Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
  • Thư viện điện tử và kho tin
  • Đề tài nghiên cứu cấp bộ
  • Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước
  • Tham khảo tạp chí
  • Sách toàn văn
  • Thư điện tử
  • Chính phủ

Những điểm mới về thừa kế của Bộ Luật Dân sự năm 2015

PGS.TS. Phạm Văn Tuyết

26/11/2016

Hà Nội, ngày 17/6/2016

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ THỪA KẾ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

(Tọa đàm ngày 17/6/2016, Dự án JICA)

 

                                                          PGS.TS. Phạm Văn Tuyết

                                                          Trường Đại học Luật Hà Nội

 

Thừa kế là một trong các chế định lớn được quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật dân sự 2015. So với Bộ luật dân sự năm 2005 thì Bộ luật dân sự 2015 có nhiều điểm mới trong quy định về thừa kế. Các điểm mới này, về cơ bản đã góp phần khắc phục được bất cập trong quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy vậy, nhiều sửa đồi còn phải bàn thêm bởi chưa thật sự phù hợp. Bài viết này đề cập tới những điểm mới của BLDS năm 2015 về thừa kế và có những đánh giá các quy định mới này.

1. Quyền thừa kế

Tại Điều 631, BLDS 2005 quy định: Quyền thừa kế của cá nhân.

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Tại Điều 609, BLDS năm 2015 quy định: Quyền thừa kế

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.

Điểm mới và thành công của BLDS năm 2015 là việc xác định quyền thừa kế là quyền của các chủ thể nói chung. Trong đó, quyền của cá nhân có cả hai chiều: để lại và nhận thừa kế, quyền của các chủ thể khác chỉ có một chiều là nhận (“người thừa kế không phải là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”).

Chúng tôi có ý kiến về sửa đổi này như sau:

Một là, Điều 609 khẳng định “cá nhân có quyền … hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Dùng từ hoặc  khiến cho người đọc hiểu rằng người thừa kế là cá nhân chỉ có thể được hưởng di sản theo một trong hai trình tự, tức là đã hưởng di sản thừa kế theo di chúc thì thôi hưởng thừa kế theo pháp luật và ngược lại. Nhưng về bản chất, người thừa kế là cá nhân hoàn toàn có thể hưởng thừa kế đồng thời cả theo di chúc và theo pháp luật (nếu có). Vì vậy, nên bỏ từ hoặc trong điều luật này.

Hai là, đoạn 1 quy định “cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật…”. Nội dung của đoạn văn trên muốn nói đến quyền để lại thừa kế của cá nhân bao gồm để lại theo di chúc và để lại theo pháp luật nhưng quy định như trên lủng củng và rất khó hiều. Vì vậy nê sơar lại thành: Cá nhân có quyền để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Ba là,  nên sửa “Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc” thành: Quyền thừa kế của các chủ thể khác chỉ bao gồm quyền hưởng di sản theo di chúc cho thống nhất với nội dung chủ đạo của điều luật.

2.     Quản lý di sản thừa kế

 

Điều 616 BLDS 2015 đã xác định thêm: người quản lý di sản được thanh toán chi phí bảo quản tài sản, trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Trong thực tế đã xảy ra tranh chấp về chi phí quản lý di sản nên quy định này là cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, điều luật này cẩn xác định thêm về việc sử dụng di sản và hướng giải quyết tranh chấp đối với việc sử dụng di sản thừa kế trong thời gian di sản chưa chia.

3.     Từ chối nhận di sản

Tại Điều 642, BLDS 2005 quy định: Từ chối nhận di sản 

“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.”

Quy định việc từ chối nhận di sản chỉ trong một thời hạn nhất định (6 tháng) là chưa hợp lý, vì việc từ chối nhận di sản là quyền của cá nhân về tài sản. Do đó, quy định mới tại Khoản 3 Điều 620 BLDS năm 2015 “Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản” không chỉ khắc phục được hạn chế của BLDS năm 2005 mà còn đảm bảo tốt hơn việc thực hiện quyền hưởng di sản của người thừa kế.

4. Về thời hiệu thừa kế

Điều 645, BLDS 2005 quy định:

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 

BLDS năm 2015 đã thay đổi khoảng thời gian của thời hiệu cũng như xác định việc phân chia di sản khi kết thúc khoảng thời gian của thời hiệu đó:

+ Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản.

+ Hết thời hạn này, di sản thuộc về người đang quản lý di sản đó.

+ Khi không có người quản lý di sản: (i) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu một cách ngay tình, liên tục, công khai, nếu việc chiếm hữu phù hợp với quy định của pháp luật; (ii) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu như trên.

Với quy định này, chúng tôi cho rằng BLDS năm 2015 đã giải quyết được một số bất cập của BLDS năm 2005. Tuy nhiên, về bản chất đây là loại thời hiệu khởi kiện nên tên của điều luật cần sửa thành: Thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế.

5. Hình thức di chúc

BLDS năm 2005 quy định hình thức của di chúc tại Điều 649 thành 2 đoạn:

“Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”.

BLDS năm 2015 đã lược bỏ đoạn 2 Điều 649 của BLDS năm 2005. Chúng tôi cho rằng việc lược bỏ quy định này là hợp lý bởi việc được sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trên lãnh thổ Việt Nam là quyền của công dân đã được pháp luật ghi nhận nên không cần thiết phải quy định cho từng trường hợp riêng biệt.

Thứ hai, quy định tại Điều 629 BLDS năm 2015.

BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng”. Quy định này lược bỏ đoạn “do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác” của BLDS năm 2005. Việc lược bỏ quy định này là đúng, vì không quy định nguyên nhân dẫn đến cái chết bị đe dọa sẽ bao quát hơn việc liệt kê mà không đầy đủ và không logic.

6. Người làm chứng cho việc lập di chúc

BLDS năm 2015 bổ sung thêm người không được làm chứng. Theo đó, cá nhân có khó khăn trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cũng không được làm chứng cho việc lập di chúc.

Người làm chứng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật để giải quyết các tranh chấp. Do đó, việc loại bỏ những chủ thể không có đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ của người làm chứng là một quy định cần thiết.

7. Nội dung của di chúc

BLDS năm 2015 dùng thuật ngữ “Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau” thay cho “di chúc phải ghi rõ” tại BLDS năm 2005 là phù hợp. Bởi nếu theo quy định của BLDS 2005 dễ bị hiểu di chúc sẽ không hợp pháp nếu không ghi rõ các nội dung chủ yếu.

BLDS 2015 còn lược bỏ quy định “xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản”. Việc lược bỏ quy định này là hợp lý, thể hiện ở chỗ: điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản phải tuân theo quy định của pháp luật chứ không phải ý chí của người để lại di sản..

Lược bỏ quy định “việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ” là phù hợp bởi việc định đoạt là quyền của người lập di chúc.

BLDS năm 2015 bổ sung thêm quy định: “Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa chữa”. Nhằm loại bỏ khả năng người khác sửa chữa, tẩy xóa di chúc nên BLDS ghi nhận thêm quy định này. Đây cũng là một quy định loại bỏ rủi ro cho chính người thừa kế, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người thừa kế.

8. Di chúc chung của vợ, chồng

BLDS năm 2015đã bỏ quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Chúng tôi cho rằng, đây là một sự tiến bộ đảm bảo tính hiệu quả cao trong việc khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế và những người có liên quan đến di sản thừa kế. Đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của người để lại di sản. Lý giải cho điều này, chúng tôi xin phân tích một số ý sau:

i) Quy định như BLDS năm 2005, thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm bên sau cùng chết hoặc cả hai cùng chết sẽ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người thừa kế khác ngoài vợ, hoặc chồng của người chết và những người có liên quan đến di sản thừa kế.

ii) Mục đích lớn nhất khi quy định về di chúc chung của vợ, chồng là đảm bảo di sản thừa kế cho ai luôn có sự thống nhất ý chí của vợ, chồng khi định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu chung. Nhưng chúng tôi cho rằng, khi pháp luật ghi nhận “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” điều đó có nghĩa rằng, trong trường hợp vợ, chồng cùng có nguyện vọng chuyển tài sản của mình cho người thừa kế thì họ hoàn toàn có quyền lập di chúc riêng của mình để định đoạt điều đó. Rõ ràng, việc làm này vẫn đạt được mong muốn, nguyện vọng của người lập di chúc để lại di sản lại loại bỏ được những bất cập nêu trên.

Tóm lại, hướng đến tính hiệu quả, công bằng và phù hợp trên thực tế khi đảm bảo quyền hưởng cũng như khai thác di sản thừa kế của người thừa kế, quy định về di chúc chung của vợ, chồng không được ghi nhận tại BLDS năm 2015 là một điểm mới mang tính đột phá. Một mặt khắc phục được những bất cập, tồn đọng của BLDS năm 2005, mặt khác tạo ra sự đơn giản hóa cho quá trình lập di chúc của người để lại di sản, phân chia và hưởng di sản của người thừa kế.

9. Di chúc bị thất lạc

Điều 666, BLDS 2005 quy định:

“1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.

2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.”

Theo quy định này thì nếu tìm thấy di chúc sau khi di sản đã được chia thì không chia lại nữa và người được hưởng di sản xác định trong di chúc phải chấp nhận sự thiệt thòi.

BLDS năm 2015 quy định bổ sung thêm vấn đề di chúc bị thất lạc. Theo đó, “trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu”. Như vậy, khi di chúc bị thất lạc được tìm thấy vẫn trong thời hiệu yêu cầu chia di sản nhưng di sản đã chia thì người thừa kế theo di chúc có quyền yêu cầu chia lại di sản đó. Quy định này nhấn mạnh vai trò của di chúc cũng như việc bảo vệ quyền, lợi ích của người hưởng thừa kế theo di chúc.

Tuy nhiên, điều luật cần dự liệu thêm về trường hợp người thừa kế theo luật đã tiêu dùng hết tài sản nhận được từ thừa kế.

10. Di tặng

Điều 646, BLDS 2015 bổ sung thêm về người được di tặng: “Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

 Sự bổ sung này là hợp lý và cần thiết.

11. Giải thích nội dung của di chúc

Điều 673, BLDS 2005 quy định:  

“Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.

Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.”

BLDS năm 2015 lược bỏ quy định “người công bố di chúc”. Đây là một điểm mới về người có quyền giải thích di chúc, đồng thời, bỏ quy định “coi như không có di chúc và di sản được chia theo pháp luật” để quy định rõ hơn “khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.

12. Hạn chế phân chia di sản thừa kế

Điều 686, BLDS 2005 quy định về hạn chế phân chia di sản như sau:

“Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thoả thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định, nhưng không quá ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.”

Về vấn đề này, BLDS năm 2015 quy định thêm về việc gia hạn: “Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm”. Như vậy, khoảng thời gian tối đa 3 năm và gia hạn một lần sẽ là khoảng thời gian để bên còn sống có thể khai thác, sử dụng di sản thừa kế đảm bảo cho cuộc sống của họ và gia đình. Quy định mới này cũng hướng tới việc tạo điều kiện tốt nhất cho những người thừa kế đang thực sự cần đến di sản để đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho mình và gia đình, đồng thời vẫn xác định được phần quyền của những người thừa kế khác.