Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
  • Thư viện điện tử và kho tin
  • Đề tài nghiên cứu cấp bộ
  • Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước
  • Tham khảo tạp chí
  • Sách toàn văn
  • Thư điện tử
  • Chính phủ

Thực trạng lao động trình độ cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập cộng đồng ASEAN

ThS. Lê Lan Anh

07/10/2016

Hà Nội, 24/5/2016

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRÌNH ĐỘ CAO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG ASEAN

ThS. Lê Lan Anh

Viện Nghiên cứu châu Mỹ

Tóm tắt

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đang hội nhập rất sâu, rộng. Tham gia tích cực vào nhiều liên kết, hiệp hội, Việt Nam mong muốn mang đến nhiều cơ hội phát triển cho đất nước, đặc biệt là gia tăng cơ hội cho thế hệ trẻ hòa nhập vào xu thế phát triển chung của thế giới. Gần đây, sự kiện Cộng đồng Asean (AC) chính thức ra đời vào ngày 31/12/2015, không những là dấu mốc quan trọng trong lịch sử của Asean, mà còn là cơ hội lớn cho thanh niên Việt Nam được thể hiện mình trong một sân chơi lớn hơn. Vậy, thanh niên Việt Nam đã chuẩn bị được những gì, còn thiếu, yếu những mặt nào, giải pháp nào để khắc phục những thiếu sót đó, để không bị tụt hậu khi tham gia AC? là những vấn đề đáng được quan tâm, nghiên cứu làm rõ. Bài viết này không có tham vọng làm rõ được hết các vấn đề nêu trên. Do đó, tác giả chọn vấn đề “Thực trạng lao động trình độ cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng Asean” làm chủ đề nghiên cứu cho bài viết này.

1. Cơ hội việc làm trong AC

Quyết định xây dựng Cộng đồng Asean được các nhà lãnh đạo chính thức đưa ra tại Hội nghị Cấp cao Asean lần thứ 9 tại Indonesia năm 2003, là một bước ngoạt mang ý nghĩa lịch sử phát triển của Asean, đánh dấu sự chuyển mình về chất trong quá trình hợp tác và liên kết giữa các quốc gia khu vực, đưa Asean từ một Hiệp hội với mức độ liên kết còn lỏng lẻo, hướng tới một Cộng đồng gắn kết chặt chẽ và hợp tác sâu rộng hơn.

Quyết định này, thời điểm đó, nhận được sự nhất trí cao của tất cả các thành viên trong Hiệp hội, trong đó có Việt Nam là một trong những nước đóng vai trò tích cực. Asean đồng thời ý thức được rằng trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng khi bước sang thế kỷ XXI, để không bị tụt hậu và giữ được vai trò, vị thế của mình, tận dụng tối đa cơ hội mở ra cũng như ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức, tăng cường liên kết chính là xu thế tất yếu. Các nước thành viên đều cho rằng, hợp tác kinh tế Asean đang đi vào chiều sâu, dựa trên khuôn khổ pháp lý của Hiến chương Asean, kế hoạch tổng thể về AC và lộ trình chiến lược về thực hiện AC sẽ được hoàn thành vào năm 2015. Đúng như lộ trình đã định, sau nhiều năm cùng cố gắng xây dựng, ngày 31/12/2015, Cộng đồng Asean đã chính thức ra đời, tạo nên một Asean gắn kết về an ninh, kinh tế, văn hóa xã hội, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia trong Cộng đồng.

Theo một nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với chủ đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và thịnh vượng chung” được công bố tại Hà Nội, tại buổi Đối thoại chính sách quốc gia cùng chủ đề trên do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đồng tổ chức vào ngày 4/9/2014, cho thấy sự ra đời của Cộng đồng ASEAN (AC) trong năm 2015 sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng tưởng GPD của Việt Nam thêm 14,5% và tăng trưởng việc làm thêm 10,5% vào năm 2025. AEC sẽ cho phép các lao động có tay nghề cao, dịch vụ, đầu tư và hàng hóa của 10 quốc gia thành viên của ASEAN được di chuyển tự do hơn trong khu vực. Các lĩnh vực như xây dựng, giao thông vận tải, dệt may và chế biến thực phẩm… cũng sẽ tạo nên tốc độ tăng trưởng cao về việc làm cho các nước thành viên.

