CỘNG ĐỒNG ASEAN - TÁC ĐỘNG VỚI THANH NIÊN
Đoàn Thị Mai Liên
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Thế kỷ XXI đã đi qua gần hai thập niên. Chúng ta được chứng kiến sự đổi thay nhanh chóng của thế giới trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hóa, xã hội. Một trong những điểm nổi bật của bức tranh toàn cảnh thế giới thời kỳ này chính là những sự đan xen giữa hợp tác và đấu tranh, giữa hội nhập và giữ gìn bản sắc. Bên cạnh những khó khăn như các vấn đề an ninh phi truyền thống, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, hay các tranh chấp liên quan đến vấn đề biển Đông, khu vực Đông Nam Á nhìn chung phát triển năng động và tích cực. Điểm nhấn của khu vực đó chính là Cộng đồng ASEAN được chính thức đi vào thực tiễn từ cuối năm 2015. Cộng đồng Kinh tế ASEAN tác động trực tiếp đến các quốc gia, đến công dân ASEAN - và đặc biệt là đối tượng thanh niên - chủ nhân tương lai của “công dân khu vực”.
1. Khái quát về cộng đồng ASEAN
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu hiện nay trong dòng chảy của toàn cầu hóa. Liên minh châu Âu EU đã trở thành hình mẫu lý tưởng cho mô hình liên kết khu vực - “khu vực hóa”. Và các quốc gia Đông Nam Á với lịch sử phát triển nhiều nét tương đồng, trong không gian văn hóa đa dạng cũng đã đang hướng đến một mô hình hợp tác toàn diện - Cộng đồng ASEAN. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực được chính thức khởi động từ đầu 1993. Tuy nhiên, ban đầu, các quốc gia thành viên còn tồn tại những bất đồng tương đối khó hòa giải. Do đó, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 ở Bali tháng 11/2003 đã được các lãnh đạo thành viên tổ chức nhằm giải quyết vấn đề này. Ở đó, các nhà lãnh đạo khu vực đã tập trung thảo luận về những vấn đề thuộc mối quan ngại chung của tất cả các nước thành viên, kể cả những phát triển chính trị và kinh tế, đặc biệt là tình hình mới nhất ở bán đảo Triều Tiên, những nguy cơ mới về chủ nghĩa khủng bố và vấn đề Irắc, vấn đề Trung Đông... Những cuộc thảo luận đã dẫn tới một nhận thức chung rằng Đông Nam Á “đang phải đối mặt với những thách thức do sự thay đổi cơ bản trên sân khấu chính trị toàn cầu”[1]. Để ứng phó với những thay đổi đó cũng như những thách thức hiện nay và trong tương lai, các nhà lãnh đạo ASEAN đã “nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sự gắn kết ở mức độ cao hơn bằng những nỗ lực để hoàn thành được những mục tiêu của Tầm nhìn ASEAN 2020”[2]. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thoả thuận thành lập Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột: Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Cộng đồng Văn hóa - xã hội ASEAN (ASSC) vào năm 2020. Ba cộng đồng này tạo thành 3 trụ cột, trên đó Cộng đồng ASEAN được xây dựng, duy trì và phát triển. ASC, AEC và ASSC sẽ gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Ttrong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN, các nhà lãnh đạo đã nêu rõ mục đích, bản chất và các biện pháp cơ bản để xây dựng AC và các trụ cột. Mục đích của việc xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN là đưa hợp tác chính trị và an ninh của ASEAN lên một bình diện cao hơn và đảm bảo rằng các thành viên ASEAN được sống trong hoà bình với nhau và với thế giới trong một môi trường chính nghĩa, dân chủ và hài hoà.
