THỰC HIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NỘI LUẬT HÓA CAM KẾT QUỐC TẾ VỀ CỘNG ĐỒNG VĂN HÓA – XÃ HỘI ASEAN VÀ HÀNH TRANG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
ThS.NCS. Trần Văn Duy
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam
Tóm tắt
Sự phát triển của Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN với mục tiêu cơ bản của trụ cột thứ ba thể hiện trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Bali II) và Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN là góp phần xây dựng một Cộng đồng ASEAN lấy con người làm trung tâm; có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia và dân tộc ASEAN bằng cách tiến tới một bản sắc chung; xây dựng một xã hội chia sẻ, đùm bọc, hòa thuận và rộng mở nơi mà cuộc sống, mức sống và phúc lợi của người dân được nâng cao.
Tuy nhiên, Việt Nam khi thực hiện pháp luật nội luật hóa cam kết quốc tế của Việt Nam về Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN thì cần giải quyết những vấn đề thách thức về thể chế chính sách, pháp luật do trình độ lập pháp, lập quy và xây dựng chính sách công còn nhiều bất cập, yếu kém. Bên cạnh đó, thanh niên Việt Nam cũng cần phải có những hành trang chuẩn bị tham gia vào Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN vì một Cộng đồng ASEAN phát triển hài hòa và bền vững.
1. Cơ sở pháp lý hình thành Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC)
Tuyên bố Băng-Cốc năm 1967 đặt nền móng cho hợp tác ASEAN bao gồm cả lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học, kĩ thuật[1]. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên làm cơ sở hình thành Cộng đồng Văn hóa xã hội. Năm 1976, Tuyên bố Hòa hợp ASEAN I[2] còn gọi là tuyên bố Ba-li I năm 1976 của các nhà lãnh đạo ASEAN đã cụ thể hóa nhiều nội dung hợp tác văn hóa xã hội ASEAN hướng tới các đối tượng nghèo ở nông thôn, tạo điều kiện cho phụ nữ và trẻ em, phòng chống ma túy, các hoạt động hợp tác văn hóa, thông tin, giáo dục.
Năm 1997, Tuyên bố Tầm nhìn 2020 tại Hà Nội của nhà lãnh đạo ASEAN[3] khẳng định việc xây dựng được một cộng đồng hòa bình, ổn định và phát triển mạnh mẽ, đồng thời đặt ra mục tiêu phát triển cộng đồng đó thành một Cộng đồng Hài hòa các Dân tộc; Cộng đồng Đối tác Năng động để Phát triển; và một Cộng đồng Đùm bọc và Chia sẻ. Năm 2003, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 9, diễn ra tại Ba-li (Indonexia) vào tháng 10 năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã tiếp tục cụ thể hóa ý tưởng trên thành một Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa Xã hội- ASCC. Một năm sau đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 tại Viên-Chăn, nguyên thủ các nước ASEAN đã thông qua Chương trình Hành động Viên-Chăn để thực hiện mục tiêu này.
Năm 2008, Hiến chương ASEAN đã thông qua tạo dựng cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế vững vàng nhằm xây dựng Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN - một trụ cột quan trọng trong 3 trụ cột để xây dưng cộng đồng ASEAN. Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN được thông qua năm 2008 đưa vào những biện pháp thực hiện cụ thể phù hợp với tình hình và nhu cầu hiện nay nhằm đẩy mạnh việc thành lập Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN vào năm 2015.[4]
Theo Hiến chương ASEAN, các cơ quan của ASEAN bao gồm: Cơ quan Cấp cao ASEAN, gồm các Nguyên thủ quốc gia, những người đứng đầu Nhà nước/Chính phủ các nước ASEAN, họp ít nhất 2 lần trong 1 năm hoặc họp khi cần thiết, chỉ đạo phương hướng và ra những quyết sách lớn, quan trọng của ASEAN[5]. Dưới Cấp cao là Hội đồng điều phối chung – ACC gồm các Ngoại trưởng, có nhiệm vụ điều phối công việc của cả 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN, chuẩn bị các cuộc họp và bảo đảm triển khai các quyết định của Cấp cao. Dưới Hội đồng Hội đồng điều phối chung – ACC là ba Hội đồng ở cấp Bộ trưởng để điều phối và triển khai công việc của từng trụ cột (Chính trị-An ninh, Kinh tế, Văn hóa-Xã hội). Các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành thực hiện các hoạt động hợp tác theo từng chuyên ngành và phải báo cáo lên Hội đồng Cộng đồng phụ trách trụ cột tương ứng[6].