Việt Nam cần tận dụng cơ hội đó, tuy nhiên phải có chiến lược, có sự chuẩn bị cho không chỉ doanh nghiệp mà cho từng cá nhân, đặc biệt là cho người lao động. Thanh niên Việt Nam nói chung cần tiếp tục nâng cao nhận thức về cộng đồng Asean, tích cực tham gia hoạt động trong Asean… Để làm được điều đó, thanh niên cần có ngoại ngữ tốt, trình độ chuyên môn tốt. Điều đó đồng nghĩa với việc xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ cao, đáp ứng được nhu cầu hội nhập là một trong những ưu tiên hàng đầu cho phát triển một nguồn nhân lực trẻ, khỏe, chuyên nghiệp ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập Cộng đồng Asean. Xét về mặt bằng chung, hiện nay Việt Nam chưa có lực lượng lao động trình độ cao với cơ cấu và chất lượng như mong đợi.

2. Quan niệm về “Lao động trình độ cao”

Lao động trình độ cao, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một bộ phận của nguồn nhân lực đang làm việc ở những vị trí lãnh đạo, chuyên môn kỹ thuật bậc cao và chuyên môn kỹ thuật bậc trung theo phân loại nghề của Tổng cục Thống kê.

Lao động trình độ cao có đặc điểm là thường được đào tạo ở trình độ sơ cấp trở lên; có kiến thức và kỹ năng để làm các công việc phức tạp; có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ và vận dụng sáng tạo những kiến thức, những kỹ năng đã được đào tạo trong quá trình lao động sản xuất[1].

3. Thực trạng lao động trình độ cao ở Việt Nam hiện nay

Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động-Thương binh& Xã hội, số lượng lao động qua đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong Quý 2,3/2015 (Biểu đồ 1) như sau: đối với trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học: Quý 3 có sự tăng nhẹ so với Quý 2 từ 1.61 triệu người lên 1.73 triệu người (cao đẳng), và từ 4.47 triệu người lên 4.74 triệu người (đại học và trên đại học). Trong khi đó, ở trình độ trung cấp và sơ cấp, số lượng lao động có giảm một chút nhưng không đáng kể với 2.92 triệu người xuống 2.85 triệu người (trung cấp), và 1.77 triệu người xuống 1.66 triệu người (sơ cấp nghề).

Đồ thị 1:

http://ilssa.org.vn/wp-content/uploads/2016/02/mm.png

Tính đến Quý 4 năm 2015, cả nước có hơn 53 triệu người có việc làm, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng/chứng chỉ đạt 20.20%.

Tại khu vực Hà Nội, lao động trình độ cao hiện nay tập trung ở một số nhóm nghề: các nhóm ngành nghề có bằng cấp Đại học: kiến trúc-xây dựng, Dầu khí – Hóa chất, Đầu tư, Bưu Chính, Công nghệ cao; các nhóm ngành nghề có trình độ trung cấp và cao đẳng: kinh doanh bán hàng, kinh doanh bất động sản, vận tải, dịch vụ thông tin tư vấn – chăm sóc khách hàng.

Đồ thị 2: Nhu cầu tuyển dụng phân theo bằng cấp tại khu vực Hà Nội:

http://vlhanoi2.vieclamvietnam.gov.vn/Portals/89/Bi%E1%BB%83u%20%C4%91%E1%BB%93%201.jpg

Nguồn: Báo cáo thị trường lao động Hà Nội tháng 10/2015 của Phòng Phân tích dự báo thị trường lao động số 2, thuộc Sở Lao động- Thương binh&Xã hội Hà Nội.