Trong đó, để triển khai các trụ cột trên, trụ cột kinh tế được chú trọng và coi là hạt nhân mang tính quyết định. Các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhau tìm ra các giải pháp nhằm tạo điều kiện để các nền kinh tế trong khu vực phát triển đồng đểu. Bên cạnh đó, thiết lập AEC trong bối cảnh có sự chênh lệch về trình độ phát triển và chủ nghĩa dân tộc về kinh tế vẫn tiếp tục là nhân tố chi phối quá trình hoạch định chính sách hội nhập khu vực của nhiều nước thành viên, nên việc hiện thực hoá AEC với tốc độ nhanh là không thể. Do vậy, phương pháp ASEAN tiếp cận tiệm tiến được các nước coi trọng. Đối với Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN (ASCC), mục tiêu của là xây dựng ASEAN thành "Cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau" như đã được đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020. Thông qua ASCC, ASEAN hy vọng đẩy nhanh sự hợp tác của khu vực về các vấn đề xã hội và nâng cao đời sống của cư dân nông thôn, thúc đẩy sự tham gia tích cực của tất cả các tầng lớp xã hội, bao gồm phụ nữ, thanh niên và các nhóm cộng đồng. Ngoài ra, ASCC còn được hy vọng sẽ góp phần tăng cường khả năng hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới mức tăng trưởng dân số, phát triển giáo dục, giải quyết tình trạng thất nghiệp, ngăn ngừa các loại dịch bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDs và SARS, tình trạng suy thoái môi trường và ô nhiễm xuyên biên giới... Để xây dựng AC, các nhà lãnh đạo cấp cao đã quyết định xây dựng Kế hoạch hành động vì Cộng đồng an ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng văn hoá - xã hội ASEAN. Các kế hoạch trên được giao cho Indonesia, Singapore và Philippines soạn thảo và đã được thông qua Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 10 tổ chức ở Viên Chăn năm 2004.
Như vậy, sau 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức lớn trên thế giới. Trên nền tảng đó, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác và tăng cường liên kết nhằm hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững mạnh dựa trên ba trụ cột là Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội vào năm 2015. Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của cả các đối tác bên ngoài. Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo ra sự hấp dẫn với đầu tư-kinh doanh từ bên ngoài. Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN với mục tiêu tổng quát là phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ.
Nhìn chung, có thể thấy rằng, khu vực ASEN đang trong quá trình hội nhập tích cực, và là một tổ chức liên chính phủ có nhiều tiềm năng. Mặc dù hiện nay, còn nhiều khó khăn, nhưng mức độ liên kết của các thành viên đã gắn bó và sâu sắc hơn. Cần nhận thức rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Cộng đồng ASEAN không phải là một. Cộng đồng ASEAN có mức độ liên kết cao hơn và thể hiện tính khu vực nhiều hơn chủ quyền của quốc gia, trong khi đó Hiệp hội ASEAN lại chỉ là sự liên kết giữa các nhà nước, như một tổ chức liên chính phủ. Về nền tảng pháp lý giữa ASEAN và AC cũng có sự khác biệt. Trong khi cơ sở pháp lý của ASEAN là Tuyên bố Băng Cốc 1967, thì cơ sở pháp lý của AC là Hiến chương ASEAN. Hai điểm khác biệt này sẽ làm cho ASEAN trở thành "một tổ chức liên chính phủ vững mạnh hơn" so với nó hiện nay. Cộng đồng ASEAN theo đó không phải là "một tổ chức siêu quốc gia" như EU mà AC là một cộng đồng mở.
Trong ba trụ cột, trụ cột thứ ba, Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN-ASCC, được xem như chân kiềng quan trọng, gắn kết và bổ trợ cho 2 trụ cột ban đầu, tập trung nhiều hơn vào khía cạnh hợp tác nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nêu những mục tiêu chính của Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN gồm:
- Thực hiện mục tiêu nêu trong Tầm nhìn 2020 về xây dựng một cộng động các xã hội đùm bọc lẫn nhau;
- Hợp tác trong lĩnh vực phát triển xã hội nhằm nâng cao đời sống của các nhóm người có hoàn cảnh bất lợi, người dân ở nông thôn; khuyến khích sự tham gia tích cực của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là phụ nữ, thanh niên và các cộng đồng địa phương;
- Đảm bảo để những người lao động trong khu vực được chuẩn bị sẵn sàng và được hưởng lợi từ tiến trình liên kết kinh tế khu vực, thông qua việc đầu tư thêm nguồn lực cho giáo dục tiểu học và cao đẳng, đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, tạo công ăn việc làm và được đảm bảo về mặt xã hội;
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực y tế, bao gồm cả việc phòng, chống các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS và SARS và ủng hộ các nỗ lực khu vực để người dân có thể tiếp cận nhiều hơn đối với các loại thuốc thông thường;
- Bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy giao lưu giữa các học giả, văn nghệ sĩ, những người làm trong ngành truyền thông để bảo tồn và nâng cao giá trị của các di sản văn hoá đa dạng, đồng thời xây dựng bản sắc khu vực, nhận thức của người dân về ASEAN;
- Tăng cường hợp tác để giải quyết những vấn đề liên quan tới tăng trưởng dân số, thất nghiệp, môi trường xuống cấp và ô nhiễm xuyên biên giới, quản lý thiên tai.