Xét về vị trí trong bộ máy của ASEAN, Cộng đồng văn hoá xã hội là cơ quan đầu mối điều phối các hoạt động của các cơ quan chuyên ngành của lĩnh vực văn hoá xã hội. Mọi quyết định của các nhà lãnh đạo cấp cao về một lĩnh vực chuyên ngành nào đó của cộng đồng văn hoá xã hội, hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hoá xã hội đều phải có ý kiến đồng thuận của Cộng đồng văn hoá xã hội. Nguyên tắc đồng thuận là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của ASEAN. Quy trình một sáng kiến pháp lý liên quan đến các lĩnh vực của cộng đồng văn hoá xã hội có thể đi theo hướng từ duới lên có nghĩa là từ Hội nghị bộ trưởng của một lĩnh vực chuyên ngành nào đó, sau đó đến ASCC và sau đó đến cấp cao, hoặc có thể đi theo hướng từ trên xuống. Theo hướng này các ưu tiên của các lĩnh vực được đưa ra và sau đó sẽ được thảo luận và bàn bạc để có sự đồng thuận ở cấp Bộ trưởng, sau đó đưa trở lại ASCC để có được sự đồng thuận sau đó là đưa lên cấp cao. Việc đưa ra các sáng kiến trong việc xây dựng các văn kiện cấp cao thuộc lĩnh vực của cộng đồng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của nước chủ nhà. Mối ưu tiên của nước chủ nhà cũng như việc sử dụng có hiệu quả chiến lược từ trên xuống và từ dưới lên về một lĩnh vực ưu tiên nào đó để đạt được sự đồng thuận.
Quá trình xây dựng cộng đồng ASEAn gồm 3 trụ cột là kết quả của những thay đổi to lớn và nhanh chóng của bối cảnh thế giới và khu vực, cũng như phản ánh sự phát triển của ASEAN trong những năm gần đây, là đối sách của ASEAN trước quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và Ấn Độ và trước tác động của các thách thức an ninh phi truyền thống cũng như các vấn đề toàn cầu.
2. Thực hiện pháp luật nội luật hóa cam kết quốc tế của Việt Nam về Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN
2.1. Nhu cầu về việc xây dựng, hình thành các quy định pháp luật cho việc hoạt động của cộng đồng là rất lớn
Lĩnh vực hợp tác của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội bao trùm hầu hết các vấn đề xã hội ở các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam. Các hoạt động hợp tác này, có thể chưa có tác động ngay và trực tiếp tới đại bộ phận người dân nhưng sẽ có tác động gián tiếp và dần dần thông qua việc xây dựng các chuẩn mực, định hướng, hình thành các khuôn khổ, cơ chế hợp tác trong và ngoài khu vực, và trong từng lĩnh vực. Điều này có nghĩa là nhu cầu về việc xây dựng, hình thành các khuôn khổ pháp luật, các quy định pháp luật cho việc hoạt động của cộng đồng là rất lớn và đa dạng. Nguồn lực và khoảng cách phát triển và sự khác biệt về điều kiện kinh tế chính trị, văn hoá xã hội là những thách thức chính cho việc đạt được đồng thuận cũng như tiến độ tổ chức triển khai thực hiện các cam kết ở cấp quốc gia và cấp khu vực.
