NGHIÊN CỨU VÀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh*
Tôn trọng phẩm giá và bảo vệ quyền con người là một trong những truyền thống tốt đẹp và cao quý của dân tộc ta và ngày càng được phát huy, hoàn thiện trong Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong nền dân chủ XHCN, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững. Mục tiêu “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là thể hiện kết tinh ý chí phấn đấu và đưa quyền con người lên một nhận thức mới - những giá trị phổ biến của quyền con người được đảm bảo trong một Nhà nước pháp quyền và dân chủ.
Mặc dù bảo vệ quyền con người là sự nghiệp của toàn dân, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, song thế chủ động trong công tác bảo vệ quyền con người ở nước ta trong những năm gần đây chưa thực sự bền vững. Một trong những nguyên nhân quan trọng là công tác tuyên truyền các thành tựu nhân quyền của Việt Nam chưa thực sự đa dạng và có chiều sâu và thiếu vắng một chiến lược giáo dục về quyền con người.
Bài viết dưới đây có mục tiêu nhằm đánh giá thực trạng về nghiên cứu giáo dục quyền con người ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời gian qua, dự báo thách thức đối với nghiên cứu, giáo dục về quyền con người trong thập kỷ tới, đồng thời đề xuất các quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục về quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
1. Đánh giá thực trạng về nghiên cửu giáo dục quyền con người ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời gian qua
1.1 Nhận thức và nghiên cứu về quyền con người và giảo dục quyền con người ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam luôn thể hiện sự nhất quán, tiếp cận quyền con người trong một chỉnh thể thống nhất, trong sự tương quan và hài hòa giữa các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hoá.
Với sự khẳng định mạnh mẽ: nhân quyền là bản chất của chế độ ta, do đó chúng ta cần giành lại thế chủ động trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này, Chỉ thị số 12-CT/TW đã đánh đấu một bước ngoặt quan trọng tạo ra sự chuyển biến trong tư duy hoạch định chiến lược của các Ngành, các cấp, trong nhận thức của các cán bộ, đảng viên ở các đơn vị, địa phương về vấn đề quyền con người và công tác đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới. Trên thực tế, Chỉ thị 12-CT/TW đã được thể chế hóa thành Chương trình hành động của Chính phủ, yêu cầu hành động của các cán bộ, đảng viên và của nhân dân. Với việc thành lập Ban chỉ đạo nhân quyền cùa Chính phủ, công tác quán triệt, nghiên cứu, tuyên truyền đấu tranh bảo vệ quyền con người ở nước ta đã từng bước đi vào nề nếp, về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng ta, góp phần khắc họa hình ảnh mới của con người Việt Nam năng động, tự chủ với khát vọng xây dựng một quốc gia với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Có thể khẳng định rằng, Chỉ thị số 12-CT/TW đã đòi hỏi các hoạt động nghiên cứu và tuyên truyền về quyền con người ở nước ta phải được đặt trên cơ sở những nhận thức lý luận về quyền con người, đặc biệt cần phát triển các tư tưởng nhân đạo giải phóng con người của chủ nghĩa Mác —Lênin, của Chủ tịch Hô Chí Minh và của Đảng ta, làm rõ sự khác nhau giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta với quan điểm tie sản về quyền con người. Trước yêu cầu đó, nhiều công trình nghiên cứu khoa học về quyền con người đã được triển khai và bước đầu đã đạt được một số thành công và đều có dấu ấn rất quan trọng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói chung và các nhà khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói riêng.
1.1.1 Các công trình nghiên cứu khoa học về quyền con người
- Chương trình KX. 07-96 “Con người - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do GS.TS. Phạm Minh Hạc làm Chủ nhiệm và thu hút sự tham gia của hơn 200 nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Trong khuôn khổ của chương trình này có một đề tài lớn nghiên cứu về quyền con người trong đó tập trung vào vấn đề chủ yếu như “Quyền con người, quyền công dân” cũng như “Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước”.
