CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Tùng
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Tóm tắt
Sự ra đời của Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015 sẽ đánh dấu bước ngoặt quan trọng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), sau gần nửa thế kỷ hình thành và phát triển, với 3 trụ cột chính: Cộng đồng chính trị - an ninh (APSC), Cộng đồng kinh tế (AEC) và Cộng đồng văn hóa - xã hội (ASCC), trong đó, AEC đóng vai trò động lực cho sự phát triển chung của khu vực Đông Nam Á, tạo thành một khối sản xuất, thương mại đầu tư, một thị trường chung cho khu vực trong tiến trình hội nhập một cách toàn diện. Điều đó có những tác động nhất định đến nền kinh tế Việt Nam nói chung, thương mại quốc tế của Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở khái quát sự hình thành và đánh giá kết quả thực hiện cam kết xây dựng AEC, bài viết này đề xuất một số kiến nghị đối với tiến trình tham gia AEC của Việt Nam. Đồng thời bài viết cũng thể hiện các hành động tham gia xây dựng cộng đồng AC của bộ phận thanh niên Việt Nam.
1. Khái quát sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
1.1. Quá trình hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN
Tháng 12/1997, các nhà lãnh đạo của các quốc gia thành viên ASEAN đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN 2020 và quyết định hướng ASEAN hình thành một cộng đồng, trong đó tạo ra một khu vực kinh tế ASEAN phát triển ổn định, hội nhập và có sức cạnh tranh cao. Các mặt hàng hàng hóa, dịch vụ và đầu tư được tự do lưu chuyển, vốn được lưu chuyển thông thoáng hơn, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế - xã hội giảm bớt. Ý tưởng đó đã được tái khẳng định tại hội nghị Cấp cao ASEAN 9 (Bali, Indonexia, tháng 10/2003), thông qua Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II. Với việc hình thành AEC, các quốc gia thành viên ASEAN có cơ hội thâm nhập thị trường của nhau, tận dụng nguồn tài nguyên và nhân công lao động giá rẻ, đồng thời mở rộng thị trường, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh để cùng nhau tạo ra một thị trường chung, thống nhất.
Năm 2007, các quốc gia thành viên đã thông qua Kế hoạch AEC 2007 xác định thời hạn cụ thể để các thành viên tích cực thực hiện với mục đích thành lập một cộng đồng kinh tế chung vào ngày 31/12/2015. Khác với EU, ASEAN sẽ chỉ tập trung vào việc xóa bỏ các rào cản thương mại, kinh doanh mà không tạo lập các tổ chức quản lý trung ương như Ngân hàng Trung ương châu Âu,…
1.2. Mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN
Theo Tuyên bố Hòa hợp ASEAN: “Cộng đồng kinh tế ASEAN có sứ mệnh nhằm tạo dựng: 1) một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, 2) một khu vực có sức cạnh tranh, 3) Phát triển đồng đều, và 4) Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu”[1], cụ thể là:
- Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, với việc: tự do lưu chuyển hàng hoá; tự do lưu chuyển dịch vụ; tự do lưu chuyển đầu tư; tự do lưu chuyển vốn và tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
- Một khu vực có sức cạnh tranh, thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.
- Phát triển đồng đều, bằng các kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
- Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO).
1.3. Lộ trình của Cộng đồng kinh tế ASEAN
Bên cạnh Cộng đồng An ninh - Chính trị và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội thì Cộng đồng kinh tế ASEAN được xác định là một trong ba trụ cột chính tạo nên Cộng đồng chung ASEAN mà các quốc gia thành viên trong khu vực Đông Nam Á đang hướng tới. Dựa trên việc thực hiện cam kết phù hợp với mục đích đề ra, Cộng đồng AEC được thành lập với lộ trình như sau:
Thứ nhất, một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất về tự do di chuyển hàng hóa với việc hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN có hiệu lực vào ngày 17/5/2010, Hội đồng khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã thông qua tiến trình tự do hóa thuế quan đến năm 2015. Đồng thời, các quốc gia thành viên ASEAN (AMSs) cũng đã ban hành các quy phạm pháp luật tự do hóa hàng hóa. Tính đến cuối năm 2011, tỷ lệ trung bình nội thuế quan của các quốc gia thành viên ASEAN-6 (Brunei, Indonesia. Philippines, Malaysia, Singapore và Thái Lan) theo Hiệp định ATIGA giảm từ 3,64% xuống còn 0,05%. Sự kiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được thành lập vào tháng 1/2010 đã góp phần vào việc tạo thuận lợi thương mại, thiết lập các cơ chế hiện hành của hàng rào phi thuế quan (NTBs).
