát sinh từ những quy định pháp luật thiếu rõ ràng, không cụ thể hoặc từ những khoảng trống pháp luật không đáng có trong lĩnh vực pháp luật giao dịch bảo đảm.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu những điểm mới mang tính chất căn bản, quan trọng của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Bộ luật Dân sự năm 2015 tiếp cận biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dựa trên nền tảng của lý thuyết vật quyền trong sự hài hòa hóa với lý thuyết trái quyền
Một trong những mục đích quan trọng nhất của giao dịch bảo đảm nói chung và các biện pháp bảo đảm nói riêng đó là đảm bảo tính an toàn trong quan hệ tín dụng, đảm bảo khi bên có nghĩa vụ, không thực hiện được nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thì bên có quyền có tài sản hoặc vật bảo đảm trong tay để xử lý và thu hồi lại khoản tiền đã cho vay. Với mục đích đó nên trong giao dịch này, cách bên luôn luôn quan tâm đến những khía cạnh như: tài sản bảo đảm đó là tài sản nào? Có thể nhận diện được chính xác không? Khi cần xử lý tài sản thì có thể xử lý được không và thứ tự quyền ưu tiên trong giao dịch bảo đảm đó như thế nào. Khi đã đánh giá được các khía cạnh ở trên, bên nhận bảo đảm sẽ đánh giá và giám sát được tính an toàn, tính khả thi và thứ tự quyền ưu tiên của mình như thế nào đối với tài sản được bảo đảm này. Đây cũng là những yếu tố quan trọng giúp các bên kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro và các chi phí không đáng có trong việc tiếp cận tín dụng và trong quan hệ giao dịch bảm đảm của các bên trong thực tiễn.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì giao dịch bảo đảm (là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này)[1]chính là căn cứ để bên nhận bảo đảm thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm (Điều 336, Điều 355, Điều 721 Bộ luật Dân sự năm 2005). Đây chính là yếu tố trái quyền của quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cách tiếp cận này luận giải được căn cứ (cơ sở) để bên nhận bảo đảm có quyền và thực thi quyền xử lý đối với tài sản bảo đảm đó chính là hợp đồng bảo đảm. Vì tài sản bảo đảm vốn dĩ không thuộc quyền sở hữu của bên nhận bảo đảm, do đó, việc thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm phải dựa trên thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo đảm đã giao kết.[2]
Tuy nhiên, điểm yếu của cách tiếp cận thuần túy nguyên lý trái quyền này là ở chỗ, quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm đã giao kết. Theo đó, bên nhận bảo đảm không có quyền “trực tiếp”, “chi phối” đối với tài sản bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 721 Bộ luật Dân sự năm 2005). Điều này đã làm cho thủ tục xử lý tài sản bảo đảm phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản). Trong khi đó, việc xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến việc dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên bảo đảm sang người mua hoặc bên nhận bảo đảm (trong trường hợp bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm). Do vậy, bên bảo đảm thường có thái độ thiếu thiện chí, thậm chí là bất hợp tác, chây ỳ trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Thực tế này đã làm cho bên nhận bảo đảm trở thành bên có “vị thế yếu” đối với tài sản bảo đảm, trong khi đó, đáng lẽ ra, theo quy định của pháp luật và giao dịch bảo đảm đã giao kết, họ có toàn quyền xử lý để thu hồi nợ khi bên có nghĩa vụ vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm.
Để khắc phục những khiếm khuyết này, Bộ luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện một số nội dung (đặc điểm) của vật quyền bảo đảm để tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Cụ thể là, lần đầu tiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định một cách minh thị hai đặc điểm quan trọng của vật quyền bảo đảm, đó là quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Theo quy định của khoản 2 Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Việc bổ sung quy định về quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm thể hiện sự hài hòa hóa yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều này là rất cần thiết vì nó xử lý được những vấn đề mà thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm đang đặt ra.