- Các nghiên cứu góp phần hỗ trợ cho Chính phủ, các cơ quan hữu quan cùa Việt Nam hiểu được cơ chế, tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người để phục vụ cho việc chuẩn bị tham gia ký kết, phê chuẩn các Công ước quốc tế về quyền con người, Báo cáo quốc gia định kỳ về việc thực hiện các Công ước quốc tế về quyền con người đã được phê chuẩn đó.
- Các nghiên cứu góp phần hỗ trợ cho Chính phủ, các cơ quan hữu quan của Việt Nam xây dựng và hoàn thành Báo cáo về tình hình đảm bảo quyền con người tại Việt Nam trong khuôn khổ Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (ƯPR) chu kỳ 1 (2009) và chu kỳ 2 (2014);
- Các nghiên cứu về quyền con người có hỗ trợ trong việc xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật. Cụ thể như lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, khái niệm “Quyền con người” được đề cập trong Điều 50 của Hiến pháp 1992 và sau đó đã trở thành nền tảng nội dung của Chương 2 trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013;
- Các nghiên cứu góp phần hỗ trợ cho Quốc hội và các đại biểu Quốc hội nhằm nội luật hóa các Công ước quốc tế Việt Nam đã tham gia, ký kết, phê chuẩn: Luật về bình đẳng giới ngày 29/11/2006, Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007, Luật về người khuyết tật…;
- Các nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những nhận thức đúng đắn về quyền con người; xoá bỏ những quan điếm chưa đúng về quyền con người như coi quyền con người hoàn toàn là vấn đề nhạy cảm, là sản phẩm của phương Tây; là công cụ để các nước phương Tây và các thế lực thù địch can thiệp vào công việc nội bộ, vào chủ quyền của Việt Nam; đồng nhất các khái niệm nhân quyền và hoạt động chống phá nhà nước;
- Các nghiên cứu nhằm khẳng định lập trường của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm tất cả các quyền con người bao gồm các quyền dân sự và chính trị và các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá trong bối cảnh trên thế giới còn tồn tại những bất đồng về hai nhóm quyền con người cơ bản này;
- Các nghiên cứu hợp tác nhằm cung cấp bức tranh so sánh về tình hình thực hiện các quyền con người ở Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới như: Trung Quốc, Australia, Thuỵ Điển, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ...;
- Cung cấp cơ sở lý luận và dữ liệu cho công tác giáo dục và đào tạo quyền con người ở Việt Nam.
- Gần đây là Dự án nghiên cứu về giáo dục quyền con người giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đan Mạch. Trên cơ sở dự án này đã cho phép ra đời các công trình khoa học tiêu biểu như: Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, 2009, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên); Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học tập 1, 2010, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên); Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học tập 2, 2010, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên); Quyền con người, 2011, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên); Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, 2011, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.VÕ Khánh Vinh (chủ biên); Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị, 2011, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên); Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, văn hoá và xã hội, 2011, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên); Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển, 2012, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Pháp luật quốc tế về quyền con người, 2014, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.Võ Khánh Vinh và TS. Lê Mai Thanh (đồng chủ biên), Cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người, 2014, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; GS.TS.VÕ Khánh Vinh và TS. Lê Mai Thanh (đồng chủ biên).
1.1.2 Hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế
Có thể khẳng định rằng, các hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế về quyền con người và giáo dục quyền con người tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được triển khai khá đa dạng, cụ thể như sau:
- Hội thảo quốc tế “Cơ quan nhân quyền quốc gia: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”
- Hội thảo quốc gia: “Phát triển khoa học công nghệ và quyền con người”
- Hội thảo quốc tế: “Kinh doanh và quyền con người”
- Hội thảo quốc gia: “Báo chí và quyền con người”
- Hội thảo quốc gia: “Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp và quyền con người”
- Hội thảo quốc tế quyền con người tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội; Những vấn đề lý luận xã hội học về quyền con người;
- Hội thảo quốc gia: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhóm quyền dân sự- chính trị; nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; nhóm quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển”
- Hội thảo quốc gia: "Đánh giá nhu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về quyền con người".