Biểu đồ trên cho thấy một thực trạng nhu cầu tuyển dụng nhóm lao động có trình độ từ trung cấp đến cao đẳng cao hơn các nhóm còn lại. Điều này cũng dễ hiểu do đặc thù một số ngành nên nhu cầu sử dụng lao động ít, và ít có sự thay đổi về mặt nhân sự trong những ngành đó. Vì vậy, tính đến tháng 12/2015, nhu cầu tuyển dụng nhân lực tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh tại Hà Nội tập trung như tại Biểu đồ 3:

Đồ thị 3: Nhu cầu tuyển dụng nhân lực tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh tại Hà Nội

http://vlhanoi2.vieclamvietnam.gov.vn/Portals/89/PTDB/thang12/h%C3%ACnh%201.jpg

Nguồn: Báo cáo thị trường lao động Hà Nội tháng 12/2015 của Phòng Phân tích dự báo thị trường lao động số 2, thuộc Sở Lao động- Thương binh & Xã hội Hà Nội.

Trong khi đó tại Tp. Hồ Chí Minh, nhu cầu tuyển dụng theo trình độ trong tháng 9/2015 gồm: lao động phổ thông 28%; sơ cấp nghề - công nhân kỹ thuật 25%, trung cấp 20%; cao đẳng - đại học - trên đại học 27%[2], chủ yếu tập trung ở các nhóm ngành: dệt may - giày da; kinh doanh tài sản - bất động sản; kiến trúc - kỹ thuật công trình xây dựng, vận tải kho bãi xuất nhập khẩu; kinh doanh - bán hàng; chế biến lương thực - thực phẩm…

Đồ thị 4: Nhu cầu tuyển dụng theo trình độ tại Tp. Hồ Chí Minh tháng 9/2015:

 

http://static.bizlive.vn/uploaded/tuanminh/2015_08_30/abc_kwwv.jpg?width=670

Nguồn: Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thị trường lao động TP. HCM

Như vậy, nếu xét theo số lượng lao động được đào tạo về trình độ cũng như chuyên môn kỹ thuật, nước ta hiện đang có một nguồn lao động trẻ dồi dào về số lượng. Đây là một nguồn lực rất lớn để chúng ta có thể khai thác, sử dụng trong công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, theo nhiều con số thống kê hiện nay về tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên sau khi tốt nghiệp ra trường lại đang ở mức khá cao. Về thất nghiệp và thiếu việc làm, theo các số liệu của Tổng Cục Thống kê đưa ra (tại Biểu đồ 5), trong quý 4/2015, cả nước có 1.051,6 nghìn người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, trong đó nhóm thanh niên (15-24 tuổi) có 559,4 nghìn người (chiếm 53,2%). Trong số những người bị thất nghiệp, có 417,3 nghìn người có chuyên môn kỹ thuật (CMKT) (chiếm 39,7%), bao gồm: 155,5 nghìn từ đại học trở lên; 115 nghìn cao đẳng chuyên nghiệp; 6,1 nghìn cao đẳng nghề; 63,8 nghìn trung cấp chuyên nghiệp; 15 nghìn trung cấp nghề; 26,9 nghìn sơ cấp nghề và 35,2 nghìn có chứng chỉ nghề dưới 3 tháng.  So với quý 3/2015, số người bị thất nghiệp có CMKT giảm 78 nghìn người. Trong đó, giảm ở năm nhóm: trình độ đại học trở lên (-70 nghìn người); sơ cấp nghề (-18,32 nghìn người); cao đẳng nghề (-9,03 nghìn người); trung cấp nghề (-8,08 nghìn người) và cao đẳng chuyên (-2.33 nghìn người). Ngược lại, số người có CMKT bị thất nghiệp tăng ở hai nhóm: chứng chỉ nghề dưới 3 tháng (26,23 nghìn người); trung cấp chuyên nghiệp (3,54 nghìn người).

Đồ thị 5: Số lượng người thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo trình độ CMKT, quý 3/2015 và quý 4/2015  (Đơn vị: nghìn người)

Đáng chú ý, trong số những người bị thất nghiệp, trong quý IV/2015, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,18%, giảm nhẹ so với quý III là 2,35%, song vẫn tăng so với cùng kỳ 2014 (2,05%)[3]. Nhóm có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp đứng ở vị trí cao nhất là 8,16%, tiếp theo là cao đẳng nghề 3,44%. Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm tuổi thanh niên là 7,21%, gấp 3,3 lần tỷ lệ chung. Đáng lưu ý, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên độ tuổi 20-24 có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức rất cao: cao đẳng chuyên nghiệp là 19,58% và đại học trở lên 20,79%[4]. Như vậy, có thể thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi thanh niên đang là một thực trạng đáng báo động, trong số người có chuyên môn kỹ thuật bị thất nghiệp, thì lao động trình độ đại học trở lên vẫn đứng đầu về số người thất nghiệp.

4. Nguyên nhân

Lợi thế lớn nhất của Việt Nam khi tham gia AC là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Trong đó, lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài. Tuy nhiên, xét về mặt bằng chung, chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập, có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trình độ cao:

- Đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn:

Tuy hiện nay lao động trình độ cao ở Việt Nam được cho là đã có một khoảng thời gian nhất định được học tập, tiếp cận chuyên môn, nhưng thực tế cho thấy số lao động sau khi tốt nghiệp ra trường, yếu tố lành nghề vẫn còn thấp, còn nhiều bất cập.

Trong vấn đề lựa chọn chương trình đào tạo, trong khi nền kinh tế đang khan hiếm lao động trình độ cao ở nhiều ngành nghề như vị trí tư vấn, thiết kế, quản trị nhân sự, lãnh đạo doanh nghiệp cấp cao, luật sư, khoa học môi trường, kỹ sư công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, kỹ sư điện, điện tử, cơ khí, logistics… thì thanh niên ra trường chủ yếu là cử nhân tài chính, ngân hàng, kế toán, luật, hành chính văn phòng…; và đang thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề để tăng năng suất và sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp thì hầu hết thanh niên tốt nghiệp lớp 12 chọn con đường học đại học.

Thêm vào đó, những nội dung, chương trình đào tạo tại các trường hiện nay chưa thực sự bám sát nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động. Đa phần vẫn đào tạo theo kiểu nặng về lý thuyết. Thực tế đào tạo chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề, lý thuyết chưa đi đôi với thực hành,…

Bên cạnh đó, bản thân người học cũng chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc học-hành, họ học theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” chú trọng điểm số mà chưa tính đến việc liệu sau này ra trường mình có khả năng làm được việc gì, năng lực đã đủ đáp ứng chưa, còn thiếu những kỹ năng gì,…

- Người lao động thiếu kỹ năng mềm:

Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc trang bị cho mình các kỹ năng mềm để sử dụng trong công việc và giao tiếp hàng ngày là một điều rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt là đối với những người có xu thế vươn ra thế giới. Đã có rất nhiều người trẻ phải chịu thất bại khi đi phỏng vấn xin việc mặc dù với một tấm bằng loại ưu, tự hào có trình độ chuyên môn cao. Đó là do trong hành trang khởi nghiệp của họ lại thiếu kỹ năng mềm. Đây là một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm và rất khó khăn để thành công.

Kỹ năng mềm (hay còn gọi là kỹ năng thực hành xã hội ) là thuật ngữ liên quan đến trí tuệ cảm xúc dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như là giao tiếp,lãnh đạo,làm việc theo nhóm,quản lí thời gian.....Theo một con số thống kê thì có tất cả 28 kỹ năng mềm khác nhau. Năm 2007 bộ Lao động Hoa Kỳ và nhóm Doanh nhân ưu tú Hoa Kỳ đã xác định được 7 kỹ năng mềm cần thiết cho một lao động của thế kỷ 21,đó là:

Kỹ năng thiết lập quan hệ xã hội

Kỹ năng giao tiếp

Kỹ năng giải quyết các vấn đề

Tư duy phản biện

Sự say mê công việc

Tính chuyên nghiệp

Kỹ năng thuyết phục

Khác với kỹ năng cứng là kỹ năng thường xuất hiện trong bản lý lịch - khả năng học vấn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn trong công việc. Kỹ năng mềm chủ yếu là những thuộc tính về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không thể sờ nắm nhưng lại quyết định bạn có thể trở thành người lãnh đạo, nhà thương thuyết hay nhà quản trị kinh doanh... Kỹ năng mềm là một xu thế đào tạo trong tương lai nhưng lại đang bị bỏ qua ở hiện tại.

Theo kết quả khảo sát sinh viên từ các nguồn thông tin của các trường Đại học Quốc Gia Tp HCM, Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp HCM và Đại học Nông Lâm Tp HCM, khảo sát của trung tâm dự báo nguồn nhân lực và thị trường lao động Tp HCM. Trong tổng số 25.000 sinh viên tham gia thì chỉ có 10% sinh viên cho rằng cần kỹ năng sống và 7% sinh viên cần kỹ năng thực hành để được tuyển dụng và làm việc hiệu quả. Còn lại phần lớn 54 % sinh viên cho rằng doanh nghiệp chỉ cần kỹ năng chuyên môn[5]. Điều đó cũng lí giải vì sao rất nhiều sinh viên có lực học giỏi lại không tìm được cơ hội việc làm, bởi xu thế tuyển dụng ngày nay, các doanh nghiệp ngoài yêu cầu bắt buộc là kỹ năng chuyên môn cũng còn đòi hỏi vị trí tuyển dụng phải có các kỹ năng đặc biệt trong các lĩnh vực như kinh doanh, quản trị....

- Hệ thống thông tin chưa tương thích

Hệ thống thông tin việc làm hiện nay chưa có sự tương thích giữa cung và cầu. hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Về phía người lao động khi đi tìm việc trong một thị trường rộng lớn sẽ gặp phải một khó khăn đó là tìm được đúng công việc phù hợp với mình. Họ đi tìm việc ở những khu vực không có việc làm phù hợp, khu vực đó hiện không tuyển dụng công việc của mình. Trong khi đó về phía người sử dụng lao động cũng chưa có nhiều kênh để có thể kết nối một cách hiệu quả với người lao động đang có nhu cầu tìm việc. Hiện nay tuy đã có một số kênh kết nối giữa người lao động và người sử dụng lao động như việc tổ chức các hội chợ việc làm cho thanh niên. Tuy nhiên, có số này là chưa nhiều và còn khá tập trung, chưa phân bố đều tại các tỉnh thành. Bên cạnh đó, các công ty tham gia tuyển dụng lại chưa thỏa mãn được nhu cầu tìm đúng việc của thanh niên khi đa phần các nhà tuyển dụng đến từ các công ty bán hàng theo kiểu mạng lưới đa cấp, hoặc yêu cầu tuyển nhiều nhân viên về mảng kinh doanh chứ chưa có nhiều công ty về mảng kỹ thuật hoặc yêu cầu trình độ chuyên môn cao tham gia tại các cuộc tuyển dụng việc làm này. Đây cũng được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng việc làm thì có mà tình trạng thất nghiệp vẫn xảy ra.

5. Nhóm giái pháp

Tình trạng thanh niên tốn nhiều công sức, tiền bạc, thời gian để kết thúc được chương trình đào tạo tại các trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thậm chí bậc học cao hơn, nhưng khi ra trường lại không thể tìm được việc làm hoặc có việc làm không phù hợp với khả năng, chuyên môn, hiện đang là vấn đề “nóng” của xã hội”. Nhu cầu giải quyết việc làm cho thanh niên là rất cần thiết và cấp bách.

Đã có nhiều cuộc hội thảo, các cuộc khảo sát được thực hiện nhằm đưa ra được những giải pháp tối ưu nhất để giải quyết vấn đề này. Hầu hết các giải pháp hiện nay được đưa ra là:

+ Đẩy mạnh các chính sách giáo dục – đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ, đẩy mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo.

+ Phát triển các trường dạy nghề để đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn cao, giúp họ nhận thức được tầm quan trọng của việc học hỏi, nâng cao trình độ, tay nghề.

+ Hỗ trợ học phí cho các học viên về các ngành nghề mà các DN Nhật Bản cần nhưng ít người được học như cơ khí.

+ Phát triển mạng lưới thông tin thị trường, giới thiệu các cơ sở tuyển dụng việc làm cho người Nhật như trang Vieclambank.com đến đông đảo người lao động, giúp họ dễ dàng tìm được việc thích hợp.

+ Xây dựng chế độ tiền lương, chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân viên một cách hợp lý. Cần có chế độ thưởng, phạt công khai, rõ ràng theo năng lực và thành tích cá nhân như các DN Nhật áp dụng cho nhân viên của mình sẽ tạo động lực cho nhân viên phát huy hết khả năng mà họ đang có.

+ Kết nối cung – cầu lao động trình độ cao và quản trị thị trường lao động. Hoàn thiện khung pháp lý và định hướng chiến lược cho thị trường lao động hoạt động; Xây dựng và phát triển hệ thống tư vấn, hướng nghiệp, dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động; Tăng cường vai trò phản biện của các hiệp hội trí thức; Tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty dịch vụ lao động, đặc biệt là kết nối cung-cầu lao động trình độ cao.

Để giải quyết tốt tình trạng nhóm lao động trình độ cao thất nghiệp không thể chỉ trông đợi ở một cơ quan, ban ngành nào mà phải có sự vào cuộc của tất cả cơ quan quản lý, chính quyền địa phương và chính bản thân người lao động. Việc đưa ra các dự báo nhu cầu nhân lực, phân luồng, đào tạo đảm bảo chất lượng, kết nối cung - cầu,… là việc của cơ quan hữu quan; bản thân người lao động - người học khi chọn ngành, nghề phải biết tính toán dựa trên năng lực sở trường cá nhân và nhu cầu nhân lực tại địa phương, ngành nghề mà mình muốn theo đuổi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Điện tử Công thương, Ký Tuyên bố thành lập Cộng đồng ASEAN, http://baocongthuong.com.vn/ky-tuyen-bo-thanh-lap-cong-dong-asean.html22/11/2015

2. Báo Doanh nghiệp Việt Nam, Thủ tướng khuyên doanh nghiệp, người dân trau dồi tiếng Anh để hội nhập, http://doanhnghiepvn.vn/thu-tuong-khuyen-doanh-nghiep-nguoi-dan-trau-doi-tieng-anh-de-hoi-nhap-d65509.html

3. Bộ Ngoại giao Việt Nam, Thông tin cơ bản về Cộng đồng ASEAN, http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/ca_tbd/nr040819160321/ns130808071827

4. Cộng đồng Kinh tế ASEAN, https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BB%93ng_Kinh_t%E1%BA%BF_ASEAN

5. Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, http://www.hvct.edu.vn/co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-lao-dong-viet-nam-khi-gia-nhap-cong-dong-kinh-te-asean.aspx?tabid=466&a=2050,

6. Đoàn Thanh niên, Thanh niên Thủ đô với cộng đồng ASEAN và TPP, http://doanthanhnien.vn/newsdetail/hoi_nhap_quoc_te/30178/news.htm

7. Total Business Support, Thực trạng việc làm cho người lao động hiện nay và giải pháp khắc phục, http://tbsvn.com.vn/bai-viet-chia-se/thuc-trang-viec-lam-cho-nguoi-lao-dong-hien-nay-va-giai-phap-khac-phuc/

8. Tổng cục Tống kê, https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217

9. VietSourcing, Thực trạng lao động Việt Nam hiện nay, http://www.vietsourcing.edu.vn/tin-bai/truyen-thong/tin-tong-hop/2013-thuc-trang-lao-dong-viet-nam-hien-nay.html

10. VOV Giao thông, Tự do di chuyển lao động trong ASEAN: Cơ hội và thách thức, http://vovgiaothong.vn/xa-hoi/tu-do-di-chuyen-lao-dong-trong-aseanco-hoi-va-thach-thuc/186660.

 


[1] Chất lượng lao động trình độ cao ở Việt Nam: những hạn chế cơ bản, 16/07/2015, http://ilssa.org.vn

[3] Tổng Cục Thống kê (2014, 2015), Số liệu thống kê và Số liệu Điều tra Lao động – Việc làm hằng quý.  

 

 

Các tham luận khác