2. Bộ luật Dân sự năm 2015 tăng cường đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, ví dụ như Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép các bên chỉ cần tiến hành thoả thuận, giao kết một lần về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó, bao gồm cả việc ký kết lại hợp đồng bảo đảm, công chứng cũng như đăng ký biện pháp bảo đảm (khoản 2 Điều 294 Bộ luật Dân sự năm 2015), cụ thể như sau:
- Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. (khoản 3 Điều 293).
Ví dụ như A và B giao kết hợp đồng có nội dung thỏa thuận A dùng tài sản là quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (hiện tại và trong tương lai) của A đối với B trong thời hạn 5 năm. Theo quy định tại khoản 3 Điều 293 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì chỉ những nghĩa vụ phát sinh trong thời hạn 5 năm mới được xem là nghĩa vụ được bảo đảm.
- Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, các bên có quyền thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (khoản 1 Điều 294).
Quy định này có nghĩa là, nếu các bên có thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh trong tương lai đối với bên nhận bảo đảm thì trong hợp đồng bảo đảm, các bên không phải ghi cụ thể phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm trong tương lai và thời hạn nghĩa vụ được bảo đảm trong tương lai.
- Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó. (khoản 2 Điều 294).
Quy định này có nghĩa là, trong trường hợp này, các bên không phải ký lại hợp đồng bảo đảm cũng như không phải thực hiện các thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm khi nghĩa vụ trong tương lai hình thành.
3. Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các tiêu chí nhận diện về tài sản bảo đảm theo hướng tiệm cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế hiện đại về giao dịch bảo đảm
a) Khác với Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về từng loại hình tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, ví dụ như Điều 320 quy định về vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Điều 321 quy định về tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Điều 322 quy định về quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định một điều về tài sản bảo đảm (Điều 295), khái quát các nguyên lý chung về tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đó là: (1) Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; (2) Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được; (3) Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai và (4) Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
b) Về mô tả tài sản bảo đảm (khoản 2 Điều 295)
Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, khi giao kết hợp đồng bảo đảm, các bên mô tả tài sản không rõ ràng dẫn đến việc không xác định được tài sản bảo đảm. Do vậy, để có cơ sở xác định được tài sản bảo đảm, tránh những tranh chấp phát sinh trong việc định danh tài sản bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về mô tả tài sản bảo đảm. Theo quy định của khoản 2 Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cho phép mô tả chung về tài sản bảo đảm, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đưa ra khuyến cáo mang tính chất yêu cầu, đó là việc mô tả chung phải xác định được tài sản bảo đảm.
4. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của các biện pháp
Theo quy định của khoản 1 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2005, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới, đó là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu. Đây không phải là hai nội dung mới mà thực tế nó đã được ghi nhận và thể hiện ở Bộ luật Dân sự năm 2005 nhưng không phải ở giác độ biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Về cầm giữ tài sản: Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, cầm giữ tài sản được quy định ở Điều 416 “Phần II. Thực hiện hợp đồng” với ý nghĩa là biện pháp nhằm gây “sức sép” đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ để bên này phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng song vụ. Chính vì tính chất (bản chất) của biện pháp cầm giữ tài sản là chiếm giữ tài sản để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, do vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận cầm giữ tài sản với tư cách là một biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật.
- Về bảo lưu quyền sở hữu: bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều 461 Bộ luật Dân sự năm 2005 dưới hình thức mua trả chậm, trả dần. Đến Bộ luật Dân sự năm năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được tiếp cận với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bản chất của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu này là cho phép bên bán (seller), trong giao dịch mua trả chậm, trả dần và theo thỏa thuận, được phép bảo lưu quyền sở hữu của mình cho đến khi bên mua (buyer) thanh toán hết các khoản tiền còn lại cho tài sản mua đó. Việc bổ sung là phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu cũng như cách tiếp cận mới của thông lệ quốc tế về biện pháp bảo đảm.
5. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện cơ chế (phương thức) đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại khoản 3 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005 mới chỉ quy định chung chung mang tính nguyên tắc về “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.”.