1.1.3 Biên soạn Từ Điển về quyền con người
Sau một khoảng thời gian chuẩn bị công phu, nghiêm túc, việc biên soạn Từ điển về quyền con người đã đi vào giai đoạn kết thúc và dự kiến xuất bản trong đầu năm 2016. Đáng lưu ý là, việc biên soạn Từ điển về quyền con người vẫn được tiếp tục thực hiện trong khuôn khổ của biên soạn Từ Điển Bách Khoa Việt Nam.
1.1.4 Nghiên cứu khảo sát việc thực hiện quyền con người ở một số địa phương
Trong thời gian qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tiến hành khảo sát, đánh giá việc thực hiện quyền con người trong các lĩnh vực: bảo vệ người tiêu dùng, đất đai, thủ tục hành chính, môi trường, tự do kinh doanh, lao động và việc làm tại các địa phương như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Bình, Nghệ An và đã đạt được các kết quả rất quan trọng. Các kiện nghị của Nhóm khảo sát đã được ủy ban soạn thảo Hiến pháp và các Ban soạn thảo Luật tiếp thu trong quá trình xây dựng Bộ luật lao động 2012, Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai 2013, Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014....
1.1.5. Đẩy mạnh công tác thiết lập mạng lưới và hợp tác về giáo dục và nghiên cứu quyền con người giữa các trường đại học, khu vực và quốc tế
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tiến hành mở rộng, thiết lập mạng lưới và hợp tác về giáo dục tại cơ sở đào tạo Đại học trong nước: Khoa luật, Trường Đại học Vinh; Trường Đại học cần Thơ; Đại học Luật thuộc Đại học Huế; Khoa Luật, Đại học Đà Lạt. Trên thực tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã hỗ trợ cho các mạng lưới này tham gia hoạt động nghiên cứu và tổ chức hội thảo về quyền con người;
- Tổ chức Hội nghị mạng lưới quốc gia về nghiên cứu và giáo dục quyền con người.
- Tổ chức đoàn khảo sát tình hình nghiên cứu và giáo dục quyền con người ở các nước: Trung Quốc, Pháp, Bỉ, Mỹ, Đức...
- Hợp tác với các tổ chức trong giáo dục quyền con người: các cơ sở nghiên cứu của Đan Mạch; Trung tâm nhân quyền của Na Uy; Viện về quyền của người khuyết tật (IDPP) thuộc Đại học American University, Viện chính sách công của Đại học Quốc Gia Seoul, Hàn Quốc.
1.2 Thực trạng tổ chức và giáo dục quyền con người tại Viện Hàn lâm Khoa hoc xã hội Việt Nam
1.2.1 Tổ chức và giáo dục quyền con người tại Học viện khoa học xã hội
Học viện Khoa học xã hội (GASS) được thành lập theo Quyết định số 35/QĐ-TTg ngày 10/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ. GASS là cơ sở giáo dục trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam có chức năng và nhiệm vụ chính sau đây:
i) Đào tạo và cấp văn bằng thạc sỹ và tiến sỹ về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật; quản iý thống nhất các hoạt động đào tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
ii) Nghiên cứu khoa học; bồi dưỡng chuyên môn về khoa học xã hội, nhân văn cho cán bộ, công chức, viên chức
iii) Tư vấn về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở phát huy truyền thống, kinh nghiệm và uy tín khoa học của các nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, GASS hiện nay đã trở thành cơ sở đào tạo duy nhất chỉ đào tạo sau đại học về các ngành khoa học xã hội và hiện có quy mô lớn nhất trên toàn quốc. Đây là một trong những thuận lợi cơ bản để GASS có cơ hội và điều kiện phổ cập giáo dục quyền con người ở bậc sau đại học trên phạm vi toàn quốc
Tại Học viện khoa học xã hội, Quyền con người được giảng dạy ở hai cấp độ: môn học Quyền con người trong chương trình đào tạo thạc sỹ các chuyên ngành luật và đào tạo thạc sỹ chuyên ngành Quyền con người.