Bảng 1. Lộ trình thực hiện tự do lưu chuyển hàng hóa trong ASEAN giai đoạn 2008 - 2015
Tự do di chuyển hàng hóa (AFTA)
|
2008-2009
|
2010-2011
|
2012-2013
|
2014-2015
|
1. Hiệp định CEPT -AFTA
2. Giảm thuế quan
3. Xóa bỏ thuế quan
|
- 2008: Tăng cường Hiệp định CEPT
- 2008: Hoàn thành giảm thuế quan các dòng sản phẩm IL xuống 0-5% cho Lào và Mianma.
-2008: Lào và Mianma xóa bỏ thuế nhập khẩu của 60% dòng sản phẩm IL
-Xóa bỏ thuế nhập khẩu của 80% dòng sản phẩm IL cho các nước ASEAN 6 (2007).
|
-2010: Campuchia hoàn thành giản thuế cho dòng sản phẩm IL xuống 0-5%.
-2010: Campuchia xóa bỏ thuế nhập khẩu cho 60% dòng sản phẩm IL.
-2010: Việt Nam xóa bỏ 80% thuế nhập khẩu của dòng sản phẩm IL
-2010: ASEAN 6 xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu của dòng sản phẩm IL.
-2010: ASEAN 6 giảm thuế cho dòng sản phẩm SL xuống 0-5%
- Hoàn thành giảm thuế cho mặt hàng HSL xuống mức thấp nhất có thể.
|
-2010: Lào và Mianma xóa bỏ thuế nhập khẩu 80% dòng sản phẩm IL.
-2013: Việt Nam giảm thuế dòng sản phẩm SL xuống 0-5%.
|
- Hoàn thành xóa bỏ thuế quan đối với tất cả sản phẩm trừ sản phẩm thuộc danh sách SL và HSL. Có sự linh hoạt với CLMV tới năm 2018 đối với các sản phẩm nhay cảm.
- Hoàn thành giảm thuế quan cho các sản phẩm còn lại thuộc dòng SL vào CEPT và giảm thuế xuống còn 0-5% (2015: Lào và Myanmar, 2017: Campuchia).
|
4. Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan
|
-Tôn trọng các cam kết chấm dứt và giảm các NTBs ngay lập tức
- Nâng cao tính minh bạch bằng cách tôn trọng nghị định thư về thủ tục khai báo và thiết lập cơ chế giám sát có hiệu quả
|
- 2010:Loại bỏ NTBs đối với ASEAN 5
|
- 2012:Loại bỏ NTBs đối với Philippin
|
-2015: Loại bỏ NTBs đối với các nước CLMV với sự linh hoạt tới năm 2018 đối với một số sản phẩm nhạy cảm
|
5. Quy tắc xuất xứ
|
Cải cách quy tắc xuất xứ và đơn giản hóa thủ tục chứng thực xuất xứ, hài hòa hóa, điện tử hóa.
|
-Tiếp tục
|
-Tiếp tục
|
-Tiếp tục
|
6. Chương trình tạo thuận lợi cho thương mại
|
- Đánh giá điều kiện thuận lợi thương mại trong ASEAN.
- Thúc đẩy tính minh bạch và hiển thị tất cả hành động, can thiệp các bên liên quan trong các giao dịch thương mại.
|
-Minh bạch hóa
|
-Tiếp tục
|
-Tiếp tục
|
7. Chương trình cửa sổ ASEAN duy nhất
|
- Thực hiện các biện pháp đơn giản hóa, hài hòa hóa, chuẩn hóa thương mại và hải quan.
-Chuẩn hóa các dữ liệu dựa trên mô hình dữ liệu WCO, tăng tốc thông tin truyền thông và công nghệ xử lý số hóa và trao đổi.
|
-Tiếp tục thực hiện
-Tiếp tục thực hiện
|
-Tiếp tục thực hiện
-Tiếp tục thực hiện
|
|
8. Tiêu chuẩn và phù hợp
|
- Tiếp tục giám sát việc thực hiện MRA tới các chuyên ngành thiết bị điện và điện tử.
-Chuẩn bị cho việc thực hiện cơ chế quản lý cho các thiết bị điện và điện tử (EEE)
|
-Tiếp tục giám sát
|
-Tiếp tục giám sát.