2. Tác động của Cộng đồng ASEAN với thanh niên
Từ 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức được thành lập. Một trong những thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN đáng chú ý, tác động trực tiếp tới người dân - nhất là lao động trẻ, có trình độ là 8 nhóm lĩnh vực nghề nghiệp hiện nay được tự do dịch chuyển giữa các quốc gia là: bác sỹ, nha sỹ, hộ lý, kỹ sư, kiến trúc sư, kiểm toán viên, giám sát viên và nhân viên du lịch. Nó đem lại cả thời cơ và thách thức cho tầng lớp trí thức, thanh niên Việt Nam.
Trong khuôn khổ bài viết, chúng ta chỉ đi sâu vào tác động của Cộng đồng ASEAN với vấn đề việc làm của thanh niên hiện nay. Đây là vấn đề chủ yếu, và tương đối rõ ràng. Với vai trò là thành viên của Cộng đồng ASEAN, chúng ta cần phải tận dụng được tối đa những thuận lợi mà Cộng đồng đem lại, cũng như hạn chế những thách thức đặt ra. Tuy nhiên, giới trẻ các nước tương đối hào hứng và tỏ ra quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, vì nó gắn liền với lợi ích và tương lai của họ. Các bạn trẻ Thái Lan, Lào, Campuchia đang làm việc tại nước ta tỏ ra rất hào hứng về sự kiện đặc biệt này. Các quan điểm hầu hết cho rằng đây cơ hội làm việc rộng mở hơn đối với họ, không bị bó hẹp tìm việc làm trong nước của mình mà có thể tự do tìm kiếm và làm việc tại các nước thành viên. Lao động từ các nước thành viên ASEAN sang làm việc ở Việt Nam sẽ đơn giản hơn trước đây và ngược lại. Có ý kiến cho rằng: “Cộng đồng ASEAN được hình thành, người lao động trình độ cao sẽ tự do đi lại, tìm việc trong các nước ASEAN. Đối với mình, đang học tập và làm việc ở nước ngoài, thủ tục làm việc sẽ nhanh gọn, thuận tiện hơn”. Bạn trẻ Việt Nam chia sẻ: “Vì em đang học tại Việt Nam. Các nước ASEAN sẽ công nhận bằng của em. Có nghĩ là em có thể làm việc ở Việt Nam hay làm việc ở nước thành viên của ASEAN. Em có thể làm được ở tất cả các nước thành viên ASEAN”.
Những suy nghĩ tích cực trên của các bạn trẻ khiến chúng ta có thể hình dung và hi vọng một bức tranh tươi sáng cho tương lai của Cộng đồng ASEAN. Nó trước hết đem lại những cơ hội việc làm mới cho thanh niên, là điều mà phù hợp với quy luật của toàn cầu hóa. Sự năng động, sáng tạo của giới trẻ sẽ được phát huy và khơi nguồn một cách tối đa. Thay vì trước đây, thị trường xuất khẩu lao động, việc làm đến các nước khó khăn và còn ranh giới quốc gia, thì hiện nay, đường biên giới quốc gia đã không còn mang ý nghĩa lớn, mà tất cả đều hướng đến một cộng đồng chung. Việc tự do di chuyển lao động có thể coi là một trong những tác động tích cực “nhãn tiền” mà chúng ta có thể ghi nhận. Dòng lao động trẻ dồi dào của Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng, cũng như từ các nước ASEAN khác đến Việt Nam sẽ thiết lập một thị trường lao động rộng mở, năng động. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, đây là một cộng đồng mở nên khi lao động, việc làm tăng cũng sẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ trong nội khối mà còn là các quốc gia khác vào ASEAN.
Cộng đồng được hình thành đã thúc đẩy sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động chất lượng cao, có tay nghề… Do đó, những ngành nghề mà thanh niên Việt Nam đang có ưu thế hơn so với các nước trong khu vực như Công nghệ thông tin (IT), xây dựng - kỹ thuật… sẽ có cơ hội khẳng định mình. Với sự không phân biệt đối xử, các ngành nghề đều được tự do và tạo điều kiện phát triển. Cộng đồng Kinh tế ASEAN bao gồm 10 quốc gia với dân số hơn 620 triệu người, trong đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là Indonesia (40%), Philippines (16%) và Việt Nam (15%). Lực lượng lao động này khi được “giải phóng”, được tự do di chuyển trong thị trường chung sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Trước mắt, trong năm 2015 có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó có nhân lực được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.
Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay, lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50% chủ sử dụng lao động trong khối ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng)...
Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài. Theo dự báo, trong 10 năm sau khi Cộng đồng đi vào thực tiễn, nguồn lao của Việt Nam sẽ tăng 28%.
Theo đánh giá, trong 8 ngành nghề thì chúng ta có lợi thế chủ yếu về ngành công nghệ thông tin, dệt may… Trong khi đó, các ngành như bác sĩ thì chúng ta chưa thể đủ sức cạnh tranh với khu vực. Các chuyên gia nhận định thời gian ban đầu, chúng ta chỉ dịch chuyển được 1% nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành nói trên. Thậm chí, thời gian đầu hội nhập, chúng ta còn phải chấp nhận với thực tế là bị đẩy lùi về trình độ phát triển so với các nước khác khi họ có lợi thế nhiều hơn. Tuy nhiên với dân số 90 triệu dân trên tổng số 620 triệu dân của ASEAN, chúng ta hi vọng sẽ giành được những thắng lợi nhất định trong quá trình hội nhập qua đóng góp của lực lượng lao động dồi dào.
Ngược laị, cũng có nhiều thách thức mà chúng ta đang đối mặt. Do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Nguồn lao động Việt Nam theo đánh giá của ILO là nguồn lao động giá rẻ, với những thất thế về kỹ năng và về ngoại ngữ.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm...). Do vậy, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. So với khu vực, Việt Nam vẫn đang xếp ngưỡng thấp trong bảng xếp hạng về năng suất lao động và chỉ số sáng tạo cũng như chất lượng nguồn nhân lực (27,2/100 điểm). Khoảng cách thu nhập bình quân đầu người so với ASEAN ngày càng tăng (1.908USD/người so với mức trung bình 3.837USD/người của ASEAN). Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng hấp thu và tận dụng các cơ hội do liên kết kinh tế khu vực mang lại, ảnh hưởng tới sự đóng góp của Việt Nam trong các hoạt động của ASEAN, nhất là trong việc đề xuất các sáng kiến, định hướng chiến lược lớn cho hợp tác ASEAN và khu vực. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nền kinh tế được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…
Trong đó, theo như các chuyên gia, thanh niên, lao động Việt Nam hiện nay so với khu vực còn thiếu không chỉ về ngoại ngữ, mà còn là các kỹ năng như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp và công nghệ thông tin. Thậm chí, thực trạng ý thức lao động, kỷ luật yếu kém cũng là một trong những nhức nhối của lao động Việt Nam hiện nay. Đây là một trong những khó khăn mà thanh niên Việt Nam cần phải khắc phục. Đây là một trong những sản phẩm của nền giáo dục Việt Nam cũng như nhiều vấn đề khác. Do đó, đây cũng là một trong những cơ hội để xã hội Việt Nam có tầm nhìn xa và rõ ràng, thực tế hơn trong giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.
Để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt Nam nói chung và xây dựng thanh niên Việt Nam năng động, phát triển nói riêng, từ khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015, cần phải hướng vào một số giải pháp lớn như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của tầng lớp thanh niên về vai trò, vị trí của Cộng đồng ASEAN, những thời cơ và thách thức với Việt Nam. Từ việc nhận thức rõ ràng sẽ đi đến hành động cụ thể. Thanh niên phải tự ý thức được những điểm mạnh và điểm yếu hiện nay để hoàn thiện, để đủ năng lực hội nhập khu vực. Hiện nay, hầu hết các bạn trẻ đều đã nhận thức đúng đắn và tỏ ra rất hứng khởi với sự hội nhập trên. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng những thách thức chúng ta cần đối mặt, không đơn giản và dễ đem lại hiệu quả ngay trong thời gian đầu. Cần phải có tâm lý sẵn sàng và sự chuẩn bị chu đáo, nhưng không chủ quan và quá kỳ vọng hoàn toàn vào những hiệu quả mà Cộng đồng đem lại. Sự chủ động và tích cực, sẵn sàng là yếu tố quan trọng và mang tính quyết định với toàn bộ tiến trình này.
Thứ hai, đổi mới toàn diện và sâu sắc giáo dục, sao cho giáo dục phải gắn liền với nhu cầu, đầu ra cần đáp ứng được những gì xã hội cần. Tránh tình trạng như hiện nay là có hàng nghìn sinh viên ra trường thất nghiệp, trong đó chú trọng vấn đề dạy nghề. Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề; chính sách đối với người đứng đầu cơ sở dạy nghề, người lao động qua đào tạo nghề; chính sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành và đánh giá năng lực người học, hướng tới doanh nghiệp phải là một trong những chủ thể đào tạo nghề. Đổi mới chính sách tài chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho phát triển dạy nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa dạy nghề với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng ngành, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thành các đơn vị quan hệ trường - ngành trong các cơ sở dạy nghề. Doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo nghề như xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh mục nghề, xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học nghề… Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các cơ sở dạy nghề về nhu cầu việc làm và các chế độ cho người lao động; phản hồi cho cơ sở dạy nghề về trình độ của người lao động. Các cơ sở dạy nghề tổ chức theo dõi, thu thập thông tin về học sinh học nghề sau khi tốt nghiệp; có trách nhiệm tiếp nhận các thông tin từ phía doanh nghiệp và thay đổi để thích ứng với nhu cầu của doanh nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với những nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới. Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA cho dạy nghề. Hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia vào các hoạt động của khu vực và thế giới để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới...
Thứ ba, cần có sự hợp tác, giao lưu, học hỏi với giữa các thanh niên khu vực cũng như thanh niên trên thế giới nhằm tiếp thu những điểm mạnh, thành công và hạn chế những mặt yếu kém.
Thứ tư, nâng cao chất lượng dạy nghề, tiếp cận các chuẩn khu vực và thế giới. Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận trình độ tiên tiến của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, nhất là năng lực chuyên môn, sư phạm và ngoại ngữ theo chuẩn quốc tế;
- Tăng cường đào tạo tiếng Anh trong các cơ sở dạy nghề bảo đảm cho người học nghề có khả năng giao tiếp trong quá trình làm việc; sinh viên tốt nghiệp chương trình chất lượng cao có khả năng làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN và thế giới; xây dựng các chương trình đào tạo tiếng Anh chuyên ngành và một số ngoại ngữ của các dân tộc khác trong khu vực ASEAN; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động đào tạo nghề;
- Tăng cường kiểm định chất lượng dạy nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế, khuyến khích các cơ sở dạy nghề thực hiện kiểm định trường và chương trình bởi tổ chức kiểm định quốc tế có uy tín;
- Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện đào tạo các lĩnh vực trong 8 lĩnh vực nghề nghiệp đã được ASEAN thỏa thuận công nhận (Nha khoa, Điều dưỡng, Kỹ thuật, Xây dựng, Kế toán và Du lịch);
- Triển khai và ký kết các chương trình hợp tác với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại Việt Nam trong việc hỗ trợ các cơ sở dạy nghề và học sinh, sinh viên nâng cao kỹ năng nghề nghiệp; tổ chức các hội nghị tham vấn với doanh nghiệp FDI về nhu cầu sử dụng lao động có kỹ năng nghề cao;
- Lựa chọn một số nghề và một số đối tác để đàm phán, triển khai các hoạt động đánh giá và công nhận chứng chỉ kỹ năng nghề (trước mắt thực hiện trong lĩnh vực Du lịch, sau đó tiếp đến các nghề Công nghệ ô tô, Hàn, Công nghệ thông tin, Xây dựng.v.v...)
*
* * *
Như vậy, có thể thấy Cộng đồng ASEAN vừa là cơ hội, vừa là thách thức với tất cả các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, đặc biệt là thanh niên - chủ nhân tương lai của thế giới. Với vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực lao động cho sự phát triển kinh tế đất nước. Với sự quan tâm đặc biệt của toàn đất nước, ở mọi ngành nghề, với những giải pháp nêu trên, thanh niên Việt Nam trong thời gian chắc chắn sẽ nắm bắt được cơ hội, vượt qua thách thức, hội nhập tốt vào Cộng đồng ASEAN, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước có thế mạnh về nhân lực trong khu vực ASEAN./.
[1]2 Trích: “Press Statement by the Chairman of the 9 th ASEAN Summit and the 7 th three ASEAN+3 Summit. Bali, Indonesia, 7 October, 2003. Tài liệu khai thác qua mục ASEAN+3 trên Website: http://www.asean.sec.org)
[2]2 Trích: “Press Statement by the Chairman of the 9 th ASEAN Summit and the 7 th three ASEAN+3 Summit. Bali, Indonesia, 7 October, 2003. Tài liệu khai thác qua mục ASEAN+3 trên Website: http://www.asean.sec.org)