Môn học Quyền con người đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình đào tạo thạc sỹ các chuyên ngành luật từ năm 2010 và là môn học bắt buộc với thời lượng 2 tín chỉ do Khoa Luật giảng dạy. Nghiên cứu nội dung môn học được xây dựng và thực tiễn giảng dạy môn học này cho thấy nội dung học vấn của môn học này bao gồm: Những vấn đề lý luận và lịch sử về quyền con người; pháp luật về quyền con người; cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người; thực tiễn bảo đảm, thực hiện và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Ngoài ra, nội dung quyền con người cũng được lồng ghép vào các môn học cụ thể của các chuyên ngành đào tạo thạc sỹ của ngành Luật tại Học viện Khoa học xã hội. Đó là nội dung quyền con người trong môn học “Tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền”; nội dung quyền con người trong môn học "Dân chủ và quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền"', nội dung quyền con người trong môn học "Chế độ bần cử nội dung quyền con người trong môn học “Tư pháp hình sự: những vấn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “Chỉnh sách hình sự: những vấn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “các chức nàng của tố tụng hình sự'; nội dung quyền con người trong môn học “Hình phạt: những vấn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “Luật thi hành án hình sự: những vấn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “Pháp luật về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng: những vấn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “Pháp luật lao động và an sinh xã hội: những vẩn đề lý luận và thực tiễn”; nội dung quyền con người trong môn học “Pháp luật sở hữu trí tuệ: những vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Đào tạo thạc sỹ chuyên ngành Quyền con người tại Học viện Khoa học xã hội. Năm 2012 Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cho Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đào tạo trình độ thạc sỹ chuyên ngành Quyền con người. Chuyên ngành đào tạo Quyền con người do Khoa Luật thuộc Học viện Khoa học xã hội thực hiện. Từ đó đến nay Học viện Khoa học xã hội đã tuyển sinh được 4 khoá, gồm 7 đợt với hơn 70 học viên, số học viên đã bảo vệ luận văn và nhận bằng tốt nghiệp là 34 học viên.
Nghiên cứu khung chương trình đào tạo và thực tiễn đào tạo chuyên ngành Quyền con người tại Học viện Khoa học xã hội cho thấy, nội dung học vấn của chuyên ngành này bao gồm những khối kiến thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu nhận thức, mục tiêu kỹ năng, các mục tiêu khác. Đó là những khối kiến thức sau:
- Khối kiến thức đa ngành, liên ngành khoa học xã hội về quyền con người trong môn học “Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội gồm: những vấn đề lý luận chung về tiếp cận nghiên cứu đa ngành và liên ngành khoa học xã hội về quyền con người; các phương diện tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội về quyền con người: phương diện triết học, phương diện chính trị học, phương diện phát triển, phương diện sử học, phương diện xã hội học, phương diện văn hoá học, phương diện kinh tế học, phương diện tôn giáo học, phương diện dân tộc học, phương diện giáo dục học, phương diện gia đình và giới, phương diện khoa học môi trường, phương diện khoa học tự nhiên và công nghệ.
- Khối kiến thức chuyên ngành về quyền con người thể hiện trong các môn học: Lý luận và lịch sử về quyền con người; pháp luật quốc tế về quyền con người; cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người; giáo dục quyền con người; các mối quan hệ của quyền con người; thực hiện quyền con người ở Việt Nam: những vấn đề ỉý luận và thực tiễn; quan điểm, chính sách, pháp luật Việt Nam về quyền con người; những vấn đề đương đại về quyền con người; quyền lực nhà nước và quyền con người; quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương; Luật hình sự quốc tế và quyền con người; an ninh con người và quyền con người.