- Thực hiện cơ chế quản lý EEE
|
- Giám sát việc thực hiện cơ chế quản lý EEE.
|
Nguồn: AEC blueprint 2015
Về tự do hóa dịch vụ, trong năm 2013, các quốc gia thành viên ASEAN đã hoàn tất gói 9 cam kết theo Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) tạo thuận lợi cho luân chuyển dịch vụ trong khu vực. Hiện nay, các lĩnh vực như dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường,… đều có trong cam kết về tự do hoá dịch vụ trong ASEAN. Có 4 gói cam kết về dịch vụ tài chính và 6 gói cam kết về vận tải hàng không đã được ký kết. Các thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) giữa các quốc gia thành viên ASEAN về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp là một công cụ quan trọng giúp tự do hoá lưu chuyển các dịch vụ chuyên nghiệp trong khu vực ASEAN. Đến nay, các quốc gia thành viên ASEAN đã ký các thoả thuận công nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn, kỹ năng các ngành dịch vụ cơ khí, y tá, kiến trúc, kế toán và du lịch.
Bảng 2. Kế hoạch hành động ưu tiên nhằm tự do hóa đầu tư giai đoạn 2008 – 2015
2008 – 2009
|
2010 - 2011
|
2012 - 2013
|
2014 - 2015
|
- Bắt đầu giai đoạn I của việc loại bỏ những hạn chế, trở ngại trong đầu tư năm 2008
|
- Hoàn thành giai đoạn I của việc loại bỏ các hạn chế và trở ngại trong đầu tư với 8 nước thành viên ASEAN năm 2010 và đối với Lào, Mianma vào năm 2011
- Bắt đầu giai đoạn II của việc loại bỏ những hạn chế và trở ngại trong đầu tư đối với 8 nước thành viên ASEAN năm 2010 và với Lào, Mianma năm 2011
|
- Hoàn thành giai đoạn II của việc loại bỏ những hạn chế, trở ngại trong đầu tư đối với 8 nước thành viên ASEAN năm 2012 và đối với Lào, Mianma năm 2013
- Bắt đầu giai đoạn cối của việc loại bỏ những hạn chế, trở ngại đối với 8 nước thành viên ASEAN năm 2012 và đối với Lào, Mianma năm 2013
|
- Hoàn thành giai đoạn cuối của việc loại bỏ những hạn chế, trở ngại đối với 8 nước thành viên ASEAN năm 2014 và đối với Lào, Mianma năm 2015
-Thực hiện chế độ đầu tư tự do và mở với việc tối thiểu hóa những hạn chế đầu tư vào năm 2015
-Hài hòa hóa các biện pháp đầu tư để thúc đẩy sự di chuyển dòng vốn
|
Nguồn: AEC blue print 2015
Về tự do hoá đầu tư, trong khuôn khổ Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), các quốc gia hướng tới hình thành nên một điểm đến đầu tư hấp dẫn ở khu vực, với cơ chế đầu tư thông thoáng và mở, bao gồm tự do hoá đầu tư trên các lĩnh vực chính như sản xuất chế tạo, nông - lâm - ngư nghiệp, khai khoáng và các dịch vụ hỗ trợ cho các ngành này. Các nỗ lực tự do hoá đầu tư của ASEAN không chỉ giúp nâng cao niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài với khu vực ASEAN mà còn góp phần thúc đẩy đầu tư nội khối cũng như đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia trong khu vực.
Thứ hai, một khu vực có sức cạnh tranh: Các quốc gia thành viên ASEAN đẩy mạnh chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, năng lượng, phát triển thương mại điện tử,…
Thứ ba, phát triển đồng đều: Các quốc gia thành viên ASEAN đã nhóm họp thông qua và đẩy mạnh triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển kinh tế đồng đều (AFEED), trong đó đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các quốc gia thành viên mới nhằm bắt kịp tốc độ phát triển của các quốc gia còn lại trong khu vực, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ tư, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu: ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6 hiệp định Khu vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các đối tác quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Đồng thời, trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), các quốc gia cũng đang hướng đến hình thành một không gian kinh tế mở toàn Đông Á vào năm 2015, với GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn cầu và quy mô thị trường chiếm 1 nửa dân số thế giới.
2. Đánh giá kết quả thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN
2.1. Thành tựu trong việc thực hiện các cam kết xây dựng AEC
Cộng đồng kinh tế ASEAN là một tổ chức hợp tác liên chính phủ được dự kiến thành lập vào cuối năm 2015, đồng thời là một trong ba trụ cột quan trọng tạo nên Cộng đồng ASEAN. Các quốc gia thành viên ASEAN tích cực thực hiện các cam kết của AEC và đạt được một số thành tựu như:
Về thương mại hàng hóa, các hiệp định kinh tế ASEAN đã sửa đổi, bổ sung thêm, trong đó có Hiệp định ATIGA được ký kết vào ngày 26/2/2009 nhằm xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm duyệt… đồng thời, xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong quá trình xây dựng AEC. ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Các nước thành viên ASEAN đã trao đổi và thảo luận để giải quyết triệt để các vấn đề về hàng rào phi thuế quan, đồng thời cập nhật cơ sở dữ liệu về công cụ phi thuế quan; giải quyết các vướng mắc, trở ngại của khu vực tư nhân đối với thương mại. Thành tựu lớn nhất tính đến nay trong quá trình hình thành AEC là ASEAN đã cơ bản giảm thuế quan đối với các mặt hàng trong danh sách giảm thuế từ 0-5% từ năm 2010 đối với ASEAN 6 (Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Brunei) và vào năm 2015 đối với các nước CLMV (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar), hình thành nên một thị trường mở không còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa. Các nước thành viên đã đưa ra lộ trình và thực hiện xóa bỏ hàng rào phi thuế quan theo 3 giai đoạn: một là, từ năm 2008 - 2010 đối với các nước ASEAN 6; hai là, từ năm 2011 - 2012 cho các nước Philippin, và ba là, từ năm 2013 - 2015, có thể kéo dài đến năm 2018 cho các nước CLMV. Hiện nay, việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan vẫn đang được thực hiện theo kế hoạch đề ra. “Các hàng rào phi thuế quan đã được xác định sẽ nhanh chóng được dỡ bỏ cho phù hợp với việc thực hiện Chương trình hành động về việc xóa bỏ hàng rào phi thuế mà Hội đồng AFTA trước đây đã quy định”[2].
Đối với cơ chế hải quan một cửa ASEAN (ASW) nhằm tăng tốc độ thông quan và giải phóng hàng hóa, với sự tham gia của 7 quốc gia thành viên ASEAN (Indonesia, Brunei, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) về trao đổi dữ liệu điện tử và tờ khai hải quan điện tử đã được các quốc gia thành viên nhanh chóng hoàn tất. Mặt khác, ASEAN tiếp tục thực hiện các biện pháp phương thức thực hiện vận tải ASEAN trong dịch vụ chuyên chở hàng không và hệ thống hải quan quá cảnh ASEAN.
Về thương mại dịch vụ, ASEAN đã có những thỏa thuận giúp sớm hoàn tất các thủ tục cần thiết để Hiệp định ASEAN có hiệu lực ngay theo thỏa thuận, qua đó tạo thuận lợi cho việc tham gia các hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trong khu vực. Việc tự do hóa trong các lĩnh vực kinh doanh, nghề nghiệp, giáo dục, môi trường, y tế, xây dựng, phân phối,… đã được các quốc gia thành viên ASEAN nhất trí thông qua và thực hiện một cách triệt để. Tính đến năm 2013, các quốc gia thành viên ASEAN đã trải qua 5 vòng đàm phán với việc thực hiện 8 gói cam kết thực hiện: vòng 1 (giai đoạn 1996 - 1998), vòng 2 (giai đoạn 1999 - 2001), vòng 3 (giai đoạn 2002 - 2004), vòng 4 (giai đoạn 2005 - 2007), và vòng 5 (giai đoạn 2007 - 2015) tự do hóa dịch vụ theo lịch trình AEC[3]. Hiện tại, các quốc gia thành viên cũng đã nỗ lực hoàn thành Gói cam kết dịch vụ thứ 9 và Gói cam kết thứ 10 sẽ được hoàn thành vào tháng 8/2015. “Ngoài ra, bộ trưởng tài chính và giao thông của các quốc gia thành viên ASEAN cũng đã thông qua thêm 4 gói cam kết về lĩnh vực dịch vụ tài chính và 6 gói cam kết về vận tải hàng không”[4]. Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên tích cực triển khai Kế hoạch Chiến lược du lịch ASEAN giai đoạn 2011-2015 nhằm mục đích tạo thuận lợi cho sự di chuyển của những người làm du lịch, thông qua thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA). Thỏa thuận MRA là một trong những sáng kiến quan trọng trong quá trình hội nhập thương mại dịch vụ khu vực - đây là thỏa thuận được các quốc gia thành viên đẩy mạnh việc thi hành. Theo thỏa thuận này, việc công nhận lẫn nhau về cấp phép, chứng nhận hành nghề của các nhà cung cấp dịch vụ, luân chuyển các chuyên gia nước ngoài được thực hiện thuận lợi hơn, phù hợp với nhu cầu của thị trường nội địa. Các quốc gia thành viên ASEAN cũng đạt được một số thành công vượt bậc trong các ngành dịch vụ ưu tiên, đặc biệt là lĩnh vực vận tải hàng không. Các nước ASEAN đạt được thành tựu không nhỏ trong việc thành lập Thị trường hàng không ASEAN đơn nhất (ASAM) nhờ áp dụng Công thức ASEAN - X, đồng thời, ASEAN cũng ký kết các thỏa thuận theo Lộ trình hội nhập du lịch hàng không (RIATS) và các Nghị định thư.
Về dòng đầu tư tự do, qua Biểu đánh giá AEC năm 2012, trong giai đoạn 2008 - 2009, các quốc gia thành viên ASEAN đã thực hiện 5 trên 6 biện pháp được đề xuất; giai đoạn 2010-2011 có 8 biện pháp chưa được thực hiện hoàn toàn (chiếm 61,5%); tỷ lệ số biện pháp chưa thực hiện hoàn toàn nhiều hơn so với tỷ lệ số biện pháp đã được thực hiện (chiếm 38,5%). Nhìn chung, giai đoạn 2008-2011, có trên 50% trong tổng số 19 biện pháp đã đưa ra là chưa được thực hiện hoàn toàn[5].
Về dòng dịch chuyển tự do lao động có tay nghề, sự dịch chuyển tự do lao động có tay nghề là một trong những nền tảng quan trọng trong việc tạo nên một thị trường chung, thống nhất góp phần thúc đẩy quá trình hình thành AEC. Việc ký kết thỏa thuận MRA với một số ngành nghề khác đã đưa tổng số ngành nghề được ký kết lên đến 7 lĩnh vực gồm: dịch vụ tư vấn kỹ thuật (2005), hành nghề y khoa (2006), dịch vụ kiến trúc (2007), hành nghề nha khoa (2009), dịch vụ điều dưỡng (2009), hành nghề du lịch (2012) và 2 ngành dịch vụ kế toán và kiểm toán được kí mới đây nhất vào năm 2014. Do đây là lĩnh vực còn tương đối mới nên chỉ có 1 biện pháp duy nhất hoàn thành trong giai đoạn 2 (2010 - 2011) là Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP) với mục đích đẩy mạnh sự dịch chuyển của con người liên quan đến thương mại và dịch vụ.
2.2. Một số hạn chế trong việc thực hiện các cam kết xây dựng AEC
Các quốc gia thành viên ASEAN đã đạt được những thành công không nhỏ trong các lĩnh vực tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn,… nhờ áp dụng triệt để các cam kết trong Kế hoạch tổng thể AEC 2015. Song việc hiện thực hóa các nội dung, mục tiêu được đề ra lại gặp rất nhiều khó khăn thách thức với điều kiện kinh tế của các nước ASEAN, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008. Vì vậy, đến nay còn tồn tại ít nhiều những mặt hạn chế như:
Thứ nhất, vấn đề phát triển chênh lệch giữa các quốc gia thành viên ASEAN: Sự chênh lệch trong sự phát triển của các nước ASEAN 6 so với các nước CLMV làm cho thành quả đạt được của hội nhập kinh tế không được phân bố đồng đều, chính là trở ngại lớn trong quá trình liên kết kinh tế ASEAN. Chênh lệch phát triển gây mất cân bằng trong quá trình liên kết, khiến cho các chương trình hợp tác thông qua tự do hóa gặp phải khó khăn về nhiều mặt, nhất là trong việc đồng bộ hóa các biện pháp, thể chế từ đơn giản đến phức tạp có liên quan đến hội nhập[6].
Thứ hai, về vấn đề tự do hóa thương mại: Các vấn đề về hàng rào phi thuế quan đã gây cản trở thương mại nội khối và làm giảm lợi ích của khu vực AFTA. Thuế suất của nhiều mặt hàng thuộc danh mục SL chưa được hài hòa hóa, tỷ trọng áp dụng ưu đãi thuế quan dưới 10%. Bên cạnh đó, tiến độ thực hiện các thỏa thuận AFAS và AIA của các nước thành viên ASEAN đều còn rất chậm.
Thứ ba, những bất cập về thể chế khu vực ASEAN: mặc dù đã có cải tiến nhưng vẫn chưa theo kịp tốc độ hội nhập trên thực tế. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cập về thể chế là do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, lịch sử văn hóa, hệ thống chính trị - xã hội,… Theo số liệu của Biểu đánh giá thực hiện AEC (ASEAN scorecard), tính đến hết năm 2013, các quốc gia thành viên chỉ đạt được 82,1% các biện pháp đề ra theo chương trình Nghị sự Phnom Pênh 2012 trong đầu năm 2013.
Thứ tư, đối mặt với thách thức ổn định được vị thế, duy trì vai trò trung tâm của khu vực ASEAN trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới: sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, các nền kinh tế nổi trội BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) ngày càng có tầm ảnh hưởng lớn đối với thế giới. Trong khi đó, các quốc gia thành viên ASEAN đang gặp nhiều khó khăn với các vấn đề an ninh xuyên quốc gia và phi truyền thống. Các quốc gia cần nỗ lực phối hợp tốt hơn ở cấp khu vực cũng như quốc gia để cùng vượt qua khó khăn, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
3. Sự tham gia của Việt Nam vào Cộng đồng kinh tế ASEAN
3.1. Đánh giá sự tham gia của Việt Nam vào Cộng đồng kinh tế ASEAN
Đến nay, mức thực hiện các cam kết xây dựng AEC được đề ra trong Kế hoạch tổng thể AEC của 10 quốc gia thành viên ASEAN đều đạt tỷ lệ 91%, trong đó, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ hoàn thành cao thứ hai (94,5%) sau Singapore. Việt Nam tham gia hợp tác ở hầu hết mọi lĩnh vực như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, giao thông vận tải, bảo vệ người tiêu dùng, chính sách cạnh tranh,… Việt Nam đã thực hiện hiệp định ATIGA giảm thuế nhập khẩu xuống mức 0 - 5% cho hơn 10 nghìn dòng thuế, chiếm 98% số dòng thuế trong biểu thuế.
Về tự do hóa thương mại, ASEAN là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu về đầu tư và thương mại của Việt Nam hiện nay. ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 và là đối tác cung cấp hàng hóa lớn thứ 2 của các doanh nghiệp Việt Nam. Kể từ năm 2008 đến nay, Việt Nam luôn là thành viên tích cực trong việc thực hiện các biện pháp từ 85% đến 95% theo từng giai đoạn và thuộc nhóm nước có tỷ lệ thực thi cao nhất.
Về tự do hóa đầu tư, tính đến nay, Việt Nam đã đầu tư sang 8 quốc gia ASEAN với 522 dự án với tổng vốn đăng ký khoảng 9,74 tỷ USD, chiếm 58,1% tổng số dự án và 51,2% vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài[7]. Hầu hết các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực nông lâm nghiệp, năng lượng, khai khoáng, bất động sản, tài chính…, những lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và có nhiều tiềm năng hợp tác với các quốc gia trong khu vực. Không chỉ thế,tính đến nay, các nhà đầu tư thuộc khu vực ASEAN đã đầu tư tại 55/63 tỉnh, thành của Việt Nam, với 2.431 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 51,8 tỷ USD, chiếm 14,2% số dự án FDI và trên 21,4% tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Đầu tư chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và kinh doanh bất động sản.
Về tự do hóa thương mại dịch vụ, Việt Nam và các quốc gia thành viên ASEAN đã hoàn thành 8 Gói cam kết về dịch vụ (cho 80 phân ngành) và vừa hoàn thành Gói cam kết thứ 9 (cho 104 phân ngành), hiện tại đang đàm phán vòng thứ 5 cho Gói cam kết cuối cùng (cho 124 phân ngành) sẽ được thực hiện làm 2 giai đoạn và hoàn tất vào cuối năm nay. Trong các Gói cam kết trên, mức độ mở của dịch vụ của Việt Nam thấp hơn hoặc là bằng so với mức độ mở cửa dịch vụ trong WTO từ Gói cam kết 1 – 7. Tuy nhiên, sang Gói cam kết thứ 8 – 9, phạm vi cam kết được mở rộng hơn, sâu hơn cũng như mức độ mở cửa dịch vụ của một vài phân ngành đã bắt đầu cao hơn so với mức độ mở cửa trong WTO đồng thời bổ sung thêm cam kết cho một số ngành mới. Bên cạnh đó, sự tự do di chuyển dịch vụ giữa các nước khu vực ASEAN và trên thế giới cũng là một trong những mục tiêu của AEC. Các phân ngành dịch vụ của Việt Nam như du lịch, vận tải, tài chính có cơ hội mở rộng thị trường ra toàn khu vực ASEAN với chi phí thấp khi AEC được thành lập.
3.2. Sự tham gia của thanh niên vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN
Sự ra đời của một cộng đồng chung ASEAN với ba trụ cột chính là Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa – Xã hội, Cộng đồng An ninh – Chính trị sẽ tạo ra nhiều thời cơ và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó thanh niên với vai trò là lực lượng chính, nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc có trách nhiệm xung kích thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của mình nhằm góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đưa đất nước ta hội nhập mạnh mẽ, bền vững với thế giới và khu vực.. Thanh niên Việt Nam đã tích cực tham gia vào hoạt động giao lưu với các nước ASEAN cũng như tích cực xây dựng nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành Cộng đồng ASEAN. Nhằm tạo dựng một cộng đồng ASEAN giàu bản sắc, lãnh đạo các nước đặc biệt ưu tiên phát triển mối quan hệ gần gũi giữa nhân dân các nước, bằng cách tăng cường giao lưu và hợp tác trong nhiều lĩnh vực, từ văn hóa - xã hội đến giáo dục và du lịch.
Về tăng cường giao lưu và hợp tác giáo dục, văn hóa xã hội, một trong những hoạt động thúc đẩy giao lưu thanh niên ASEAN là ngày thanh niên ASEAN (AYDM) được tổ chức hàng năm. Đến nay, ASEAN đã tổ chức được 20 sự kiện Ngày Thanh niên ASEAN. Bên cạnh đó các dự án, hội thảo, diễn đàn cho thanh niên các nước ASEAN được tổ chức tại các nước ASEAN với nhiều chủ đề đa dạng nằm trong các lĩnh vực ưu tiên của hợp tác thanh niên ASEAN như nâng cao năng lực lãnh đạo, Thanh niên với vấn đề việc làm, Thanh niên với công nghệ thông tin.... Điển hình là triển lãm Thanh niên ASEAN năm 2014 (ASEAN Youth Expo 2014) do Chính phủ Indonesia tổ chức vào tháng 8/2014, với chủ đề "Cánh cổng tới ASEAN". Sự kiện tập trung vào hai nội dung chính: Triển lãm văn hóa - nơi các đại biểu thanh niên được trao cơ hội quảng bá nền văn hóa nước nhà - và Triển lãm Việc làm và Học bổng, mở ra cơ hội nghề nghiệp và học tập nâng cao trình độ cho thanh niên.
Về tăng cường hợp tác du lịch, các quốc gia ASEAN luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác, hỗ trợ nhau cùng phát triển ngành du lịch theo phương châm "Một quốc gia thiếu, các quốc gia khác có" với mục tiêu đưa ASEAN trở thành khu vực thu hút du khách hàng đầu thế giới, bởi khu vực này hiện được xem là "trung tâm di sản thế giới", quy tụ trên 20 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận, bao gồm Đền Angkor Wat, Đền Preah Vihear (Campuchia), Di sản khảo cổ tại thung lũng Lenggong (Malaysia), Quần thể đền đài Borobudur (Indonesia), Thị trấn lịch sử Vigan (Philippines)…. Riêng Việt Nam có Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn…Chính sự đa dạng và độc đáo của văn hóa truyền thống các nước ASEAN là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển ngành du lịch. Vì vậy, vai trò của thanh niên trong việc quảng bá hình ảnh của đất nước, của khu vực sẽ góp phần thúc đẩy ngành du lịch của đất nước, của khu vực phát triển, tạo nên một cộng đồng giàu bản sắc. Đặc biệt, để tăng cường sự kết nối giữa con người với con người - nhân tố chính làm nên sự hòa hợp trong khối, kể từ năm 2013, ASEAN đã phát động chương trình "Tình nguyện viên trẻ ASEAN" (AYVP) - một diễn đàn cho thanh niên đóng góp vào quá trình xây dựng cộng đồng chung. Chương trình tình nguyện có uy tín trong khu vực diễn ra hàng năm với kỳ vọng đưa các lãnh đạo trẻ có tiềm năng thực hiện các dự án cộng đồng trên nhiều lĩnh vực gồm bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, doanh nghiệp xã hội...
Việc một cộng đồng chung ASEAN được thành lập đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn cũng như vô vàn khó khăn, thách thức trong thời gian tới. Đứng trước tình hình đó, với vị trí, vai trò là người chủ hiện tại và tương lai của nước nhà, thanh niên Việt Nam chiếm gần 30% dân số, là lực lượng sung mãn về thể lực, giàu khát vọng, hoài bão, có nhu cầu, có khả năng tiếp thu nhanh nhạy những thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật và quản lý hiện đại trên thế giới, năng động sáng tạo, chủ động học hỏi những cái mới, cái tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, cùng với sự phát triển của đất nước, thái độ và ý thức chính trị của thanh niên đã có những chuyển biến tích cực, thanh niên ngày càng quan tâm và có trách nhiệm hơn đối với những vấn đề của quê hương, đất nước, những vấn đề trong khu vực và trên thế giới. Ý thức lập nghiệp của thanh niên cũng cao hơn, tinh thần xung phong, tình nguyện, ý thức chia sẻ, tinh thần tương thân, tương ái đã được khơi dậy với một chất lượng mới, thanh niên đã chủ động và tự tin hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thanh niên đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức lớn đó là: trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, quản lý, kiến thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên nhìn chung còn thấp. Trong thanh niên nhận thức về học nghề, chọn nghề, định hướng nghề nghiệp còn nhiều lệch lạc, việc làm và thu nhập thấp vẫn đang là những vấn đề bức xúc trong thanh niên. Rồi sức khoẻ và thể chất của thanh niên nước ta còn thấp hơn các nước trong khu vực và trên thế giới rất nhiều, bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ trong thanh niên thiếu ý thức rèn luyện để hoàn thiện nhân cách của mình, non kém về nhận thức chính trị, chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn…Trước những thuận lợi và khó khăn của đất nước cũng như của bản thân mình, hơn lúc nào hết thanh niên Việt Nam phải nhận thấy rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước. Phải nhận thức được khó khăn lớn nhất của mình trong giai đoạn này là sự cạnh tranh quyết liệt về trí tuệ để đạt tới những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như trình độ quản lý. Để vượt qua được khó khăn đó, đòi hỏi rất cao ở thanh niên là phải tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải trau dồi bản lĩnh chính trị, giữ vững lý tưởng XHCN, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh với vai trò là chủ thể tích cực, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết luận
Đối với các quốc gia thành viên ASEAN, việc thực hiện các cam kết để xây dựng một Cộng đồng AEC là sự chuẩn bị vô cùng quan trọng và cấp bách, đặc biệt cần thực hiện tốt các cam kết qua việc ban hành các chính sách hợp lí, thông qua việc tạo hành lang pháp lí thông thoáng,… trong thời gian còn lại.
Đối với Việt Nam, AEC là cơ hội quý báu để Việt Nam nhanh chóng bắt kịp trình độ phát triển kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, chính phủ cần nỗ lực hơn nữa trong việc tiến hành cải cách cơ chế chính sách, các doanh nghiệp cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng kế hoạch, điều chỉnh chiến lược phù hợp với tình hình mới nhằm phát triển kinh tế bền vững và góp phần đẩy mạnh quá trình gia nhập AEC. Ngoài ra, để phát huy vai trò của thanh niên trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, mỗi một thanh niên cần nhận thức và ý thức được vai trò của mình trong tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN năm 2015, cần tích cực nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa, tôn giáo, chính trị, kinh tế, ngôn ngữ... của các nước trong khu vực để chủ động nâng cao năng lực hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Đăng Doanh (2015), “Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, đăng trên báo Tia Sáng, tải ngày 18/3/2015.
2. Nguyễn Duy Dũng (2015), “Cộng đồng ASEAN: thực trạng, thách thức và triển vọng”, Kỷ yếu Hội thảo Cộng đồng ASEAN sau 2015: Cơ hội và thách thức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Hà (2013), Hiện thực hóa Cộng đồng kinh tế ASEAN và tác động đến Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Huy Hoàng (2013), Đánh giá thực hiện các cam kết xây dựng cộng đồng ASEAN, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
5. Uyên Hương (2015), “Cộng đồng kinh tế ASEAN: Thêm cơ hội phát triển cho Việt Nam”, Thông tấn xã Việt Nam, tải ngày 18/3/2015.
6. Nguyễn Hồng Sơn (2009), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Nội dung và lộ trình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Báo Nhân dân, Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2015.
Tiếng Anh
8. ASEAN blue print 2015.
9. ASEAN Economic Community Scorecard 2012.
10. Denis Hew, Roadmap to an ASEAN economic community.
Website:
1. http://dl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/8898/1/Nguyen%20Thi%20Tam.pdf
2. http://www.trungtamwto.vn/aec/tom-luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec
3.http://asean.mofa.gov.vn/vi/nr130930205728/nr131113222745/ns131113223954/newsitem_print_preview
4. http://www.trungtamwto.vn/aec/cong-dong-kinh-te-asean-so-tay-kinh-doanh-0
5.http://www.itpc.gov.vn/exporters/news/tintrongnuoc/2015/2015-07-01.035008/aec_san_choi_moi_cho_doanh_nghiep_vn
[1] Ban thư ký ASEAN, Sổ tay kinh doanh trong cộng đồng kinh tế ASEAN, Jakarta, tháng 11/2011.
[2] Nguyễn Huy Hoàng (2013), Đánh giá thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN, NXB Từ điển bách khoa, tr. 134.
[3] Nguyễn Huy Hoàng, Sđd, tr. 137.
[4] Nguyễn Huy Hoàng, Sđd, tr. 140
[5] Nguyễn Văn Hà (2013), Hiện thực hóa cộng đồng kinh tế ASEAN và tác động đến Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, tr.114
[6] Nguyễn Huy Hoàng, Sđd,tr. 168.
[7]http://www.itpc.gov.vn/exporters/news/tintrongnuoc/2015/2015-07-01.035008/aec_san_choi_moi_cho_doanh_nghiep_vn