Quan trọng là Nhà nước đảm bảo rằng các nhân viên công vụ hành chính và thực thi pháp luật được đào tạo về tôn trọng quyền tự do hội họp ôn hòa. Ở những nước áp dụng cơ chế phê duyệt, Báo cáo viên đặc biệt tin rằng các nhân viên hành chính chịu trách nhiệm phê duyệt (yêu cầu hội họp) phải được giám sát thường xuyên để đảm bảo rằng họ không tùy tiện từ chối các yêu cầu tổ chức hội họp ôn hòa tại nơi công cộng (ví dụ, ở Slovenia), ở điểm này, một hội thảo về thực thi luật về hội họp ôn hòa với sự tham gia của các nhân viên hành chính công cụ đã được tổ chức ở Slovenia. Báo cáo viên đặc biệt lưu ý với sự hài lòng rằng, ở hầu hết các nước ữả lời bản khảo sát, các hoạt động xây dựng năng lực về luật nhân quyền quốc tế, đôi khi có cả luật nhân đạo quốc tế, được tổ chức cho những người thi hành luật, thường là với học viện cảnh sát, và các cơ quan chức năng khác (ví dụ ở Bờ Biển Ngà, Croatia, Cuba, Estonia, Honduras, Đức, Guatemala, Iraq, Mexico, Morocco, Peru, Senegal, Tây Ban Nha, Thụy Sỹ, Vương Quốc Anh và Uruguay). Việc đào tạo cũng được tổ chức trong khuôn khổ hợp tác với các cơ quan nhân quyền quốc gia (như ở Đan Mạch, Hungary, Indonesia, Iraq, Malaysia, Mexico, Nepal, New Zealand, lãnh thổ Palestin, Paraguay, Cộng hòa Tanzania và Uganda), với Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ (ở Mexico và Uganda), Văn phòng OSCE/ODIHR (ở Armenia và Bulgaria), với ủy ban châu Âu (vd Bulgaria), với các NGO (vd Armenia, Bulgaria, Canada, Croatia, Đan Mạch, Malaysia và Serbia), với các trường đại học (ví dụ ở Morocco và Mexico), và ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế (Peru). Báo cáo viên đặc biệt nhấn mạnh nhu cầu tiếp tục cung cấp các khóa đào tạo.
Nhiều sáng kiến hay đã được Báo cáo viên đặc biệt chú ý, và những sáng kiến này cần được nhân rộng, ở Burkina Faso, một seminar về “Biểu tình ở công cộng và nhân quyền: chiến lược nào để hợp tác tốt hơn giữa các bên” đã được Bộ Tư pháp và Thúc đẩy Nhân quyền tổ chức dành cho lực lượng an ninh và NGO. Ở Slovenia, các sáng kiến đào tạo cho lực lượng thi hành pháp luật về sử dụng các công cụ kiểm soát không gây chết người (như gậy, khí ga và vòi rồng) khi duy trì trật tự công cộng đã được tổ chức, ở Anh, cảnh sát của nhiều hạt đã bổ nhiệm một luật sư nhân quyền để tư vấn cho họ về tính hợp pháp cũng như tác động nhân quyền của những hoạt động gìn giữ trật tự công cộng quy mô lớn liên quan đến các cuộc biểu tình có tính chất phức tạp và gây tranh luận.
Báo cáo viên đặc biệt cũng cân nhắc các thực hành tốt trong các tài liệu đào tạo được xây dựng với quan điểm ngăn chặn những cách đối xử và biện pháp mang tính phân biệt đối xử với phụ nữ, người chưa thành niên, người khuyết tật, dân tộc bản địa, những cá nhân và nhóm thuộc về thiểu số và các nhóm ở bên lề (ví dụ ở Mexico, Serbia, Slovenia và Tây Ban Nha).
Báo cáo viên đặc biệt tham chiếu báo cáo trình Đại hội đồng Liên Hợp quốc của Đại diện đặc biệt của Tổng thư ký về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền, trong đó tuyên bố “giám sát các hội họp có thể đưa ra những thông tin vô tư và khách quan về việc chuyện gì đã diễn ra, bao gồm các bản ghi lại các dữ kiện về hành xử của cả người tham gia và người thi hành công vụ” Đây là một đóng góp giá trị đối với việc thụ hưởng có hiệu quả quyền tự do hội họp. Sự hiện diện nổi bật của những người giám sát nhân quyền trong các cuộc biểu tình có thể làm giảm các vi phạm nhân quyền. Vì vậy, việc cho phép những người bảo vệ nhân quyền hoạt động tự do trong điều kiện thực hành tự do hội họp đóng vai trò rất quan trọng” (A/62/225, đoạn 91).63 Người bảo vệ nhân quyền bao gồm thành viên của các tổ chức xã hội dân sự, các “nhà báo công dân”, blogger và đại diện của các cơ quan nhân quyền quốc gia.
Về mặt này, Báo cáo viên đặc biệt coi thực hành tốt là việc mời London Metropolitan Police to Liberty (Người canh giữ tự do khu vực thành phố London), một tổ chức nhân quyền độc lập, để hoạt động với tư cách quan sát viên độc lập trong quá trình giữ trật tự một cuộc diễu hành của Đại hội các công đoàn ở London năm 2010. Ông cũng nhắc đến tuyên bố của Phó chủ tịch ủy ban Nhân quyền Malaysia (SUHAKAM) trong một thảo luận chuyên gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh biểu tình ôn hòa, tại kỳ họp thứ 19 của Hội đồng Nhân quyền (A/HRC/19/40, đoạn 33). Vị Phó chủ tịch nhấn mạnh vai trò giám sát của SUHAKAM trong các cuộc biểu tình công cộng nhạy cảm bằng cách sử dụng các đội quan sát.
Ở điểm này, Báo cáo viên đặc biệt ủng hộ kêu gọi của Nhóm chuyên gia ODIHR về việc tiến hành các hoạt động xây dựng năng lực cho các NGO và người bảo vệ nhân quyền làm việc ứên thực tế để giám sát một cách có hệ thống việc hội họp và việc canhh giữ ưật tự cho hội họp. về việc này, ODIHR đã đào tạo những người giám sát việc hội họp ở Armenia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan và cộng hòa Moldova, và xuất bản cuốn sổ tay Giám sát tự do Hội họp bản mới vào tháng 9 năm 2011.
Báo cáo viên đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội là trụ cột của bất kỳ nền dân chủ nào.
Báo cáo viên đặc biệt kêu gọi các nhà nước:
(a) Công nhận rằng các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội đóng một vai trò quyết định trong việc phát triển và tồn tại của các hệ thống dân chủ hiệu quả vì các quyền này chính là phương tiện cho phép đối thoại, đa nguyên, khoan dung và tư duy cởi mở, là noi những quan điểm hay niềm tin của thiểu số hay trái chiều được tôn trọng;
(b) Đảm bảo rằng mỗi người, và bất cứ chủ thể nào dù đăng ký hay không, bao gồm phụ nữ, thanh niên, dân tộc bản địa, người có khuyết tật, người thuộc về các nhóm thiểu số hay các nhóm có rủi ro, bao gồm nạn nhân của việc phân biệt đối xử vì xu hướng tính dục và bản dạng giới của họ, những người ngoại quốc, cũng như những người hoạt động vận động vì các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa;
(c) Đảm bảo rằng không ai bị hình sự hóa vì thực hành các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội, cũng như bị đe dọa hay sử dụng bạo lực, sách nhiễu, bị khủng bố, đe dọa hay trả thù;
(d) Định nghĩa tội khủng bố một cách rõ ràng và hẹp theo đúng luật quốc tế;
(e) Đảm bảo rằng bất kỳ giói hạn nào lên các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội đều phải được quy định bởi luật, là cần thiết trong một xã hội dân chủ, và cân xứng với mục đích, và không tổn hại đến các nguyên tắc đa nguyên, khoan dung và tư duy cởi mờ. Bất kỳ giói hạn nào cũng cần có thể được xem xét bởi một tòa án độc lập, vô tư và nhanh chóng;
(f) Đảm bảo không thực hành đình chỉ với quyền sống và quyền không bị ừa tấn hay trừng phạt hoặc đối xử vô nhân đạo, tàn bạo hay hạ nhục;
(g) Hỗ trợ các cá nhân thực hành các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội bằng việc bào vệ quyền tự do biểu đạt;
(h) Đảm bảo rằng các công chức hành chính và thi hành luật được đào tạo thích đáng về việc tôn trọng các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội;
(i) Đảm bảo rằng người thẩm quyền thực thi pháp luật mà vi phạm các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân đầy đủ về những vi phạm này trước một cơ quan giám sát dân chủ và độc lập, và trước tòa án;
0) Đảm bảo rằng nạn nhân bị vi phạm các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội có quyền có biện pháp khắc phục hiệu quả; và được bồi hoàn;
(k) Công nhận rằng các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội có thể được thực hành qua các công nghệ mới, bao gồm qua mạng Internet.
85. Các cơ quan nhân quyền quốc gia theo Các nguyên tắc Paris cần đóng một vai trò ừong việc thúc đẩy và giám sát thực thi các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội và trong việc tiếp nhận và điều tra các cáo buộc vi phạm nhân quyền.
86. Các cơ quan LHQ, các thiết chế và cơ chế của LHQ cần tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội. Đặc biệt là ủy ban Nhân quyền cần xem xét xây dựng các bình luận chung về các điều 21 và 22 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. cần chú ý hơn tới các vi phạm cả hai quyền này trong khuôn khổ Kiểm điểm Định kỳ phổ quát.
87. Cộng đồng quốc tế cần cân nhắc nghiêm túc việc thông qua các nguyên tắc định hướng về quyền tự do hội họp ôn hòa và tự do hiệp hội, thông qua tham vấn vói tất cả các bên liên quan.
B. Khuyến nghị cụ thể
1. Tự do hội họp ôn hòa
88. Giả định có lợi cho việc tổ chức hội họp ôn hòa cần được đưa vào luật một cách rõ ràng và cụ thể.
89. Các Nhà nước cần hỗ trợ và bảo vệ các cuộc hội họp ôn hòa, bao gồm thông qua các đàm phán và hòa giải. Khi còn có thể, cơ quan có thẩm quyền thi hành luật không được dùng đến vũ lực trong các hội họp ôn hòa và đảm bảo rằng “nếu vũ lực là cần thiết, không ai phải là đối tượng của việc sử dụng vũ lực quá mức hoặc không phân biệt” (Nghị quyết 19/35 của Hội đồng Nhân quyền, đoạn 6).
90. Việc thực hành quyền tự do hội họp ôn hòa không phải qua phê duyệt trước bởi cơ quan có thẩm quyền, tối đa là áp dụng thủ tục báo trước, nhưng thủ tục ấy phải không phức tạp. Trong trường hợp một cuộc hội họp không được tổ chức hay bị hạn chế, cần có văn bản giải thích cụ thể và kịp thời, và quyết định ấy phải có thể kháng nghị trước một tòa án vô tư và độc lập.
91. Hội họp tức thì cần phải được công nhận bởi pháp luật, và miễn thông báo trước.
92. Hội họp tức thời phải được cho phép, bảo vệ và hỗ trợ, bất cứ kỳ nào có thể.
93. Người tổ chức và tham gia hội họp không phải chịu ữách nhiệm và bị truy cứu về hành vi bạo lực của người khác.
94. Nhà nước cũng phải đảm bảo rằng việc bảo vệ những người giám sát và báo cáo về việc vi phạm quyền tự do hội họp ôn hòa.
2. Tiêu chuẩn và Hướng dẫn của OSCE về tự do hội họp hòa bình
OSCE là tên viết tắt cùa Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu, và bản hướng dẫn này được soạn thảo bởi Văn phòng thể chế dân chủ và quyền con người thuộc OSCE vào năm 2007.
3. Quyền tự do hội họp hòa bình và ỷ nghĩa của quyền này
Thuật ngữ “tự do hội họp hòa bình” được sử dụng tương đương như quyền được hội họp hòa bình. Điều này nhấn mạnh rằng bất kỳ quyền hội họp nào đều được dựa trên nền tảng của một tự do cơ bản mà sự cần thiết thể hiện ở chỗ nó cần được sự ủng hộ hoàn toàn mà không bị can thiệp gây cản trở. Sự tham gia của mọi người vào những cuộc hội họp công cộng nên là tự nguyện hoàn toàn.
Việc hội họp hòa bình có thể phục vụ cho nhiều mục đích, bao gồm (nhưng không giới hạn) việc thể hiện quan điểm và bảo vệ lợi ích chung, lễ kỷ niệm, ngăn cản hay phản đối. Quyền này được hỗ trợ bởi các quyền và các tự do khác như tự do liên minh, quyền thành lập và duy trì liên lạc trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, tự do ngôn luận, (và tự do tư tưởng, đạo đức và tôn giáo.) Như vậy, tự do hội hội họp có tầm quan trọng cơ bản cho sự phát triển nhân phẩm cá nhân, và sự phát huy của mỗi cá nhân cũng như sự tiến bộ phúc lợi của xã hội.
Quyền này tạo điều kiện giao lưu đối thoại trong xã hội dân chủ, cũng như giữa xã hội dân chủ, các thủ lĩnh chính trị và chính phủ, giúp gia tăng khả năng giao tiếp với thế giới nói chung, và ở những nước mà các phương tiện truyền thông bị hạn chế hoặc bị ngăn cấm, tự do hội họp là rất quan trọng cho những người muốn thu hút sự chú ý đến các vấn đề của địa phương.
Ngoài việc phục vụ lợi ích của dân chủ, khả năng tự do liên kết, tập hợp với nhau cũng rất quan trọng để tạo ra một xã hội văn minh trong đó các nhóm với sự đa dạng, thậm chí mâu thuẫn nhưng vẫn có thể tồn tại cùng nhau trong không khí hòa bình.
1.2. Đinh nghĩa và phân loại cơ bản về hội họp.
Theo mục đích của Hướng dẫn, một hiệp hội là “sự hiện diện có chủ ý và tạm thời của một số cá nhân ở một nơi nào đó không phải là một tòa nhà hoặc một công trình nhằm mục đích thể hiện thông thường”.
Định nghĩa về một cuộc hội họp đòi hỏi phải có sự hiện diện của ít nhất hai người.
Có nghĩa nếu chỉ một người biểu tình cá nhân là việc thực hiện quyền của người đó về tự do biểu đạt, và cá nhân này cũng có quyền được bảo vệ tương tự như những nhóm người tập hợp lại với nhau như là một phần của một cuộc hội họp.
Một loạt các hoạt động được bào vệ bởi quyền tự do hội họp hòa bình, bao gồm cà những cuộc hội họp “tĩnh” (chẳng hạn như các cuộc họp, các hoạt động đoàn thể, các cuộc biểu tình, tuần hành, đình công) và cuộc hội họp di động (như các cuộc diễu hành, đám tang, đám cưới, hành hương, và các đoàn xe). Những ví dụ này không toàn diện, và pháp luật trong nước có thể nhấn mạnh sự cần thiết về cách hiểu toàn diện và mở rộng của các “cuộc hội họp”. Nhưng trong đó, cần làm nổi bật thuật ngữ “tạm thời” ám chỉ các trại hoặc công trình xây dựng tạm thời khác như lều bạt, hàng rào.
Trên thực tế, biểu tình công khai và tự do hội họp nói chung, nên được coi là sử dụng không gian công cộng hợp pháp như các mục đích bình thường mà không gian công cộng được sử dụng (ví dụ như người đi bộ và phương tiện giao thông). Thậm chí nếu các tài sản tư nhân có khả năng cung cấp địa điểm cho các cuộc tụ họp, tất nhiên, với sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản, và phải tuân theo pháp luật về an toàn và sức khỏe và luật chống phân biệt đối xừ. Đồng thời, các quy định trong luật trật tự công và pháp luật hình sự cũng sẽ thường áp dụng đối với tài sản tư nhân để đảm bảo rằng những hành động thích hợp có thể được áp dụng nếu các sự kiện trên gây hại đến tài sản của các thành viên khác trong xã hội.
1.3. Hội họp hòa bình và hội họp bất hợp pháp khác nhau như thế nào?
Chỉ cỏ hội họp hòa bình mới được bảo vệ bởi quyền tự do hội họp. Một cuộc hội họp được coi là hòa bình khi những người tổ chức của cuộc hội họp đó có ý định hòa bình. Điều này nên được giả định như vậy trừ khi có bằng chứng thuyết phục và có thể chứng minh rằng những người tổ chức hoặc người tham gia vào một sự kiện cụ thể sẽ sử dụng, ủng hộ, hoặc kích động bạo lực. Thuật ngữ “hòa bình” nên được hiểu bao gồm các hành vi có thể liên quan đến kháng cự thụ động (trước sự tấn công của bên thứ ba), hoặc ngồi phong tỏa.
Các cuộc hội họp trái pháp luật. Rõ ràng, việc hội họp được cho là không hòa bình cũng sẽ là trái pháp luật vì nếu được chửng minh có thể sẽ có bạo lực sắp xảy ra. Tuy nhiên, hội họp được coi là hòa bình vẫn có thể có khả năng là trái pháp luật. Điều này có thể là do: (1) hiệp hội không tuân thủ các điều kiện về thủ tục theo pháp luật; hoặc (2) nó theo đuổi một mục tiêu tự nhận là trái pháp luật ví dụ khi mà nội dung hoặc thông điệp của cuộc hội họp thể hiện tính trái pháp luật như cấu thành tội phạm hình sự hoặc thể hiện tính kích động người khác thực hiện một hành vi phạm tội, cụ thể như:
- Việc kêu gọi lật đổ Hiến pháp bằng bạo lực là cơ sở để áp đặt những giới hạn. Trong khi những hội họp kêu gọi cải cách Hiến pháp bằng cách thức ôn hòa thì nên được bảo vệ.
- Các cuộc hội họp công cộng thể hiện sự thủ hận như ủng hộ thù hằn dân tộc, chủng tộc, tôn giáo dẫn đến kích động sự phân biệt đối xử, hành vi thù địch hoặc bạo lực đều phải bị cấm bởi pháp luật.
1.3. Các nguyên tắc chung
Tôn trọng các nguyên tấc chung được thể hiện trong tất cả các khía cạnh soạn thảo, giải thích và áp dụng pháp luật về tự do hội họp. Việc giải thích và áp dụng đòi hỏi phải có sự hiểu biết rõ ràng về các nguyên tắc này. Trong đó, có ba nguyên tắc cơ bản phải được nêu rõ trong pháp luật điều chỉnh tự do hội họp: (1) Giả định có lợi cho việc tổ chức hội họp; (2) Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ những cuộc hội họp hòa bình; và (3) nguyên tắc tương xứng.
1.3.1. Già định có lợi cho việc tổ chức hội họp
Với tư cách một quyền cơ bản, tự do hội họp nên được thụ hưởng trong phạm vi tối đa có thể, kể cả nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Nghĩa là bất cứ điều gì rõ ràng không bị cấm thì nên được cho phép thực hiện. Nguyên tắc giả định có lợi nên được quy định rõ ràng trong luật. Ở nhiều quốc gia, điều này được bảo đảm bằng Hiến pháp, nhưng cũng có thể chi cần đưa vào thành một nguyên tắc trong đạo luật chuyên ngành điều chỉnh về tự do hội họp. Các cơ quan áp dụng pháp luật nên hiểu theo nguyên tắc này để tạo điều kiện cho những cá nhân muốn tham gia hội họp hòa bình. Nguyên tắc này được khăng định trong luật của một số nước như Romania và Armenia.
1.3.2. Nguyên tắc nghĩa vụ bảo vệ hội họp hòa bình của nhà nước
Nhà nước có nghĩa vụ chủ động trong bảo vệ tích cực các hiệp hội, hội họp hòa bình. Chẳng hạn như Nhà nước có nhiệm vụ tích cực thực hiện các biện pháp hợp lý và phủ hợp để cho phép các cuộc biểu tình hợp pháp diễn ra mà không có người tham gia nào lo sợ có sự bạo lực. Nguyên tắc này nên được thể hiện ứong các văn bản pháp luật cỏ liên quan về tự do hiệp hội và quyền lực của cảnh sát. Nghĩa vụ bảo vệ của nhà nước cũng thể hiện ở việc đào tạo cho các nhân viên công vụ khả năng đối phó với các cuộc hội họp công cộng và xây dựng nề văn hóa thực thi pháp luật ưu tiên bảo đảm các quyền con người. Điều này không chi bao gồm việc được đào tạo những kỹ năng quản lý đám đông mà còn bảo đảm nhận thức đầy đủ về trách nhiệm để tạo thuận lợi cho việc thực hiện hội họp ôn hòa.
1.3.3. Tính tương xứng
Bất kỳ sự giới hạn nào đối với tự do hội họp phải bảo đảm được tính tương xứngề Với những biện pháp can thiệp phải phù hợp, ít nhất là ở phương thức can thiệp phải đạt được các mục tiêu mà lập pháp đề ra và luôn được ưu tiên.
Các cơ quan chức năng cần phải hiểu là họ có thể đặt ra một chuỗi các biện pháp hạn chế chứ không đơn thuần chỉ là đánh giá việc không can thiệp hay cấm. Nguyên tắc tương xứng yêu cầu chính quyền không thường xuyên áp đặt các hạn chế mà có thể dẫn đến thay đổi bản chất của sự kiện, chẳng hạn như định tuyến một cuộc tuần hành ra xa khu trung tâm thành phố.
Nguyên tắc này không trực tiếp cân bằng giữa quyền với những lý do để can thiệp, mà thay vào đó cân bằng giữa bản chất, phạm vi của những can thiệp với những lý do của việc can thiệp. Do đó, việc áp dụng những hạn chế pháp lý (như cấm các cuộc biểu tình trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc ở địa điểm công cộng) có xu hướng quá toàn diện mà có thể sẽ không đảm bảo được tính tương xứng do không được cân nhắc dựa ưên những trường hợp cụ thể.
1.3.4. Tính hợp pháp
Bất cứ sự giới hạn nào cũng phải được quy định chính thức trong luật. Luật phải rõ ràng để một cá nhân có thể xác định hành vi của họ là hợp pháp hay không hợp pháp và thấy được hậu quả có thể phải gánh chịu nếu vi phạm. Do đỏ, các định nghĩa trong luật không nên quá phức tạp hay quá rộng để đảm bảo sự dễ hiểu.
Bất cứ hạn chế nào nên được quy định chính thức và thông báo cho những người tổ chức sự kiện. Việc áp đặt một hạn chế, các biện pháp trừng phạt sau sự kiện hội họp là điều không được phép.
1.3.5. Quản trị tốt, ban hành quyết định minh bạch và tiếp cận công lý
Công chúng cần được biết cơ quan nào chịu ữách nhiệm đưa ra quyết định về quy chế tự do hội họp. Điều này phải được nêu rõ trong luật. Các cơ quan quản lý phải đảm bảo
công chúng có khả năng tiếp cận thông tin đáng tin cậy về các hội họp công khai. Nhiều quốc gia đã có luật cụ thể liên quan đến tiếp cận thông tin, quá trình ra quyết định mở, và quản trị tốt. Các luật này nên được áp dụng với tự do hội họp.
Sự minh bạch về thủ tục cần đảm bảo ràng quyền tự do hội họp hòa bình không bị hạn chế trên cơ sở sự rủi ro do tưởng tượng hay thậm chí rủi ro thực tế mà nếu có cơ hội được đưa ra, có thể được giảm đáng kể trước sự kiện này.
1.3.5. Không phân biệt đổi xử
Đây là nguyên tắc chung của luật nhân quyền quốc tế. Mọi người được thụ hưởng như nhau đối với tự do hội họp. Điều 26 ICCPR và 14 ECHR yêu cầu mỗi quốc gia phải bảo đảm mọi người đều có khả năng tham gia thụ hưởng các quyền con người theo các văn kiện này mà không chịu sự phân biệt đối xử nào.
Các cơ quan quản lý (vì lý do không phân biệt đối xử) không được áp đặt các điều kiện về thủ tục một cách nặng nề, phiền hà đối với một số người có nhu cầu hội họp.
5.5. Những giới hạn về tự do hiệp hội
5.5.1. Những giới hạn trong bổi cảnh thông thường
Những lý do cho việc giới hạn quyền đã được quy định ttong các văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực, do đó không nên được quy định bổ sung những lý do khác ừong pháp luật quốc gia. Những giới hạn chính đáng được liệt kê trong Điều 21 ICCPR và Điều ECHR gồm:
- Trật tự công cộng. Không được viện dẫn lý do này để ngăn cấm hoặc xóa bò tự do hiệp hội hòa bình. Giới hạn chỉ nên được áp đặt vì trật tự công cộng khi người tham gia ừong hội họp kích động hành động phi pháp và hành động như vậy có thể xảy ra. Điều này tương tự nguyên tắc số 6 trong bộ nguyên tắc Johannesburg về an ninh quốc gia, tự do biểu đạt và tiếp cận thông tin.
- Sự an toàn của công chúng.
- Bào vệ sức khỏe và đạo đức. Các biện pháp bảo vệ vì lý do đạo đức xã hội cũng phải đáp ứng một tiêu chuẩn khách quan cho dù chúng đáp ứng một nhu cầu xã hội bức thiết và tuân thủ các nguyên tắc tương xứng.
- Bảo vệ các quyền và tự do của người khác.
- An ninh quốc gia. Lý do an ninh quốc gia thường được quy định một cách quá rộng liên quan đến tự do hội họp. Theo các nguyên tắc 7, 8, và 9 trong Bộ nguyên tắc Johannesburg về an ninh quốc gia, tự do biểu đạt và tiếp cận thông tin thì những ví dụ dưới đây có thể không liên quan hoặc không là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia:
+ Sự vận động đom thuần với những thay đổi trong chính sách của chính phủ, mà bản thân sự vận động đó không trực tiếp kích động sự vi phạm pháp luật hoặc không dẫn đến mối đe dọa nguy hại trước mắt.
+ Sự chi trích, công kích quốc gia, nhà nước hay những biểu tượng của nhà nước, chính phủ, các cơ quan thuộc chính phủ, hoặc nhân viên công vụ, hoặc quốc gia -