Khắc phục hạn chế này, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định hoàn thiện cơ chế (phương thức) đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Cụ thể là, lần đầu tiên Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Điều 297 Bộ luật Dân sự đã quy định một cách rõ ràng về hai phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, đó là:
(1) nắm giữ, chiếm giữ tài sản bảo đảm và
(2) đăng ký biện pháp bảo đảm.
Trên cơ sở kế thừa quy định của Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định tại Điều 298 về đăng ký biện pháp bảo đảm với các nội dung cụ thể như sau:
+ Biện pháp bảo đảm được đăng ký tự nguyện theo thoả thuận của các bên hoặc bắt buộc theo quy định của luật. (khoản 1 Điều 298).
+ Đăng ký biện pháp bảo đảm là phương thức làm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba hoặc là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực trong trường hợp luật có quy định. (khoản 1 Điều 298).
Việc bổ sung nắm giữ là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc chiến hữu, đó là, ai đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (khoản 1, khoản 2 Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Quan điểm này tiếp cận vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ, việc (tình trạng) nắm giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. (Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015).
6. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có cách tiếp cận mang tính chất đổi mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, tạo tiền đề và nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm đa dạng hoá và tối đa hóa các nguồn lực đầu tư cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn ổn định và bền vững, thì giải pháp cơ bản, lâu dài là phải phát triển và hoàn thiện các công cụ tạo lập vốn thông qua thị trường tài chính – tín dụng. Do vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý về đăng ký biện pháp bảo đảm trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm tạo sự thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng một cách an toàn với chi phí thấp, hiệu quả cho nền kinh tế là một yêu cầu khách quan của thực tiễn.
Xuất phát từ nhận thức nêu trên, Bộ luật dân sự năm 2015 đã đưa ra cách tiếp cận mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện thiết chế đăng ký, qua đó, giúp phát huy vai trò của thiết chế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể như sau:
6.1. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đổi mới cách tiếp cận về đăng ký biện pháp bảo đảm từ đăng ký là nghĩa vụ của công dân sang đăng ký là quyền của công dân
Bộ luật Dân sự năm 2005 tiếp cận đăng ký giao dịch bảo đảm dước giác độ là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp (khoản 2 Điều 350, khoản 2 Điều 717, khoản 1 Điều 719). Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có cách tiếp cận mang tính chất đổi mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, dưới giác độ quyền của công dân trong xã hội dân sự hiện đại.
Thứ nhất, theo quy định của khoản 4 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015, đăng ký thế chấp được nhận diện là “quyền” của bên nhận thế chấp. Việc tiếp cận đăng ký biện pháp bảo đảm dưới giác độ quyền công dân trong xã hội dân sự hiện đại của Bộ luật Dân sự năm 2015 có ý nghĩa và tác động rất lớn đối với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về đăng ký biện pháp bảo đảm cũng như thực tiễn vận hành hệ thống đăng ký. Bởi lẽ, một khi đăng ký biện pháp bảo đảm được nhìn nhận dưới giác độ là quyền công dân thì pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ phải điều chỉnh theo hướng hỗ trợ, tạo thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền dân sự của mình chứ không chỉ dừng lại ở mức độ mô tả hành vi, các bước thực hiện thủ tục hành chính thuần túy. những quy định có tính chất cản trở, hành chính hóa quan hệ dân sự, phát sinh thủ tục hành chính, gây phiền hà, gia tăng các chi phí cho người dân, cho xã hội sẽ phải bị loại bỏ, thay bằng những quy định hỗ trợ và tạo thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền của mình. Điều này sẽ góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ và bảo đảm hơn nữa quyền của công dân trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm.
Thứ hai, với quy định đăng ký biện pháp bảo đảm là quyền của công dân, Bộ luật Dân sự năm 2015 đang hướng đến xây dựng một hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm theo mô hình hệ thống đăng ký chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba chứ không phải mô hình hệ thống đăng ký nhằm xác lập quyền.