1.2.2 Tổ chức và giáo dục quyền con người theo các khóa ngắn hạn cho các cản bộ, viên chức của Việt Nam
- Hàng năm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đều xây dựng và triển khai bồi dưỡng ngắn hạn về Quyền con người; về phát triển con người cho cán bộ công chức, viên chức thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Đến nay, đã có hơn 100 lượt viên chức, công chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã được đào tạo cơ bản về quyền con người;
- Trong khuôn khổ Thỏa thuận hợp tác với các địa phương, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam xây dựng và triển khai 8 khóa bồi dưỡng ngắn hạn về Quyền con người, kỹ năng bảo đảm và bảo vệ quyền con người cho nguồn nhân lực cấp cao tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, Đà Nang, Cần Thơ, Cà Mau, Sóc Trăng, Huế, Quảng Bình, Đăk Lăk, Đăk Nông, Hải Phòng, Lai Châu ...và đều được đánh giá rất cao. Nhiều cán bộ tham gia khóa học giữ các chức vụ chủ chốt tại địa phương và đã tham gia tích cực vào hoạch định chính sách và thực thi bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.
2. Dự báo thách thức đối với nghiên cứu, giáo dục về quyền con người trong thập kỷ tới
2.1 Về nhận thức, nội dung nghiên cứu, giáo dục về quyền con người
- Thứ nhất, việc nghiên cứu, giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay chưa được chủ trọng đúng mức, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ của Nhà nước trong bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập toàn diện và phát triển.
Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam đang thiếu vắng không chỉ là các nghiên cứu định lượng mà thậm chí là các nghiên cứu cơ bản về các quyền con người cụ thể, chẳng hạn như: quyền lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận, quyền xét xử công bằng... Đây là một lý do giải thích về sự chậm trễ trong việc ban hành các Luật về Hội, Luật biểu tình, Luật trưng cầu dân ý, Luật chứng cứ.
Và cũng chính vì từ lý do này nên giáo dục quyền con người cũng chưa được quan tâm, chú trọng và thúc đẩy thực thi như là một nhiệm vụ trong Chiến lược phát triển con người Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, giáo dục quyền con người hiện nay chưa là bộ phận họp thành bắt buộc trong các Chương trình đào tạo quốc gia; mục tiêu giáo dục quyền con người còn khá mờ nhạt và chưa khẳng định vai trò của nó trong nền giáo dục quốc dân;
- Thứ hai, việc nghiên cứu, giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay chưa bám sát, bắt nguồn từ thực tiễn; nội dung đào tạo còn chú trọng quá nhiều về lý thuyết, thiếu việc trạng bị các kiến thức thực tiễn, kỹ năng thực hành của các đối tượng đào tạo và do đó hiệu quả thực tiễn không cao.
Việc thiếu vắng các nghiên cứu mang tính định lượng về bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam là một minh chứng cụ thể cho thực trạng này. Hơn thế, do thiếu các giải pháp cụ thể nên các nghiên cứu chưa góp phần làm nền tảng cho việc hoạch định và xây dựng chính sách liên quan đến việc bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như: quyền của người khuyết tật, quyền của trẻ em, quyền của phụ nữ, quyền của người dân tộc thiểu số...
Nội dung giáo dục quyền con người thiếu tính thống nhất, thiếu liên thông giữa một số cấp học và một số trình độ đào tạo, chưa có khung trình độ quốc gia vê giáo dục quyên con người; các chương trình giáo dục quyền con người ở bậc phô thông, trong các trường đại học không chuyên luật chưa được hình thành đây đủ; chưa có chương trình giáo dục quyền con người cho một số nhóm đối tượng đặc thù như: các nhóm dễ bị tổn thương; công chức, viên chức hành chính; công chức, viên chức trong hệ thống tư pháp.