- Trong lĩnh vực giáo dục: Cần phải nhanh chóng xây dựng các mục tiêu và chuẩn mực giáo dục chung khu vực như bảo đảm phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015, hợp tác nhằm tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, nhất là đối với vùng sâu vùng xa; tăng cường hợp tác với các khu vực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong khu vực; hợp tác nhằm phổ cập tiếng Anh sâu rộng trong ASEAN; nâng cao hợp tác đào tạo tay nghề nhằm bảo đảm tính cạnh tranh cao của lực lượng lao động. Tuyên bố Chạ am – Hua Hỉn về Tăng cường hợp tác về giáo dục tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN đùm bọc và chia sẻ được các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua năm 2009[7] xác định vai trò của giáo dục trong tất cả ba trụ cột của cộng đồng. Phát triển nguồn nhân lực cho phục hồi kinh tế và phát triển khẳng định ưu tiên của các nước ASEAN trong việc đào tạo nghề, phát triển kỹ năng, tăng cường hợp tác về dạy nghề tăng cường chất lượng nguồn nhân lực và tính cạnh tranh của ASEAN. Việc thực hiện các tuyên bố này bên cạnh những cam kết chính trị mạnh mẽ đòi hỏi phải có nguồn lực tương xứng, trong đó nguồn nội lực của từng quốc gia là rất quan trọng.
- Trong lĩnh vực y tế: thúc đẩy hợp tác về y tế, bảo đảm phổ cập dịch vụ y tế chất lượng và giá cả hợp lý, xây dựng phong cách sống lành mạnh cho người dân, tăng cường hợp tác phòng chống ma túy, trao đổi kinh nghiệm và chuyên gia y tế trong khu vực; hợp tác phòng chống bệnh truyền nhiễm, trong đó bảo đảm duy trì dự trữ thuốc chiến lược, thuốc kháng sinh ở khu vực. Hiện nay ASEAN đã đưa vào hệ thống mạng và truyền thông về các bệnh truyền nhiễm đang nổi lên và tồn tại trong khu vực, đồng thời tăng cường giám sát và chuẩn bị ứng phó trước nguy cơ đại dịch. Tăng cường hệ thống phản ứng với trọng tâm là phương pháp phối hợp đa ngành, chia sẻ thông tin và tiếp cận đa quốc gia. Hiệp định phòng chống dịch bệnh được thực hiện trên cơ sở phối hợp với tổ chức Y tế Thế giới thực hiện công tác phản ứng nhanh ASEAN và tiến hành các hành động chuẩn trong ngăn chặn, chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Công tác tư vấn cũng được thực hiện trên cơ sở phối hợp với các công ty dược và các đơn vị tư nhân nhằm tăng cường tiếp cận nhanh hơn với các loại thuốc chống virus và vắc xin cúm đại dịch.
- Trong lĩnh vực môi trường: hợp tác phòng chống ô nhiễm và rác thải độc hại xuyên biên giới, tăng cường giáo dục bảo vệ môi trường; thúc đẩy hợp tác khu vực nhằm phát triển các công nghệ thân thiện với môi trường; cải thiện môi trường sống ở các khu độ thị thông qua việc xây dựng tiêu chuẩn môi trường bền vững đối với các thành phố lớn của ASEAN; phối hợp chính sách môi trường các nước thành viên; bảo vệ môi trường biển và các vùng ven biển; hợp tác bảo đảm khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên; hợp tác bảo vệ nguồn nước sạch và nhiều lĩnh vực khác. Về phương diện pháp lý liên quan đến Biến đổi Khí hậu trong khuôn khổ hợp tác chuyên ngành về môi trường thuộc cộng đồng văn hoá xã hội, các Bộ trưởng Môi trường đã thông qua các Điều khoản tham chiếu của Sáng kiến ASEAN về Biến đổi Khí hậu (ACCI) và thành lập Nhóm Công tác ASEAN về Biến đổi Khí hậu trong Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Môi trường diễn ra vào ngày 29 tháng 10 năm 2009. Biến đổi Khí hậu cũng được các ngành có liên quan như nông nghiệp và lâm nghiệp, năng lượng và giao thông, quản lý thiên tai, và Khoa học và công nghệ đặc biệt chú trọng. Công tác phối hợp với các Đối tác Đối thoại và các Tổ chức Quốc tế để giải quyết vấn đề Biến đối Khí hậu đang được triển khai.
Về Quản lý Thiên tai và Hỗ trợ nhân đạo ASEAN sẽ tiếp tục đóng vai trò lớn trong điều phối công tác cứu trợ thời kỳ hậu Nargis tại Myanmar đến cuối năm 2010. Hiệp định ASEAN về Quản lý Thiên tai và Ứng phó với tình huống khẩn cấp đã có hiệu lực kể từ ngày 24 tháng 12 năm 2009[8]. Chương trình Làm việc 5 năm để thực thi Hiệp định này và các hoạt động có liên quan trong khuôn khổ Kế hoạch tổng thể ASCC cũng đã được Ủy ban ASEAN về Quản lý thiên tai thông qua để thực hiện trong giai đoạn 2010-2015. Việc thành lập Trung tâm Điều phối ASEAN về Cứu trợ Nhân đạo trong Quản lý thiên tai cũng đang được tiến hành.
Về Thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ, trẻ em và người lao động nhập cư đã đạt được một số tiến bộ đáng kể. Uỷ ban về Thúc đẩy và Bảo vệ quyền Phụ nữ và Trẻ em đã được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lấn thứ 16 vào tháng 4 năm 2010 tại Hà Nội Việt Nam. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố Hà Nội về Thúc đẩy Phúc lợi cho Phụ nữ và Trẻ em ASEAN Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 tại Việt Nam. Tiếp theo việc thông qua các tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN về quyền của người lao động di cư tại Philipine năm 2007, ASEAN cũng đã bắt đầu tiến hành soạn thảo các văn kiện về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động nhập cư.
Để các văn kiện ASEAN có tính thực tiễn cao và có khả năng thực thi cũng như có thể thu hút được các nguồn lực thực hiện hoạt động điều phối của cộng đồng văn hoá xã hội phải có tính định hướng cao, có chiến lược rõ ràng. Đảm bảo sự gắn kết giữa ưu tiên của cộng đồng và hoạt động của các lĩnh vực chuyên ngành trong cộng đồng và trong các cộng động khác. Đối với Việt Nam điều này còn là một thách thức lớn hơn khi chất lượng nguồn nhân lực và tính cạnh tranh về năng suất lao động của Việt Nam còn rất thấp so với nhiều nước ASEAN.
2.2. Mức độ cam kết và khả năng thực hiện các cam kết trong các văn kiện thuộc lĩnh vực của cộng đồng văn hoá xã hội còn rất thấp
Hầu hết các tuyên bố của các Nhà lãnh đạo ASEAN trong khuôn khổ hoạt động của Cộng đồng văn hoá xã hội là “Khuyến khích, thúc đẩy, tăng cường” thực hiện một hoạt động ưu tiên nào đó thay vì việc dùng các từ như “tuyên bố, cam kết” thực hiện. Mức độ cam kết và tính thực thi không cao. Một số lĩnh vực đặc thù như phát triển nguồn nhân lực, giáo dục, di chuyển thể nhân, công nhận kỹ năng rất khó khăn trong việc đạt được sự đồng thuận cũng như nguồn lực để tổ chức thực hiện. Sự chênh lệch về điều kiện kinh tế chính trị và xã hội, sự đấu tranh về các lợi ích là những thách thức.
2.3. Khoảng cách về trình độ phát triển trong ASEAN là thách thức trong việc thực hiện mục tiêu của cộng đồng văn hoá xã hội
Do sự khác biệt trình độ phát triển dẫn đến khác biệt về các giá trị văn hóa và tinh thần và con người được hưởng thụ. Ở những nước nghèo và các khu vực nghèo, việc duy trì đầy đủ các điều kiện sống cơ bản như lương thực và nước sạch là ưu tiên hàng đầu đối với người dân, trong khi ở những khu vực phát triển hơn, người dân đã hướng tới hưởng thụ các giá trị cao hơn như an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phim ảnh, du lịch. Nguồn lực hạn chế cũng sẽ tiếp tục cản trở việc thực hiện các chương trình, dự án văn hóa – xã hội thường là khá tốn kém, nhất là nếu ASEAN muốn các chương trình, dự án đó thực sự đến được tới đông đảo người dân.
2.4. Lĩnh vực đa dạng và nhạy cảm là thách thức trong việc thực hiện chức năng điều phối ở cả cấp quốc gia và cấp khu vực
Cộng đồng Văn hoá – Xã hội ASEAN có đặc thù khác so với hai Cộng đồng khác, đó là lĩnh vực thuộc sự điều phối của cộng đồng rất rộng, liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau, đặc biệt có những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm ví dụ như quyền của phụ nữ và trẻ em, quyền của lao động di cư, quyền của các nhóm yếu thế cần có sự nghiên cứu cẩn trọng và nhất thiết phải tham khảo ý kiến của nhiều cơ quan chuyên môn. Đặc điểm này đã mang tới nhiều thuận lợi đó là sự đa dạng, phong phú của Trụ cột Cộng đồng ASCC, tạo nên sự gắn kết đa dạng và bền vững nếu áp dụng được cơ chế điều phối, phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các bộ, ngành, cơ quan trong triển khai các nội dung, hoạt động của Kế hoạch tổng thể ASCC trong và ngoài nước. Nhưng đặc điểm này cũng là một thách thức lớn trong hoạt động của cộng đồng văn hoá xã hội đó là vấn đề đồng thuận trong việc xác định ưu tiên, thu hút nguồn lực và tập trung nguồn lực để thực hiện.
3. Thực trạng của nguồn nhân lực thanh niên khi tham gia vào Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC)
Hộp 1: Số liệu về thực trạng nhân lực tại Việt Nam hiện nay
Thực trạng Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68% - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52 triệu người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.
(Số liệu sử dụng trong bài từ Niên giám thống kê năm 2013 của Tổng cục Thống kê)
Tại http://smp.vnu.edu.vn/content/phat-trien-nguon-nhan-luc-viet-nam-giai-doan-2015-2020-dap-ung-yeu-cau-day-manh-cong-nghiep
|
Để xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung và Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN nói riêng cần huy động tổng hợp nhiều nguồn lực tài chính và nhân lực khác nhau. Các nguồn lực tài chính, chuyên môn, nghiên cứu và xây dựng năng lực để thực hiện Kế hoạch Tổng thể Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN có thể được huy động từ: Các Quốc gia Thành viên ASEAN; Các Bên Đối thoại, Đối tác Lĩnh vực và Đối tác Phát triển; Các Tổ chức Khu vực và Quốc tế đặc biệt là Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Thế giới, Công ty Tài chính Quốc tế, Liên Hiệp quốc; Các Quỹ Khu vực và Thế giới; Khu vực Tư nhân. ASEAN với tư cách tổ chức liên chính phủ có vai trò chủ đạo trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, nguồn lực từ chính phủ các nước ASEAN là một trong những nguồn chủ đạo và tiên phong trong việc xây dựng Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN. Bên cạnh đó nguồn lực của ASEAN còn được huy động từ cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các đoàn thể, hiệp hội, các viện nghiên cứu, trường đại học và các cá nhân cũng cần có vai trò tích vực trong việc xây dựng Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN. Các chính phủ ngoài khu vực, các tổ chức liên chính phủ, quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp ngoài khu vực cũng như những nguồn lực lớn ASEAN cần tranh thủ, kể cả tài lực và nhân lực. Trên thực tế, các nguồn lực từ bên ngoài chiếm tỉ trọng lớn và then chốt đối với thúc đẩy hợp tác ASEAN nói chung và xây dựng cộng đồng ASEAN nói riêng trong nhiều năm qua. ASEAN đang tranh thủ mọi nguồn lực, cả trong và ngoài ASEAN, cả chính phủ và phi chính phủ, cả cá nhân và tổ chức trong việc thúc đẩy xây dựng Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN. Tuy nhiên do sự đa dạng và phong phú trong hoạt động của cộng đồng văn hoá xã hội, sự khác biệt về phát triển, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội khác nhau mà nguồn lực để xây dựng Cộng đồng văn hoá xã hội còn hạn chế và đây là một trong những thách thức lớn trong quá trình xây dựng cộng đồng.
4. Gợi mở một số giải pháp cho thanh niên Việt Nam trong tiến trình xây dựng Cộng đồng Văn hoá Xã hội trong thời gian tới
4.1. Giải pháp vĩ mô
- Tăng cường huy động nguồn lực để thực hiện các ưu tiên thông qua việc xây dựng một cơ chế tốt nhằm huy động và quản lý hiệu quả các nguồn lực, từ cả các nước thành viên cũng như các đối tác của ASEAN để thực hiện kế hoạch tổng thể của Cộng đồng Văn hoá - Xã hội theo đúng lộ trình.
- Thúc đẩy đề xuất sáng kiến trong các lĩnh vực chuyên ngành nhằm đẩy mạnh hơn nữa hợp tác ASEAN về các lĩnh vực liên quan của Cộng đồng. Bố trí nguồn lực thích đáng để tiếp tục triển khai, thực hiện những sáng kiến đã được thông qua trong ASEAN. Tiếp tục chủ động tham gia tích cực các hoạt động theo các lĩnh vực chuyên ngành trong đó có chú trọng tới công tác phối hợp xây dựng chính sách chung của ASEAN.
4.2. Giải pháp cụ thể cho thanh niên
- Thanh niên tự tăng cường học và tự bồi dưỡng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh, văn hoá thế giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
- Thanh niên tự tăng cường phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần.
- Thanh niên tăng cường tính kỷ luật lao động theo tác phong công nghiệp.
Kết luận
Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột về chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa -xã hội, có mục tiêu tổng quát là trở thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế, có trách nhiệm về xã hội và hoạt động trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN. Thành công của ASEAN là do sự tụ hội của nhiều nhân tố, nhưng trước hết là do sự chia sẻ nhiều lợi ích cơ bản cũng như tầm nhìn, quyết tâm chính trị mạnh mẽ và những nỗ lực không mệt mỏi của các nước thành viên, trong đó có Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến chương ASEAN
2. Kế hoạch tổng thể của Cộng đồng Văn hoá Xã hội
3. Tuyên bố Chạ am – Hua Hỉn về Tăng cường hợp tác về giáo dục tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN đùm bọc và chia sẻ
4. Tuyên bố chung ASEAN về Biến đổi khí hậu Hội nghị các nước tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu và Kỳ họp lần thứ 5 Hội nghị các nước tham gia Nghị định thư Kyoto
5. Tuyên bố của Lãnh đạo Cấp cao ASEAN về Phát triển Nguồn nhân lực và Kỹ năng cho Phục hồi kinh tế và Tăng trưởng bền vững
6. Tuyên bố Hà Nội về Thúc đẩy Phúc lợi cho Phụ nữ và Trẻ em ASEAN
7. Trang Web http://en.wikipedia.org/wiki/ASEAN_Community
[1] Tuyên bố Băng-cốc 1967, truy cập tại http://asean.mofa.gov.vn/thong-tin/21/tuyen-bo-bang-coc-1967.html
[2] Xem chi tiết tại http://asean.mofa.gov.vn/thong-tin/29/tuyen-bo-hoa-hop-asean-ii.html
[3] Xem chi tiết tại http://www.diendanvanhoadoanhnghiep.vn/vi-vn/nhung-dau-moc-quan-trong-tren-con-duong-phat-trien-cua-asean.html
[4] Kế hoạch của Cộng đồng văn hoá Xã hội, xem trang web ASEAN
[5]Xem chi tiết http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Hien-chuong-Hiep-hoi-cac-quoc-gia-Dong-Nam-A-20-11-2007-15-12-2008-82772.aspx
[6] Điều 7, 8,9,10 Hiến chương ASEAN tại Xem chi tiết http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Hien-chuong-Hiep-hoi-cac-quoc-gia-Dong-Nam-A-20-11-2007-15-12-2008-82772.aspx
[7] Xem tại http://asean.mofa.gov.vn/thong-tin/9/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-asean.html
[8] Xem tại http://asean.mofa.gov.vn/thong-tin/17/act_print/ban-in.html