Theo cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 2015, việc đăng ký biện pháp bảo đảm chỉ mang tính bắt buộc và là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định (khoản 1 Điều 298 Bộ luật Dân sự năm 2015). Có thể nói, cùng với quy định tách thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và thời điểm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, việc nhận diện đăng ký biện pháp bảo đảm là quyền của công dân đã cho thấy bước chuyển biến mới trong tư duy của các nhà lập pháp đối với thiết chế đăng ký biện pháp bảo đảm, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn vận hành hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta trong thời gian vừa qua.
Thứ ba, việc đổi mới cách tiếp cận về đăng ký biện pháp bảo đảm của Bộ luật Dân sự năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng để cải thiện về căn bản chất lượng cung cấp dịch vụ đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của các cơ quan đăng ký. Đảm bảo hoạt động/dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm của các cơ quan đăng ký sẽ chuyển đổi từ quan hệ thuần túy hành chính sang quan hệ hướng tới phục vụ, thúc đẩy, hỗ trợ các giao dịch dân sự được thực hiện trong thực tế. Đây chính là nền tảng, là tiền đề pháp lý quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đăng ký và cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, qua đó, thật sự đảm bảo và tôn trọng các quyền và nghĩa vụ dân sự của công dân.
6.2. Với quy định về đăng ký biện pháp bảo đảm, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận gần hơn với đăng ký “quyền” chứ không phải đăng ký giao dịch bảo đảm (hình thức ghi nhận và thể hiện thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) như Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2005 tiếp cận đối tượng của hoạt động đăng ký là giao dịch bảo đảm (hình thức ghi nhận và thể hiện thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ)[3]. Cách tiếp cận này không thực sự phù hợp với lý thuyết chung về đăng ký cũng như thực tiễn vận hành hệ thống đăng ký của nước ta. Bởi lẽ, suy cho cùng, về bản chất, đăng ký biện pháp bảo đảm chính là đăng ký quyền được bảo đảm bằng tài sản của một (hoặc) nhiều chủ thể đối với tài sản bảo đảm. Vì tài sản bảo đảm vốn dĩ thuộc quyền sở hữu của một chủ thể khác, do vậy, việc đăng ký biện pháp bảo đảm có ý nghĩa như là sự tuyên bố quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm cho công chúng biết và dĩ nhiên, đi cùng với nó chính là sự thông báo “gián tiếp” về sự hạn chế quyền của chủ sở hữu đối với tài sản bảo đảm. Chính vì vậy, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm hiện hành cũng chỉ ghi nhận: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.”, chứ không phải đăng ký toàn bộ nội dung của giao dịch bảo đảm, bao gồm cả các nội dung khác ngoài biện pháp bảo đảm[4]. Điều này cho thấy, việc Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định đăng ký đối với biện pháp bảo đảm, chứ không phải đăng ký đối với giao dịch bảo đảm (hình thức thỏa thuận của các bên về biện pháp bảo đảm) như Bộ luật Dân sự năm 2005 là phù hợp với bản chất, mục đích, vai trò và địa vị pháp lý của thiết chế đăng ký trong nền kinh tế thị trường là đăng ký quyền, công bố quyền và công khai quyền.
7. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện cơ chế xử lý tài sản bảo đảm nhằm tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm, qua đó, góp phần hoàn thiện cơ chế xử lý nợ xấu cho nền kinh tế
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm thông qua việc xây dựng các cơ chế pháp lý hỗ trợ bên nhận bảo đảm thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm, ví dụ như ghi nhận quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý của bên nhận bảo đảm (khoản 2 Điều 297); quyền tự bán tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm theo thỏa thuận của các bên (Điều 303)...
Thứ hai, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xây dựng cơ chế xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm.
Trên thực tế, vì đặc tính tự nhiên vốn có của tài sản nên đất và tài sản gắn liền với đất thường là một thể thống nhất về hiện trạng và tình trạng pháp lý, do vậy, nếu không có cơ chế xử lý đồng thời trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là vấn đề bán (chuyển quyền sở hữu) tài sản thế chấp cho người mua.
Do vậy, để giải quyết “điểm nghẽn” về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp nói trên, trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định của khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Tương tự cách tiếp cận như trên, khoản 1 Điều 326 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Đây được xem là giải pháp quan trọng có tính chất đột phá trong việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và ngược lại.
Tuy nhiên, về vấn đề này, cần thống nhất về mặt nhận thức là việc xử lý đồng thời tài sản gắn liền với đất (trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất) hoặc quyền sử dụng đất (trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất) nhằm tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm chứ không đồng nghĩa với việc nó là căn cứ để xác định tài sản được xử lý đồng thời với tài sản thế chấp cũng trở thành tài sản thế chấp. Theo đó, trên nguyên tắc, tài sản được xử lý đồng thời không phải là tài sản thế chấp, nên khoản tiền thu được từ việc bán tài sản sẽ chỉ được thanh toán cho bên nhận thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận và việc thanh toán này sẽ phải được thực hiện theo quy định của pháp luật (ví dụ như theo nguyên tắc ưu tiên thanh toán khoản nợ có bảo đảm trước các khoản nợ không có bảo đảm; nguyên tắc xác định thứ tự thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm bằng tài sản quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 trong trường hợp tài sản được xử lý đồng thời đã được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác…).
8. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn Bộ luật dân sự 2005
8.1. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm (Điều 299)
Cụ thể là, theo quy định của Điều 299 Bộ luật Dân sự năm 2015, các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm bao gồm:
- Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (khoản 1 Điều 299).
- Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật (khoản 2 Điều 299).
- Các bên có thỏa thuận về các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khác ngoài hai trường hợp nói trên (khoản 3 Điều 299).
- Luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác (khoản 3 Điều 299).
Lưu ý: Xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của luật, có 2 trường hợp:
+ Áp dụng Điều 90 Luật Thi hành án dân sự. Đó là “Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.”
+ Trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì, nếu một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ chưa đến hạn vẫn được coi là đến hạn để xử lý. (khoản 3 Điều 296)
8.2 Các bước xử lý tài sản bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá chi tiết về các bước xử lý tài sản bảo đảm trên cơ sở pháp điển hóa và phát triển quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, qua đó, góp phần tạo thuận lợi cho các bên trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, quy trình xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện như sau:
Bước 1: Thông báo việc xử lý: Thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bản đảm (nếu có) (Điều 300)
Ngoại lệ: Đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị hư hỏng dẫn đến bị giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản đó (khoản 1 Điều 300).
Bước 2: Giao tài sản bảo đảm để xử lý (Điều 301)
Theo quy định của Điều 301 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: Khi có một trong các căn cứ xử lý quy định tại Điều 299 của Bộ luật này, “Người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý.” Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
8.3 Phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp (Điều 303)
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Theo quy định của Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015, xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thực hiện theo các phương thức sau đây:
8.4. Phương thức thỏa thuận: Các bên thỏa thuận các phương thức xử lý gồm:
- Bán tài sản bảo đảm: bên nhận bảo đảm tự bán hoặc bán đấu giá;
- Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
- Phương thức khác do các bên thỏa thuận.
8.5. Phương thức luật định: áp dụng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phương thức xử lý. Theo quy định của khoản 2 Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.
8.6. Thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp (Điều 307, Điều 308)
*Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Theo quy định của Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thực hiện theo thứ tự sau đây:
- Thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp;
- Thanh toán khoản nợ cho bên nhận bảo đảm theo nguyên tắc sau đây:
+ Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả cho bên bảo đảm.
+ Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm.
Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh toán.
*Bộ luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định của Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2005 về thứ tự ưu tiên thanh toán, cụ thể như sau:
Theo Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015, trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:
- Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng;
- Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng được thanh toán trước;
- Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm;
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã bổ sung quy định về thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp các bên có thỏa thuận. Cụ thể là, theo quy định của khoản 2 Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì thứ tự ưu tiên thanh toán có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền.
8.7. Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất (Điều 325) và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 326)
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về việc xử lý tài sản bảo đảm đồng thời trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất (Điều 325) và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 326). Cụ thể là, theo Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015, “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Tương tự như vậy, theo quy định của Điều 326 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì: “Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định của khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên thế chấp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và ngược lại.
9. Bộ luật Dân sự năm 2015 hoàn thiện trật tự thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm
Thực tiễn cho thấy, việc đăng ký biện pháp bảo đảm (mà nhiều nước gọi là đăng ký các quyền lợi bảo đảm hoặc đăng ký vật quyền bảo đảm) chỉ thực sự mang lại ý nghĩa và tác dụng tích cực đối với hoạt động cấp tín dụng khi pháp luật thiết lập một khuôn khổ, một trật tự hay nói theo một cách khác là cơ chế xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xác định và làm rõ các quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán của chủ nợ có bảo đảm tại các Điều 307, Điều 308 theo các nguyên tắc:
- Ưu tiên thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp;
- Ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm có xác lập hiệu lực đối kháng trước bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm không xác lập hiệu lực đối kháng;
- Ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm xác lập hiệu lực đối kháng trước bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm xác lập hiệu lực đối kháng sau;
- Ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được xác lập trước bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được xác lập sau trong trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không xác lập hiệu lực đối kháng.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã khẳng định một cách minh thị việc thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm chỉ áp dụng đối với trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm sau đây:
- Biện pháp bảo đảm bằng tài sản được xác lập theo thỏa thuận khác như đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu;
- Biện pháp bảo đảm không bằng tài sản được xác lập theo thỏa thuận như bảo lãnh, tín chấp;
- Biện pháp bảo đảm bằng tài sản được xác lập theo quy định của luật như cầm giữ (Điều 307).
Quy định này là phù hợp vì ngoài cầm cố, thế chấp, các biện pháp bảo đảm còn lại không có vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm, do đó, nếu quy định thứ tự thanh toán áp dụng chung đối với tất cả các biện pháp bảo đảm sẽ không có ý nghĩa về mặt thực tiễn./.
10. Về các biện pháp bảo đảm cụ thể
10.1. Về cầm cố tài sản
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự phân biệt về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cầm cố tài sản và thời điểm biện pháp cầm cố có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Theo quy định của khoản 1 Điều 310, thì Hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.; còn cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố.
10.2. Về thế chấp tài sản
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới về tài sản thế chấp. Theo quy định của Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015, trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp mà các bên không có thỏa thuận khác thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp. Quy định này là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
10.3. Về bảo lưu quyền sở hữu
Bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều 461 Bộ luật Dân sự năm 2005 dưới hình thức mua trả chậm, trả dần. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán (bao gồm cả hợp đồng mua trả chậm, trả dần) được tiếp cận với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015 là phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
10.4. Về bảo lãnh
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ quy định của Điều 369 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh, đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Theo Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh, thì trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại, nếu có.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp) để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Quy định này được pháp điển hóa trên cơ sở quy định của Điều 44 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
10.5. Về cầm giữ tài sản
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, cầm giữ tài sản được quy định ở Điều 416 “Phần II. Thực hiện hợp đồng” với ý nghĩa là biện pháp nhằm gây “sức sép” đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ để bên này phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng song vụ.
Để tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá chi tiết về biện pháp cầm giữ, như khái niệm cầm giữ (Điều 346), xác lập cầm giữ tài sản (Điều 347), quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ (Điều 348, Điều 349), chấm dứt cầm giữ (Điều 350)./.
[1]Xem thêm khoản 1 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005
[2]Xem thêm: Vũ Thị Hồng Yến, “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, năm 2013.
[3] Xêm thêm Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005
[4]Xem thêm: khoản 1 Điều 2 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm