Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
  • Thư viện điện tử và kho tin
  • Đề tài nghiên cứu cấp bộ
  • Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước
  • Tham khảo tạp chí
  • Sách toàn văn
  • Thư điện tử
  • Chính phủ

Chuyển biến nhận thức của người dân về vấn đề Quyền con người

PGS. TS. Phạm Hữu Nghị

10/08/2016

Buôn Ma Thuột, ngày 27/12/2014

CHUYỂN BIẾN NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN VỀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI

PGS. TS. Phạm Hữu Nghị *

Trong thời gian vừa qua, người dân Việt Nam đã có những chuyển biến trong nhận thức về vấn đề quyền con người. Sự chuyển biến nhận thức theo chiều hướng tích cực đó là do có sự tác động của nhiều yếu tố chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, giáo dục và hội nhập quốc tế. Đồng thời sự chuyển biến nhận thức, đó đến lượt mình lại trở thành tiền đề, điều kiện để thúc đẩy, mở rộng giáo dục về quyền con người ở Việt Nam.

1. Quan niệm về nhận thức và chuyển biến nhận thức của người dân về quyền con người, quyền công dân

Môn Triết học cho chúng ta biết rằng, nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người, nhận thức bao gồm: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở, mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức là thực tiễn xã hội.

Nhận thức có vai trò quan trong đối với cuộc sống và các hoạt động của con người. Nhận thức là yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển của con người. Nhận thức là cơ sở để con người nhận biết thế giới và hiểu biết thế giới đó, từ đó con người có thể tác động vào thế giới đó một cách phù hợp nhất, để đem lại hiệu quả cao nhất cho con người. Nhận biết đi từ đơn giản, nhận biết đi từ từng thuộc tính đơn lẻ bề ngoài của sự vật hiện tượng đến những cái phức tạp, những thuộc tính bản chất bên trong.

Các trào lưu triết học khác nhau có quan niệm không giống nhau về nhận thức. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người. Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” mà nó đã từng chiêm ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”.

Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan, những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức. Đến thời kì cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật. Đối lập với những quan điểm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.

Học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.

Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Không có cái gì là không thể nhận thức được, mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức về thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc và cả nhân loại) là chủ thể tích cực sáng tạo của nhận thức.

Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lí tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức,... đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan mà nhận thức hướng tới, nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan. Phạm vi của khách thể được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học. Như vậy, không chỉ chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng mang tính lịch sử - xã hội.

Ba là, nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đom, máy móc và thụ động, mà là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo con đường “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đó cũng chính là quá trình nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đày đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào.

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.

Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan. Vì vậy, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn. Áp dụng phép biện chứng duy vật vào nhận thức, chúng ta nhận thấy rằng, nhận thức không phải là một sự phản ánh ngưng đọng, sao chép máy móc hiện thực, mà là một quá trình phát triển theo từng giai đoạn, những giai đoạn này liên hệ với nhau và giai đoạn này nhất thiết phải là tiền đề của giai đoạn kia.

Từ những kiến thức chung về nhận thức, có thể hiểu nhận thức của người dân về quyền cun người là quan niệm, thái độ, sự hiểu biết cua người dân về các quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các biện pháp bảo đảm, bảo vệ các quyền đó.

Cũng như nhận thức nói chung, nhận thức về quyền con người, quyền công dân có quá trình hình thành và phát triển trong bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của đất nước.

Trong thời gian gần đây nhận thức của người dân về quyền con người, quyền công dân có những biến đổi theo chiều hướng tích cực do sự tác động, chi phối của nhiều tố chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội.

Chuyển biến nhận thức của người dân về vấn đề quyền con người là sự biến đổi trong quan niệm, hiểu biết và hành động của người dân về quyền con người dưới sự tác động của các biến đổi về kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hỏa, xã hội, hội nhập quốc tế và giáo dục.

Sự chuyển biến nhận thức về quyền con người có thể nói, vừa là mục tiêu vừa là kết quả của công cuộc giáo dục quyền con người.

Sự chuyển biến nhận thức thức của người dân về quyền con người, quyền công dân sẽ góp phần xây dựng một cơ chế tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam

2. Bối cảnh của sự chuyển biến nhận thức về quyền con người của người dấn Việt Nam

2.1. Bối cảnh chỉnh trị - pháp lý trong nước dẫn đến sự chuyển biến về nhận thức của người dân về vấn đề quyền con người của người dân Việt Nam

Đại hội lần thứ XI Đảng cộng sản Việt Nam họp vào tháng 01/2011 đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng đối với sự xây dựng và phát triển của đất nước ta như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 20011-2020, Báo cáo chính trị.

Trong các văn kiện này, quan điểm về quyền con người của Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện khá rõ nét.

Báo cáo chính trị đề ra nhiệm vụ: Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định một trong những phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ là: xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Cương lĩnh xác định rõ: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân. Tại mục IV Hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng của Cương lĩnh đã khẳng định: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyển công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 20011-2020 đề ra quan điểm phát triển đất nước là: Mở rộng dân chủ, phát huy tố đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Chiến lược xác định: Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hành công bằng xã hội.

Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế xuất phát từ các điều ước quốc tế mà mình là thành viên, trong đó có các cam kết quốc tế về quyền con người.

Nghiên cứu quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con người qua các văn kiện, có thể đưa ra một số nhận định sau đây:

Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam càng ngày càng có nhận thức rõ hơn vê vân đê quyên con người. Từ chỗ không đề cập trực tiếp vấn đề nhân quyền trong các văn kiên của Đảng đến chỗ có đề cập và đề cập ngày càng đầy đủ hơn, nhất quan hơn.

Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam thường đề cao việc đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” với lập luận: Các thế lực thù địch lợi dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng thay đổi chế độ chính trị Việt Nam.

Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam gắn vấn đề quyền con người với quyền công dân, gắn quyền của cá nhân với quyền của tập thể, quyền của dân tộc, nhân dân, quyền làm chủ; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

Thứ tư, trong thời gian gần đây các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân quyền. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người đã trở thành sự quan tâm ỉớn của Đảng và Nhà nước ta, trở thành vấn đề có tính chiến lược. Nhà nước với tư cách là tổ chức công quyền có nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Văn kiện pháp lý quan trọng nhất thể hiện quan điểm về quyền con người của Việt Nam là Hiến pháp.

Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam khái niệm quyền con người được đưa vào Hiến pháp (Điều 50) khẳng định sự cam kết của Việt Nam với cộng đồng thế giới về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người; đã sửa đổi các quyền kinh tế, xã hội được quy định một cách duy ý chí (quyền khám chữa bệnh không phải trả tiền, quyền học tập miễn phí, quyền có nhà ở, quyền có việc làm... cho mọi công dân) trong Hiến pháp 1980 theo hướng bảo đảm tính khả thi của các quyền này; đã bổ sung một số quyền có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường như quyền sở hữu về tài sản, vốn và tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh, quyền sử dụng đất.

Năm 2013 Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp mới- Hiến pháp năm 2013. Trong Hiến pháp năm 2013 Quyền con người được quy định trong tập trung trong Chương II (được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có nhiều điểm mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ ca bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau đây:

Một là, đưa vị trí Chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần ỉà sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Hai là, Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính tri, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Nếu như Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ "quyền con người" thông qua quy định “quyền con người về chính trị, dân sự và kỉnh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 lại chưa phân biệt rạch ròi được quyền con người với quyền cơ bản của công dân. Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người ” và “quyền công dân”, Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra (kể cả đối với người quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người có quốc tịch Việt Nam đã bị tước hoặc hạn chế một số quyền công dân); còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước. Để làm rõ sự khác biệt này, tham khảo các công ước quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của các nước, Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi người” khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.

Bên cạnh đó, nhằm khắc phục sự tùy tiện ra các quy định trong việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. Điều này xác lập nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ bị hạn chế bằng Luật chứ không phải các văn bản dưới luật.

Ba là, trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ trong Hiến pháp. Ngoài nguyên tắc như: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự; kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đàm theo Hiến pháp và pháp luật "(Điều 14); ở hầu hết các điều đều quy định trách nhiệm và đảm bảo của Nhà nước như Điều 17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân ”... và ở nhiều điều khác.

Bốn là, Hiến pháp mới bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21), Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), Quyền xác định dân tộc (Điều 42), Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43)... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.

Đồng thời, quyền con người không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Cụ thể, Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân (Khoản 6 Điều 96); Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (Khoản 3 Điều 107); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (Khoản 3 Điều 102). Như vậy, bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người này thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên thế giới.

Việc hiến định, hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp sửa đổi là sự tiếp nối, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời, chuyển hóa sâu sắc nhiều nội dung, tinh thần các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tạo nền tảng pháp lý cao nhất bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được thực hiện, đáp ứng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Những điểm mới theo xu hướng tiến bộ trong Hiến pháp về quyền con người chắc chắn đã và sẽ tạo ra sự chuyển biến rất lớn trong nhận thức của người dân Việt Nam về quyền con người, quyền công dân.

2.2. Bối cảnh kinh tế- xã hội tác động đến sự chuyển biến về nhận thức của người dân về quyền con người

Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế

Nền kinh tế thị trường đòi hỏi có sự tồn tại của các chủ thế kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân dựa trên những tín hiệu thị trường.

Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc, sở hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tư nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở hữu tư nhân, còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và dạng đồng sở hữu của các chủ thể khác.

về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.

Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng

Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị trường, bao gồm các thị trường yếu tố (các thị trường đầu vào như thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoản), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công nghệ) và thị trường hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Đe nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu:

- Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.

- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.

Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường phải tuân theo một trật tự bước đi xác định. Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ: xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài sản không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức) thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức năng và của cả nền kinh tế.

Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do các lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do, v.v.) trên cơ sở dược sự bảo đảm của pháp luật. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống bán phá giá thì nền kinh tế không thể hoạt động bình thường.

Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường

Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu của từng thị trường đó. Tín hiệu giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh thị trường.

Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Đe phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).

Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do

Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường, về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc.

Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp - tự lúc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quá nhất.

Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước

Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:

- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;

- Phân phối lại thu nhập quốc dân.

- Bảo vệ môi trường.

Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:

- Xây dựng khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;

- Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh;

- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải, cung cấp điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" - dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn thông; tài chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, V.V.).

- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình đẳng.

Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung của mọi nền kỉnh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn nhau. Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể có nền kinh tế thị trường bình thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế thị trường, tuỳ theo các điều kiện phát triển cụ thể, vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mô hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có định hướng là phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu[1]

Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tăng trưởng kinh tế nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sờ hữu, nhiều thành phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN chứ không phải chỉ duy nhất kinh tế quốc doanh như có thời lầm tưởng.

Nền kinh tế thị trường đích thực có nhu cầu cao về tính công khai, minh bạch, về phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi chủ thể trong xã hội, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

2.3. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh hội nhập quốc tế của sự chuyển biến về nhận thức của người dân về vấn đề quyền con người của người dân Việt Nam

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Gần đây, trong quan điểm của Việt Nam về hội nhập có hai điểm mới: Một /à, nâng chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” lên thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.

Hai /à, phát triển chủ trương “là bạn, đổi tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” lên thành “/à bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Vấn đề quyền con người được cộng đồng thế giới rất quan tâm. Việt Nam đã tham gia tất cả các điều ước quốc tế chù chốt về quyền con người. Sự cam kết của Việt Nam về thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người đã tạo ra tin của nhân dân vào chính sách tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người của Đảng và Nhà nước.

3. Biểu hiện của sự chuyển biến nhận thức của người dân về vấn đề quyền con người

3.1. Sự quan tâm tìm hiểu về quyền con người, quyền công dân của người dân và tham gia xây dựng các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật

Theo Báo cáo tổng hợp các ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Chính phủ có 5.634.279 ý kiến về chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Các ý kiến góp ý đều nhất trí quyền con người là một trong những giá trị cao quý của nhân loại, đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trên cả phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Vì vậy, việc ghi nhận những quyền cơ bản của con người và công dân trong Hiến pháp là việc làm cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn lập hiến của Việt Nam, thể chế hóa được chủ trương tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, trong Hiến pháp cần có những quy định về các cơ chế bảo đảm quyền con người và quyền công dân để tạo cơ sở cho các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành cụ thể[2]. Hiến pháp chỉ nên đề cập tới các quyền con người và quyền, nghĩa vụ "cơ bản” của công dân; các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của con người và công dân do luật định. Dự thảo Hiến pháp còn thiếu quy định về một số quyền như: quyền của người cao tuổi, quyền của người khuyết tật, quyền của người thuộc giới tính thứ ba, quyền nghỉ ngơi, quyền được lao động trong môi trường trong lành, quyền giám sát, phản biện xã hội,... nghĩa vụ đối với cộng đồng, nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam[3]. Dự thảo cũng còn thiếu những quy định về thiết lập cơ chế bảo vệ và thúc đẩy thực hiện quyền trên thực tế. Đồng thời, cần bổ sung quy định về cơ chế để các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp có hiệu lực áp dụng trực tiếp[4].

Các ý kiến của người dân đều cho rằng, các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp cần phù họp với các tiêu chuẩn phổ cập, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên cần được ghi nhân trong Hiến pháp Việt Nam. về nguyên tắc trao quyền và hạn chế quyền cũng như mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ: Các ý kiến đều khẳng định việc trao quyền có thể được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, còn việc hạn chế các quyền phải do Hiến pháp và luật quy định. Việc hạn chế đó nên được quy định đối với từng quyền cụ thể, không nên quy định chung về việc hạn chế, cần làm rõ hơn một số quyền, ví dụ về quyền sống và quy định về quyền sống phải đưa lên vị trí đầu tiên trong các quyền cơ bản của con người và khẳng định khái niệm bình đẳng đối với mọi giới không chỉ giới hạn ở giới nam và nữ[5]. Đề nghị bổ sung một điều quy định về thiết chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (có thể là ủy ban về quyền con người thuộc Quốc hội) vì chế định này rất cần thiết để quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bảo vệ và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việc bổ sung này phù hợp với thông lệ quốc tế[6].

3.2. Sự chuyển biến nhận thức về quyền con người, quyền công dàn thông qua khiếu nại, tố cáo

Nhân dân đã thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo như là phương thức thể hiện quyền dân chủ của mình và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước.

Tính chất giám sát của nhân dân đối với Nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo được thể hiện ở chỗ, khi khiếu nại, tố cáo nhân dân đã chuyển đến cho cơ quan nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trên cơ sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan và các cán bộ của mình, kịp thời chấn chỉnh, xử lý sai phạm, thậm chí loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước những người không xứng đáng, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Thực tế cho thấy sự yếu kém của tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, những vấn đề bất cập trong chính sách, pháp luật được phát hiện, kiến nghị với lãnh đạo các cấp, các ngành đa phần được phát hiện từ thực tiễn công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo chính là một trong những quyền hiến định cơ bản của công dân, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân và là một hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân sẽ là cơ sở và nền tảng cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Đồng thời, đây còn là phương tiện để công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, thông qua đó thiết thực tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Ở Việt Nam nạn tham nhũng được coi là quốc nạn. Một khi tham nhũng còn diễn ra phổ biến sẽ ảnh hưởng xấu đến quyền con người, quyền công dân. Trong thời gian qua, nhiều người dân đã dũng cảm đứng lên tố cáo các hành vi tham nhũng.

3.3. Sự chuyển biến nhận thức của người dân về quyền con người, quyền công dân thông qua việc tham gia phản biện, góp ỷ kiến đối với chỉnh quyền về các vấn đề của đất nước, của địa phương

Nhận thức về nguy cơ gây ô nhiễm môi trường của dự án khai thác Bô xít, nhiều người dân đã tham gia phản biện xã hội đối với dự án. Người dân yêu cầu cần phải rất thận trọng khi thực hiện dự án, phải có các công trình bảo vệ môi trường đạt yêu cầu xử lý tốt loại bùn đỏ không để loại bùn này tràn ra gây ô nhiễm môi trường.

Khi biết tin có dự án xây dựng khu vui chơi giải trí cao cấp thu tiền kết hợp với việc làm hầm giữ xe tại khuôn viên Công viên Thống nhất, người dân đã phản đối dự án này vì cho rằng, đây là công viên dành cho mọi người, mọi nhà không thể biến thành nơi vui chơi giải trí của riêng những người giàu. Vả lại không thể biến công viên thành một bãi giữ xe.

Gần đây, nhiều người dân đã tham gia vào phong trào phản đối dự án chặt cây xanh chưa thật phù hợp của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Theo cách mà các cơ quan chức năng ở Hà Nội đã làm là chặt hết cây không thích hợp ở một số tuyến đường đề trồng cây thích hợp. Đây là cách làm không khoa học. Người dân cho rằng, chỉ nên chặt tỉa những cây bị sâu, bị nghiêng, quá già cỗi chứ không thể chặt tất cả các cây. Người dân còn phẫn nộ khi cây được trồng thay thế lại không phải là loại cây thích họp như ghi trong dự án.

Khi quyền và lợi ích của mình bị xâm hại, người dân đã biết dùng các phương tiện pháp lý đề bảo vệ quyền của mình. Người dân đã khiếu nại các hành vi xâm phạm quyền của mình, đã kiện các nhà chức trách ra tòa hành chính vì cho rằng, hành vi hành chính và quyết định hành chính đã xâm hại đến các quyền của họ. Đó có thể là quyết định thu hồi đất, đó là có thể là việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất mà người cho rằng là trái pháp luật hoặc không công bằng, minh bạch.

Càng ngày càng có nhiều vụ việc người dân bị oan sai trong xét xử hình sự yêu cầu bồi thường.

*                *

*

Trong thời gian qua người dân Việt Nam đã có sự chuyển biến nhận thức về quyền con người. Người dân Việt Nam càng ngày càng quan tâm đến quyền con người, quyền công dân và càng ngày càng tham gia tích cực vào công cuộc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây chính là điều kiện thuận lợi đê thực hiện các chương trình giáo dục quyền con người ớ Việt Nam.

-------------------------------------------

* Viện Nhà nước và Pháp luật. Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

 

 

 


[1] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011)

 

[2] Đa số ý kiến (trong Báo cáo của 30 Bộ, ngành và 63 địa phương) tham gia đều nhất trí về việc quy định, cũng như các nội dung các quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bàn của công dân).

[3] Bộ Xây dựng. Bộ Công an, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, TP Hồ Chi Minh,...

[4] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Khánh Hòa, Trà Vinh. Hà Nội, Quàng Ngãi,...

[5] Bộ Tư pháp, Thanh Tra Chính phù, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Khánh Hòa, An Giang. Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nam, Lai Châu, Cần Thơ,...

[6] Bộ Công an, Bộ Văn hỏa, Thể thao và Du lịch, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ. Khánh Hòa,...

 

Các tham luận khác