- Thứ ba, sự thiếu hụt nguồn nhân lực đang tiếp tục là vật cản lởn để đảm bảo chất lượng trong nghiên cứu, giáo dục quyền con người ở nước ta hiện nay
- Hiện nay, mặc dù việc công bố các công trình nghiên cứu về quyền con người đã diễn ra thường xuyên và đa dạng hơn song vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn. Đáng lưu ý là, các công trình nghiên cứu về quyền con người chưa đầy đủ và toàn diện nên chưa có sức ảnh hưởng, thẩm thấu trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa;
- Đội ngũ giảng viên giảng dạy quyền con người ở nước ta thiếu nhiều về số lượng; một bộ phận lớn các giảng viên chưa được đào tạo cơ bản, có hệ thống về quyền con người, đặc biệt là đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân trong các trường phổ thông, môn pháp luật đại cương trong các trường đại học không chuyên luật; đội ngũ cán bộ quản lý trong các cơ sả giáo dục và đào tạo chưa được đào tạo về quyền con người. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ giảng viên quyền con người chưa cao; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên quyền con người chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục quyền con người.
- Môi trường giáo dục quyền con người chưa được chú trọng xây dựng, chưa kết nối giáo dục quyền con người trong nhà trường với giáo dục quyền con người trong gia đình và trong xã hội; giáo dục quyền con người chưa được xã hội hoá đúng mức; chưa huy động các thiết chế xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và truyền thông tham gia giáo dục quyền con người; các phương pháp giáo dục quyền con người chưa thật gắn với thực tiễn, với đặc điểm của người học.
2.2 Về tố chức thực hiện nội dung nghiên cửu, giảo dục về quyền con người
Thứ nhất, ngoài Dự án giáo dục về quyền con người giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đan Mạch được thực hiện bởi Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trên tầm quốc gia chưa có một Chiến lược đào tạo, giáo dục về quyền con người cũng như chưa có hệ Chương trình nghiên cứu quốc gia trọng điểm về quyền con người mà trước hết là các vấn đề: hệ thống các quyền con người, tiêu chí, mức độ bảo vệ, phương thức bảo vệ trên cơ sở nhận thức đúng đắn về hệ giá trị của người Việt Nam hiện đại; cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người, quyền công dân; sự phối hợp hành động của hệ thống chính trị, các cơ quan chức năng về bảo vệ quyền con người; vấn đề giáo dục về quyền con người; vai trò của xã hội dân sự với vấn đề bảo vệ quyền con người; định hướng hoạt động hợp tác quốc tế và đối thoại về quyền con người trên các diễn đàn quốc tế;
Thứ hai, mạng lưới các cơ quan nghiên cứu về quyền con người còn rất mỏng, thiếu sự liên kết giữa bản thân các cơ quan nghiên cứu, giữa các cơ quan nghiên cứu với đào tạo về quyền con người;
Bên cạnh đó, điều rất đáng lưu ý là, có sự trùng lắp trong nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền con người nhưng lại dàn trải trong các nghiên cứu về quyền con người trên thực địa.
Ba là, chưa có cơ chế hiệu quả để chuyển hóa các kết quả nghiên cửu định lượng, các nghiên cứu về quyền con người trong các lĩnh vực cụ thể vào công tác đào tạo, giáo dục về quyền con người;
Bốn là, chưa thiết lập được mạng lưới nghiên cứu và đào tạo về quyền con người trong các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể, năng lực kết nổi với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo về quyền con người của nước ngoài còn rất yếu;
Năm là, nội dung đào tạo còn chú trọng quá nhiều về lý thuyết, thiếu việc trạng bị các kiến thức thực tiễn, kỹ năng thực hành của các đối tượng đào tạo và do đó hiệu quả thực tiễn không cao.
3. Các quan điểm, giải pháp phát triển nghiên cứu, giáo dục về quyền con người ở Việt Nam hiện nay
3.1. Quan điểm phát triển nghiên cửu, giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay
- Một là, nghiên cửu, giảo dục quyền con người phục vụ sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, V/ nhân dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảm bảo quyền lực của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam ở giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, và do vậy, cần phải tiếp tục thúc đẩy việc nghiên cứu, giáo dục quyền con người.
- Hai là, nghiên cứu giáo dục quyền con người để đáp ứng quan niệm coi con người là trung tâm của sự phát triển, phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 nước ta quy định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay ở nước ta người dân có nhu cầu rất lớn trong việc nâng cao năng lực nhận thức, đòi hỏi về quyền con người, nâng cao năng lực thực hành quyền con người, nâng cao năng lực hưởng thụ quyền con người, nâng cao năng lực bảo vệ quyền con người.
- Ba là, nghiên cứu, giảo dục về quyền con người phải bảo đảm tỉnh liên tục, hệ thống, đồng bộ, kết hợp tính độc lập và tính lồng ghép, kết hợp kiến thức lý luận, pháp luật với kiến thức thực tiễn về quyền con người.
Quyền con người là một hệ thống các quyền, các nhóm quyền có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời, không thể phân chia tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ các quyền con người. Hệ thống quyền con người ngày càng được phát triển, hoàn thiện trên tất cả các phương diện. Hệ thống quyền con người là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nói chung. Do vậy, khi nghiên cứu, giáo dục quyền con người cần phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ của các quyền con người.
- Bốn là, đổi mới căn bản, toàn diện việc nghiên cứu, giáo dục quyền con người.
Trước hết, cần phải đổi mới tư duy, tầm nhìn về nghiên cứu, giáo dục quyền con người trong giai đoạn hiện nay. Thời đại ngày nay là thời đại đề cao quyền con người, thời đại hiện thực hoá quyền con người. Nghiên cứu, giáo dục quyền con người không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phục vụ chính con người, nâng cao chất lượng phát triển con người Việt Nam. Do đó, cần phải đổi mới tư duy, tầm nhìn về nghiên cứu, giáo dục quyền con người theo hướng nhìn nhận đúng, có tầm nhìn sâu và rộng về vai trò, vị trí, giá trị, chức năng của nghiên cứu, giáo dục quyền con người trong Chiến lược phát triển con người Việt Nam.
3.2 Giải pháp phát triển nghiên cứu, giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Một là, cần phải xây dựng một Chương trình quốc gia về quyền con người trong Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đàng Cộng Sản Việt Nam. Mục tiêu của Chương trình này là:
+ Cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách vê quyền con người của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ;
+ Xây dựng Chương trình quốc gia về giáo dục, đào tạo về nhân quyền cho các cán bộ, đảng viên và các tầng lớp dân cư;
+ Xây dựng Chương trình truyền thông quốc gia về nhân quyền nhằm đa dạng hóa các kênh tiếp nhận của các đối tượng thụ hưởng giáo dục về nhân quyền;
+ Đầu mối quốc gia tiếp nhận các thông tin về nhân quyền quốc tế phục vụ cho các hoạt động đấu tranh nhân quyền, đối thoại nhân quyền của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của Ban chỉ đạo nhân quyền và các Ban, Ngành ở Trung ương và địa phương.
Hai là, thiết lập cơ chế gắn kết nghiên cứu khoa học với đào tạo về quyền con người phải tiến hành trong quan hệ đồng bộ với đổi mới cơ chế hoạt động và quản lý khoa học, đổi mới quản lý đào tạo và hội nhập quốc tế.
Ba là, khuyến khích phát triển các hình thức gắn kết nghiên cứu khoa học với đào tạo về quyền con người phong phú, linh hoạt trên cơ sở phát huy tính chủ động của các tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu, đào tạo.
Bốn là, mở rộng quan hệ gắn kết nghiên cứu khoa học và đào tạo về quyền con người ở nước ta phải đồng thời với nâng cao chất lượng, hướng tới đạt chuẩn quốc tế về nghiên cứu và đào tạo.
Năm là, tăng cường đầu tư trọng điểm và hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và đào tạo về quyền con người trong một số lĩnh vực nhằm đáp ứng công tác lập pháp và đối ngoại trong thời gian tới.
-----------------------------------------
* Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam