QUYỀN BIỂU TÌNH VÀ THỰC TIỄN THỰC THI QUYỀN BIỂU TÌNH Ở CHLB ĐỨC
TS. Nguyễn Minh Tuấn
Biểu tình là quyền tự do cùa công dân. Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân từ phía công quyền phản ảnh mức độ tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp. Đế một Luật biểu tình cỏ chất lượng tốt ra đời cần cỏ sự tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp cũng như kinh nghiệm thực thi pháp Luật biểu tình của nhiều quốc gia trên thế giới. Bài viết dưới đây tập trung phân tích kinh nghiệm lập hiến, lập pháp và thực tiễn thực thi ở một quốc gia cụ thể đó là CHLB Đức.
l. Cơ sở hiến định của tự do hội họp hòa bình (Versammlimgsfreiheit)
Ở Đức, quyền hội họp hòa bình lần đầu tiên được qui định ở Điều 161, Hiến pháp nhà thờ thánh Paul (Paulskirchenverfassung) năm 1848, sau đó được kế thừa và phát triển trong các bản Hiến pháp Cộng hòa Weimar 1919 và Hiến pháp của CHLB Đức năm 1949.
Điều 8 Luật cơ bản Đức (LCB) qui định:
“1. Tất cả người Đức đều có quyền hội họp một cách ôn hòa và không vũ khí không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không của chỉnh quyền.
2. Đối với những cuộc hội họp được tổ chức ở ngoài trời, quyền này có thế bị hạn chế bởi luật hoặc trên cơ sở luật. ”[24]
Từ qui định của Điều 8 LCB này, ta có thể rút ra những nhận định sau:
Thứ nhất, Điều 8 LCB đã minh thị rõ hội họp hòa bình là quyền của công dân, đồng thời khẳng định nghĩa vụ của nhà nước phải tạo điều kiện để người dân được thực hiện quyền này. [25]
Thứ hai, tự do biểu tình thực chất chi là một dạng biểu hiện của tự do hội họp hòa bình.
Thứ ba, phạm vi bảo vệ của quyền này là tắt cả người Đức, được hiểu là những người có quôc tịch Đức.
Thứ tư, ôn hòa và không sử dụng vũ khí là điều kiện bắt buộc đối với một cuộc hội họp hòa bình.
Thứ năm, việc hội họp hòa bình hay biểu tình chỉ cần đăng ký theo thủ tục, trình tự pháp luật qui định.
2. Nội dung cơ bản của Luật biểu tình ở CHLB Đức
Từ cơ sở hiến định nêu trên, Luật biểu tình (LBT) của Cộng hòa liên bang Đức lần đầu tiên được đăng công báo ngày 24/7/1953[26], có hiệu lực thi hành từ ngày 10/8/1953.[27]
Về cấu trúc, Luật biểu tình năm 1953 gồm có 33 Điềuẵ Nội dung của Luật biểu tình đề cập đến bốn nội dung chính: Những qui định chung; quyền nghĩa vụ của những người tham gia biêu tình; quyên và nghĩa vụ của cảnh sát và xử lý vi phạm.
2.1. Những qui định chung
Nội dung biểu tình (Meinungskundgabe) về nguyên tắc là không bị gỉới hạn. Người biểu tình có thể biểu tình về bất cứ vấn đề gì thuộc phạm vi của quyền tự do ngôn luận (Meinungsfreiheit).[28]
Điều 1 Khoản 2 Luật biểu tình qui định các trường hợp cấm biểu tình như:
• chống lại trật tự dân chù tự do (freỉheỉtỉiche demokratische Grundordnung) đã được qui định tại Điều 18 Luật cơ bản;
• tham gia nhằm mục đích kêu gọi Tòa án hiến pháp tuyên bố giải tán một Đảng chính trị nào đó.[29]
• ủng hộ một đảng phái đã được Tòa án hiến pháp liên bang tuyên bố là đảng vi hiến và cấm hoạt động;
• tụ họp những hội mà theo Luật về Hội (Vereinsgesetz) và Điều 9 khoản 2 LCB đã cam hoạt động.
Ngoài ra, người tham gia biểu tình không được sử dụng vũ khí hay công cụ có tính bạo lực nào nhằm mục đích gây tồn thương hoặc làm thiệt hại tài sản của người khác hay tài sản công (Điều 2 LBT); không được mặc những trang phục, hoặc sử dụng những biểu tượng có tính chất thù địch về mặt chính trị (Điều 3 LBT).
Một điều kiện quan trọng trong Luật biểu tình là những nạười tham gia biểu tình phải có chung ít nhất một mục đích (gemeinsamer Zweck). Hiểu thế nào là chung mục đích? Theo Tòa án Hiến pháp liên bang, “chúng mục đích” là “sự ràng buộc về nội dung của những người tham gia biểu tình, cùng hướng tới ỉt nhất một mục đích cụ thể. ”[30] “Một cuộc biểu tình có mục đích chung” được hiểu là nhiều người cùng tham gia thể hiện chính kiến của mình trong quan hệ với trật tự dân chủ của nhà nước. Những sự kiện do tư nhân tổ chức mang tính giải trí, văn hóa không được gọi là biểu tình.[31]
Về số lượng người tham gia biểu tình, Luật cơ bản và Luật biểu tình đều không qui định rõ số lượng tối thiểu người tham gia biểu tình là bao nhiêu. Các nhà khoa học Luật Hiến pháp cho rằng cần căn cứ vào chính thuật ngữ “Versammlung”, có nghĩa là một tập họp, mà một tập hợp thi tối thiểu cần có ừ nhất hai người tham gia.3
2.2. Quyền và nghĩa vụ của đoàn biểu tình
Bất cứ ai biểu tình ở ngoài ười phải tiến hành thông bảo cho cơ quan có thầm quyền chậm nhất trước 48 giờ, ữong đó phải nêu rõ: ai là người trưởng đoàn, các thông tin về biểu tình và chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình (Điều 14 LBT). Việc sử dụng các biểu ngữ nội dung gì phải được thông báo trước cho cảnh sát khi tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về việc biểu tình (Điều 18 LBT).
Như vậy, ở Đức biểu tình không có nghĩa vụ phải xin phép (nicht genehmigungspýlìchtig), mà chỉ cần thông báo (Bekanntgabe).
Điểm đặc biệt trong Luật biểu tình ở Đức là đã xác định rõ: Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền là phai tồ chức các phương tiện giao thông tại nơi diễn ra biểu tình để đảm bảo an toàn cho cuộc biểu tình. Phán quyết số 69 của Tòa án hiến pháp liên bang đã nêu rõ “các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm tô chức, tạo mọi điêu kiện cho cuộc biểu tình diễn ra một cách ôn hòa”.[32] Đoàn biểu tình chỉ cần công bố rõ thời gian, địa điêm tồ chức biểu tình, còn việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông ra sao là thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước.
Một điểm khá lý thú là Luật biểu tình ở Đức qui định rất rõ về vai trò, quyền hạn và trách nhiệm cùa “người trưởng đoàn”, theo đó cuộc biểu tình nào cũng phải có một người trưởng đoàn, đây sẽ là người tổ chức tiến hành và chịu trách nhiệm về cuộc biêu tình. Ngươi trưởng đoàn sẽ chịu trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa, không vũ khí (Điêu 8, Điêu 19 LBT).
Trong quá trình biểu tình, trưởng đoàn có quyền dừng hoặc chấm dứt biểu tình bất cứ lúc nào, có thể tước quyền biểu tình của bất cứ ai có hành động gây rối, hoặc không tuân theo chỉ đạo cùa trưởng đoàn (Điều 8, Điều 19 LBT). Người bị trưởng đoàn đuổi khỏi đoàn biểu tình, phải có nghĩa vụ rời khỏi đoàn biểu tình ngay lập tức, cảnh sát sẽ hỗ trợ trưởng đoàn thực hiện đúng nhiệm vụ trong trường hợp người bị đuổi không tuân theo yêu cầu cùa trưởng đoàn biểu tình (Điều 11 LBT).
Ngoài ra, Luật biểu tình ở Đức cũng cho phép người trường đoàn có thể cử ra một số người trợ giúp biếu tình (Ordner) từ thành viên cùa đoàn biểu tình đó (Điều 9 Khoản 1 LBT). Những người trợ giúp biểu tình này phái được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền khi đăng ký biểu tình (Điều 18 Khoản 2 LBT). Trưởng đoàn phải chịu trách nhiệm thông báo cho cảnh sát về những người ứợ giúp biểu tình này (Điều 9 Khoản 2 LBT).
2.3. Quyền và nghĩa vụ của cảnh sát
Điều 15 Khoản 1 LBT qui định cơ quan có thẩm quyền có thể cấm biểu tình hoặc cho phép biểu tình có điều kiện khi tại thời điểm chuẩn bị tiến hành biểu tình hoặc đang biểu tình có những căn cứ rõ ràng cho thấy việc biểu tình là gây nguy hiểm trực tiếp cho “trật tự chung”.
Cũng có nhiều ừanh luận xung quanh thuật ngữ “trật tự chung” (ốữentliche Ordnung), vì nhiều nhà khoa học pháp lý Đức cho rằng đây là một thuật ngữ “không xác định”. Làm thê nào đê biêt được một hành vi có trực tiếp xâm phạm đến ừât tự chung hay không. Vê vân đề này, Tòa án Hiến pháp liên bang đã giải thích thuật ngữ trật tự chung qui định tại Điều 15 khoản 1 LBT ràng: “Đây không phải là cửa tử để hạn chế quyền biểu tình. Khi áp dụng vào trường hợp cụ thể, cơ quan có thầm quyền phải căn cứ vào những tiêu chuẩn định lượng của Luật hiến pháp như: phải có đủ cơ sờ pháp lý, có đủ bằng chứng thực tế xác minh, các biện pháp áp dụng phải tương xứng với hành vi vi phạm.”[33]
Ngay khi tuyên bố giải tán biểu tình, tất cả các thành viên lập tác phải rời khỏi nơi biểu tình (Điều 13 LBT). Trong quá trình biểu tình, không chỉ trưởng đoàn biểu tình mà cảnh sát cũng có thể yêu cầu người không tuân thủ các qui định về luật biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình (Điều 18 LBT).
Cơ quan công quyền cũng không có quyền quaỵ phim, chụp ảnh những người tham gia biêu tình, ngoại lệ chỉ khi có căn cứ thực tê cho răng việc biểu tình đang trực tiếp gây nguy hiểm trực tiếp cho an toàn và ừật tự chung (Điều 12a LBT).
yề địa điểm tiến hành biểu tình, Luật qui định rõ đoàn biểu tình không được tiến hành biểu tình tại các cơ quan lập pháp của liên bang hay của bang cũng như Tòa án Hiến pháp liên bang (Điêu 16 Khoản 1). Cũng nên phân biệt rõ rằng Luật chỉ cấm biểu tình chứ không cấm những hoạt động như lễ hội quần chúng được tổ chức định kỳ, lễ hành hương hoặc các hoạt động tôn giáo ngoài ừời được diễn ra ở những địa điểm này (Điều 17 LBT).
2.4. Xử lỷ vi phạm
Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi, Luật biểu tình của Đức phân biệt khá rõ xử lý hình sự và xử lý hành chính (Điều 29, Điều 29a LBT).
Nhằm đảm bảo trật tự và an toàn cho hoạt động biểu tình, các nhà làm luật Đức qui định rõ trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật biểu tình ở ngay trong Luật tại Điều 21 LBT: “Ai đe dọa, chia rẽ, gây trở ngại hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp phap băng các hành động bạo lực sẽ bị phạt tù đên 3 năm hoặc bị phạt tiền” Qui định này là đã xác định rõ chê tài đôi với bât kỳ ai, kê cà người thi hành công vụ xâm phạm quyền tự do biêu tình hiên định cùa người dân.
Về trách nhiệm của người tham gia biểu tình, sau khi đã có tuyên bố cấm biểu tình hoặc lệnh giải tán biểu tình đã được công bố, người nào tiếp tục chống đối bàng việc tiếp tục tiên hành biểu tình sẽ bị phạt tù đến 1 năm hoặc bị phạt tiền (Điều 23 LBT). Trưởng đoàn biêu tình hoặc người trợ giúp biêu tình mà sử dụng vũ khí hoặc công cụ bạo lực khác nhằm gâỵ thương tích cho người khác hoặc gây thiệt hại về tài sản của người khác sẽ bị phạt tù đến 1 năm hoặc bị phạt tiền (Điều 24 LBT).
Việc xử phạt hành chính được qui định cụ thể tại Điều 29 LBT. Khoản 1 điều này liệt kê những hành vi nào thì áp dụng xử lý hành chính và khoản 2 qui định mức xử phạt. Điều 30 Luật biểu tình là điều khoản chuyển tiếp. Điều này dẫn chiếu áp dụng Điều 74a của Bộ luật hình sự và Điều 23 luật xử phạt vi phạm hành chính.
3. Thực tiễn thực hiện quyền biễu tình
Trên cơ sở luật pháp và thực tiễn biểu tình ở Đức, Giáo sư Gerrỉt Manssen đã tổng kết một vài tình huống thực tiễn điển hình và cách thức giải quyết biểu tinh ở Đức35 như sau:
Các lý do cấm biểu tình
|
Thực tế giải quyết
|
1. Cảnh sát cấm biểu tình do lo ngại rằng sẽ có một đoàn biểu tình khác chống đối lại.
|
Kết luận: Trái luật. Cơ quan có thẩm quyền phải có ưách nhiệm thấy trước và buộc phải thấy trước khả năng có những cuộc biểu tình chống đối khác để tổ chức cho dân thực hiện quyền biểu tình của mình.
|
2. Cấm biểu tình do lo ngại rằng người tham gia biểu tình với số lượng quá lớn, đồng thời sẽ có những hành vi bạo lực (Gewalttãtigkeiten).
|
Kết luận: Chỉ đúng luật nếu cơ quan có thẩm quyền đưa ra đầy đủ bằng chứng cụ thể (konkrete Beweise), trong đó chứng minh một cách rõ ràng đoàn biểu tình đã có sự chuẩn bị mang theo vũ khí (Điều 15 Khoản 1 LBT).
|
3. Cấm biểu tình vì lý do nội dung của biểu tình (Meinimgskundgabe).
|
Kết luận: Trái luật. Nội dung biểu tình về vấn đề gì là không bị cấm, trừ khi nội dung biểu tình thuộc phạm vi bảo vệ của Điều 5 khoản 2 LCB về tự do ngôn luận.
|
4. Không cho phép những người
|
Kết luận: Trái luật. Nếu những người tham gia biểu
|
|
Gerrit Mansert, Staatsrecht II, Grundrechte, 7. Aufl., 2010, Rn. 488
|
biểu tình mặc quần áo giống nhau.
|
tình không vi phạm điều cấm về đồng phục qui định tại Điều 3 Luật biểu tình.
|
5. Không cho phép sử dụng cờ hoặc những vật dụng có gắn biểu tượng có tính chất thù địch trái Hiến pháp (verfassungsfeindliche Symbolen).
|
Kết luận: Đúng luật (theo Điều 86, 86a Bộ luật hình sự Đức).
|
6. Cấm những người tham gia biểu tình do sử dụng các dụng cụ như trống, kèn, đuốc, vợt bóng chày, dây xích chó.
|
Kết luận: Trái luật. Không có căn cứ cụ thể để nói rằng đây là những vũ khí nguy hiểmề
|
Thực tiễn thi hành quyền biểu tình rất đa dạng, bởi có rất nhiều cách thức khác nhau để con người biểu đạt thái độ, chính kiến của mình về một vấn đề nào đó. Từ đó cũng dễ hiểu khi có những trường hợp biểu tình mà luật biểu tình của Đức không có qui định cụ thể. Đây là những trường hợp mà việc xác định cuộc biểu tình đó có hợp pháp hay không phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án Hiến pháp và những phán quyết này hình thành nên án lệ về biêu tình ở Đức.
Dưới đây là một trường hợp cụ thể:
Vào một ngày đẹp trời, một người có quốc tịch Đức tên là M đã đến thông báo với cơ quan có thẩm quyên theo luật định sẽ cùng một số người khác tổ chức một cuộc biểu tình ôn hòa chông lại việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Wackersdorf. Mục đích của đoàn biểu tình là:"mong muốn những người xây dựng nhà máy và người dân thấy được sự nguy hiểm, tác hại của nhà máy điện hạt nhân." Tiêu ngữ của đoàn biểu tình này là:"Năng lượng mặt trời thay vì chắt phóng xạ" (Sonne statt Plutonium).
Vào ngày 23/6/1986, khoảng 6h sáng, một nhóm khoảng 30 người đã tiến hành biểu tình dưới hình thức ngồi xếp hàng dài (Sitzblockade) ở nhà máy tại Wackersdorf. Từ 6h30 đến 8h30, một vài người trong số đó có M xếp hàng trước cả lối ra vào nhà máy nhằm không cho những người công nhân đi xe tải vào khu đất xây dựng nhà máyẾ
Ngay sau đó, cành sát đã đến giải tán đoàn biểu tình. Tất cả những người biểu tình đều bị bát với lý do mà cảnh sát đưa ra là họ đã xâm phạm trật tự công cộng theo Điều 240 Bộ luật hình sự của Đức.
Tiếp đó, M còn bị Tòa án sơ thẩm của bang tuyên phạt tiền với số tiền tổng cộng là 700 DM (tương ứng 20 ngày công, mỗi ngày 35 DM).
Không chấp nhận bản án sơ thẩm, M đã khiếu kiện lên Tòa án hiến pháp liên bang để đề nghị giải quyết. M cho rằng ừong trường hợp này cả cảnh sát và Tòa án sơ thẩm ở Wackersdorf đã xâm phạm quyền tự do biểu tình của M, cũng như đoàn biểu tình.
Câu hỏi đặt ra là liệu trong trường hợp này quyền tự do biểu tình cùa M và nhóm biêu tình có bị vi phạm hay không?
Tòa án Hiến pháp liên bang ữong phán quyết BVerfG 104, 92 đã lập luận và tuyên án như sau:
Muốn biết được việc cảnh sát giải tán đoàn biểu tình có xâm phạm quyền tự do biểu tình hay không thì phải trở lại với các tiêu chí cụ thể như: phạm vi bảo vệ quyền biểu tình, mục đích chung của người tham gia biểu tình, thủ tục pháp lý liên quan và tính có căn cứ pháp luật hay không trong hành vi của cảnh sát cũng như của Tòa án sơ thẩm.
Thứ nhất, cần phải xem xét việc biểu tình có thuộc phạm vi bảo vệ của Điều 8 Khoản 1 Luật cơ bản và các qui định tương ứng trong Luật biểu tình không? Điều 8 Khoản 1 Luật cơ ban bảo vệ tât cả người Đức quyền được biêu tình một cách hòa bình và không sử dụng vũ khỉ. Vì M là người có quốc tịch Đức, do vậy M hoàn toàn thuộc phạm vi bao vệ của quyên này. Điêu 8 Khoản 1 Luật cơ bản cũng bảo vệ tất cả những dạng thức hành vi mà có quan hệ vật chất, trực tiếp đến việc biểu tình (unmittelbare sachliche Zusammenhang).
Thứ hai, cần xem xét cuộc biểu tình cùa nhiều người có chung mục đích không? Trong trường hợp này, thông qua biêu ngữ, hành động của tất cả những người tham gia biểu tình (những yếu tố khách quan) và thông qua động cơ, mục đích họ la mong mùon cảnh báo vê mức độ nguy hiêm của việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở đây (những yếu tố chù quan), hoàn toàn có thể khẳng định rằng họ có chung mục đích.
Thứ ba, về mặt thù tục cần xem xét việc biểu tình đã thực hiện đúng thủ tục luật định chưa? Thực tê M đã thông báo biểu tình với cơ quan có thẩm quyền trước 48 giờ. Như vậy việc biểu tình là phù hợp vói Điều 14 Khoản 1 Luật biểu tình của liên bang (Bundesversammlungsgesetz) về thủ tục đăng ký biểu tình[34]
Thứ tư, phải xem xét việc xếp hàng dài và ngồi án ngữ trước cửa ra vào nhà máy liệu có phải là hành vi biểu tình một cách ôn hòa hay không? vấn đề này, Tòa án hiến pháp liên bang đã viện dẫn Điều 5 khoản 3 Luật biểu tình (Versammlungsgesetz) để chứng minh khả năng loại trừ. Điều khoản này qui định những cuộc biểu tình đươc coi là không ôn hòa khi những hành vỉ của những người tham gia có tính chắt gây nguy hiểm (Gefăhrlỉchkeit), chống lại người khác, xâm hại tài sàn công hay tài sản của người khác hoặc bât cứ hành vi có tính chất bạo lực nào. Dựa trên căn cứ này, hành động cùa đoàn biêu tình rõ ràng chưa gây nguy hiểm trực tiếp và vì thế phải được coi là biểu tình ôn hòa. Cảnh sát do vậy chưa có đủ căn cứ pháp lý rõ ràng để tiến hành giải tán hay băt giữ đoàn biêu tình.
Thứ năm, Điều 240 Khoản 1 Bộ luật hình sự qui định rất rõ điều kiện: "dùng vũ lực" (mỉt Gewaỉt). Những người tham gia biểu tình ở đây không trang bị vũ khí và cũng không dùng bất cứ hình thức vũ lực nào để chống đối, do vậy việc nói rằng đoàn biểu tình gây rối ừật tự công cộng theo Điều 240 Bộ luật hình sự và việc Tòa án yêu cầu nộp phạt 700 DM cũng là không có cơ sở pháp luật.
Căn cứ vào những lập luận ừên, Tòa án hiến pháp liên bang đã đưa ra phán quyết: Thứ nhất, đoàn biểu tình không vi phạm pháp luật về biểu tình; Thứ hai, hành động giải tán, bắt giữ những người biểu tình và phạt tiền họ là không có đù cơ sở pháp lý.[35]
Từ ngày phán quyết này của Tòa án Hiến pháp liên bang có hiệu lực, các giáo trình Luật hiến pháp cũng như các tài liệu liên quan cũng đã liệt kê hình thức biêu tình ngôi xếp hàng (Sitzblockade) thuộc phạm vi bảo vệ của Điêu 8 Khoản 1 Luật cơ bàn. Hay nói cách khác đó là hình thức biểu tình được pháp luật ở Đức bảo vệ.[36]
Tóm lại, từ việc nghiên cứu về pháp luật biểu tình ở Đức có thể rút ra một vài kết luận sau:
1. Ở CHLB Đức biểu tình là một dạnạ của tự do hội họp hòa bình (Versammlungsữeiheit). Điều 8 Luật cơ bản Đức (LCB) qui định ve tự do hội họp hòa bình. Qui định này minh thị rõ hội họp hòa bình là quyền của công dân, đồng thời khẳng định nghĩa vụ của nhà nước phải tạo điều kiện để người dân được thực hiện quỵền này.
2. Một đạo luật ở liên bang có tên Luật biêu tình (LBT) được thông qua và có hiệu lực từ năm 1953 gồm có 33 Điều đề cập đến bốn nội dung chính: Những qui định chung; quyền nghĩa vụ của những người tham gia biểu tình; quyền và nghĩa vụ của cảnh sát và xử lý vi phạm.
3. Người tham gia biểu tình không được sử dụng vũ khí hay công cụ có tính bạo lực nào nhằm mục đích gây tổn thương hoặc làm thiệt hại tài sản cùa người khác hay tài sản công (Điều 2 LBT); không được mặc những trang phục, hoặc sử dụng những biểu tượng có tính chất thù địch về mặt chính trị (Điều 3 LBT).
4. Người biểu tình có thể biểu tình về bất cứ vấn đề gì thuộc phạm vi của quyền tự do ngôn luận (Meinungsửeiheit) trừ ừường hợp: chống lại ừật tự dân chủ tự do đã được qui định tại Điều 18 Luật cơ bản; tham gia nhằm mục đích kêu gọi Tòa án hiến pháp tuyên bố giải tán một Đảng chính trị nào đó hoặc ủng hộ một đảng phái đã được Tòa án hiến pháp liên bang tuyên bố là đảng vi hiến và cấm hoạt độngằ Những người tham gia biểu tình phải có chung ít nhất một mục đích (gemeinsamer Zweck) tức là nhiều người cùng tham gia thể hiện chính kiến của mình ừong quan hệ với ứật tự dân chủ cùa nhà nước.
5. Ở Đức biểu tình không có nghĩa vụ phải xin phép (nicht genehmigungspílichtig), mà chỉ cần thông báo (Bekanntgabe). Bất cứ ai biểu tình ở ngoài ứời phải tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền chậm nhất trước 48 giờ, trong đó phải nêu rõ: ai là người trưởng đoàn, các thông tin về biểu tình và chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình (Điều 14 LBT). Việc sử dụng các biêu ngữ nội dung gì phải được thông báo trước cho cảnh sát khi tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về việc biểu tình (Điều 18 LBT). Đoàn biểu tình chỉ cần công bố rõ thòi gian, địa điểm tổ chức biểu tình, còn việc đảm bảo ứật tự an toàn giao thông ra sao là thuộc ưách nhiệm cùa cơ quan nhà nước. Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền là phải tổ chức các phương tiện giao thông tại nơi diễn ra biểu tình để đảm bảo an toàn cho cuộc biểu tình. Phán quyết số 69 của Tòa án hiến pháp liên bang đã nêu rõ “các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm tổ chức, tạo mọi điều kiện cho cuộc biểu tình diễn ra một cách ôn hòa”.
6. Cuộc biểu tình nào cũng phải có một người trưởng đoàn, đây sẽ là người tồ chức tiến hành và chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình. Người trưởng đoàn sẽ chịu trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa, không vũ khí (Điều 8, Điều 19 LBT). Trong quá trình biểu tình, Irưởng đoàn có quyền dừng hoặc chấm dứt biểu tình bất cứ lúc nào, có thể tước quyền biểu tình của bất cứ ai có hành động gây rối, hoặc không tuân theo chỉ đạo cùa trưởng đoàn (Điều 8, Điều 19 LBT).
7. Điều 15 Khoản 1 LBT qui định cơ quan có thẩm quyền có thể cấm biểu tình hoặc cho phép biểu tình có điều kiện khi tại thời điểm chuẩn bị tiến hành biểu tình hoặc đang biểu tình có những căn cứ rõ ràng cho thấy việc biểu tình là gây nguy hiểm trực tiếp cho “trật tự chung”. Khi áp dụng vào trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào những tiêu chuân định lượng của Luật hiên pháp như: phải có đủ cơ sở pháp lý, có đủ bằng chứng thực tế xác minh, các biện pháp áp dụng phải tương xứng với hành vi vi[37]
8. Ngay khi tuyên bố giải tán biểu tình, tất cả các thành viên lập tức phải rời khỏi noi biêu tình (Điêu 13 LBT). Trong quá trình biểu tĩnh, không chỉ trưởng đoàn biểu tình mà cảnh sát cũng có thể yêu cầu người không tuân thủ các qui định về luật biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình (Điều 18 LBT). Cơ quan công quyền cũng không có quyền quay phim, chụp ảnh những người tham gia biểu tình, ngoại lệ chỉ khi có căn cứ thực tế cho rằng việc biểu tình đang trực tiêp gây nguy hiểm trực tiếp cho an toàn và ừật tự chung (Điều 12a LBT).
9. Nhằm đảm bảo trật tự và an toàn cho hoạt động biểu tình, các nhà làm luật Đức qui định rõ trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật biểu tình ở ngay ưong Luật tại Điều 21 LBT: “Ai đe dọa, chia rẽ, gây trở ngại hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp pháp bằng các hành động bạo lực sẽ bị phạt tù đến 3 năm hoặc bị phạt tiền.” Qui định này là đã xác định rõ chế tài đối với bât kỳ ai, kê cả người thi hành công vụ xâm phạm quyên tự do biểu tình hiến định cùa người dân.
10. Thực tiễn thi hành quyền biểu tình rất đa dạng, có những trường hợp biểu tình mà luật biểu tình của Đức không có qui định cụ thể. Việc xác định cuộc biểu tình đó có hợp pháp hay không phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án Hiến pháp và những phán quyêt này hình thành nên án lệ vê biêu tình ở Đức.