Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
  • Vass - Hướng đến 60 năm

Quá trình hình thành và phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và phát triển (1986-2013)

10/11/2013

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội của sự nghiệp Đổi mới đất nước đã mở ra cho nước ta bước phát triển mới. Các ngành KHXH &NV nước ta, dưới sự chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng và Chính phủ đã hướng mạnh việc nghiên cứu phục vụ thực tiễn, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, góp phần đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, vì vậy đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ. Điều này đã được Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị trong sự nghiệp đổi mới khẳng định: “Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, hoạt động khoa học cà công nghệ (trong đó có khoa học xã hội) tiếp tục phát triển, gắn bó hơn với sản xuất, kinh doanh và đời sống, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…

Trong điều kiện làm việc và sinh hoạt hết sức khó khăn, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tiếp thu được nhiều thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, góp phần tích cực vào việc soạn thảo Cương lĩnh của Đảng, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược khoa học và công nghệ của nước ta, tham gia đẩy mạnh điều tra cơ bản, xây dựng các chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, khai thác, phát huy giá trị nhân văn của dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao trí tuệ và năng lực sáng tạo của cán bộ và nhân dân…”.  Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra “khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới”. Riêng về khoa học xã hội, Nghị quyết nêu rõ, “Khoa học xã hội chưa nghiên cứu sâu sắc và lý giải một cách thuyết phục, có căn cứ khoa học nhiều vấn đề cơ bản của thời đại, về CNXH, chủ nghĩa tư bản, về thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của nước ta, chưa cung cấp đầy đủ luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục thế giới quan và phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng nhân sinh quan và đạo đức cách mạng”.

              Sau khi chỉ ra những nguyên nhân của các yếu kém đó, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị cũng đề ra những nhiệm vụ cho khoa học xã hội: “Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận để hoàn thiện và triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, tập trung nghiên cứu những vấn đề về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, về CNXH, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu hướng cơ bản của thời đại. Nghiên cứu những vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính, ngân hàng tiền tệ, chống lạm phát, quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, vấn đề sở hữu, vai trò Nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi lên CNXH, nghiên cứu con đường, hình thức, bước đi của quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nghiên cứu các vấn đề cơ cấu xã hội và chính sách xã hội, các vấn đề lịch sử, văn hóa, đạo đức, ngôn ngữ, dân tộc, tôn giáo, các vấn đề dân cư, lao động, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, xây dựng con người mới. Nghiên cứu các vấn đề đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề Nhà nước, pháp luật và dân chủ XHCN, các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới”.

              Nghị quyết cũng chỉ ra: “để khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội cần phải phát triển nhanh các ngành triết học, kinh tế học, xã hội học, luật học, khoa học chính trị và khoa học quản lý, đặc biệt khoa học quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước”. Mở rộng điều tra cơ bản một cách có hệ thống về điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái, đồng thời thường xuyên bám sát và tổng kết thực tiễn để kịp thời phát hiện những vấn đề kinh tế  - xã hội cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước”. “Khoa học xã hội có nhiệm vụ nghiên cứu tạo ra cơ sở lý luận cho các hoạt động trên mặt trận tư tưởng, nhằm tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những quan điểm sai lầm, đấu tranh chống những tư tưởng và luận điệu thù địch”(1).

                             Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Ủy ban KHXH Việt Nam (từ năm 1993 là Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia) đã có một bước chuyển quan trọng, đánh dấu việc đổi mới tư duy, khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội do Đại hội VI đề ra, thể hiện trên các mặt hoạt động sau đây:

              A/ Về hoạt động khoa học, là thời kỳ đã chuyển mạnh việc tổ chức nghiên cứu khoa học nhằm mục tiêu cơ bản phục vụ yêu cầu thực tiễn đổi mới đất nước.

              Lần đầu tiên sau Đại hội VI, Nhà nước hình thành hệ thống các chương trình đề tài cấp Nhà nước về khoa học xã hội bắt đầu từ kế hoạch 5 năm 1991-1995. Và từ đó đến nay, trong 3 kỳ kế hoạch 5 năm 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005, mỗi kỳ kế hoạch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được Nhà nước giao chủ trì 3 chương trình.

              Giai đoạn 1991-1995, 3/10 chương trình cấp Nhà nước về khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

              - Chương trình KX.01 “Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta”, gồm 15 đề tài.

              - Chương trình KX.04 “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách xã hội và quản lý việc thực hiện chính sách xã hội”, gồm 17 đề tài.

              - Chương trình KX.06 “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”, gồm 17 đề tài.

              Giai đoạn 1996-2000, 3/7 chương trình cấp Nhà nước về khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

- Chương trình KHXH.01 “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, gồm 10 đề tài.

- Chương trình KHXH.02 “Phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm CNH, HĐH đất nước”, gồm 7 đề tài.

- Chương trình KHXH.06 “Những vấn đề về chủ nghĩa tư bản hiện đại”, gồm 9 đề tài.

Giai đoạn 2001-2005, 3/8 chương trình cấp Nhà nước về khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

              - Chương trình KH.02 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN - con đường và bước đi”, gồm 10 đề tài.

              - Chương trình KX.04 “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, gồm 9 đề tài.

              - Chương trình KH.05 “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, gồm 12 đề tài.

              Tổng số đề tài của 9 chương trình của 3 kỳ kế hoạch là 106 đề tài, trong đó Viện Hàn lâm trực tiếp thực hiện là 48 đề tài. Ngoài ra Viện Hàn lâm còn thực hiện 21 đề tài thuộc các chương trình KHXH cấp Nhà nước khác. Đồng thời, mỗi kỳ kế hoạch, Viện Hàn lâm còn thực hiện từ 3 đến 5 đề tài độc lập cấp Nhà nước.

              Bên cạnh các chương trình đề tài cấp Nhà nước, Đảng và Thủ tướng Chính phủ còn trực tiếp giao Viện Hàn lâm mỗi kỳ kế hoạch thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng điểm phục vụ trực tiếp cho những nhiệm vụ trong nước và quốc tế được nêu trong các Nghị quyết của Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương các khóa. Chẳng hạn, thời kỳ 1991-1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười giao Viện Hàn lâm nghiên cứu, giải đáp các vấn đề: về nguyên nhân và bài học rút ra từ sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đặt điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại; chủ nghĩa xã hội dân chủ; những biến đổi trong quan hệ quốc tế và dự báo xu hướng phát triển của thế giới và khu vực trong những thập kỷ tới; tính chất, đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta và làm thế nào để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đó; Những tiêu chuẩn chủ yếu kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và những biện pháp lớn để hoàn thành chặng đường này; Nghiên cứu về lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta. Thời kỳ 1995-1997, Thủ tướng chính phủ giao Viện Hàn lâm nghiên cứu về các giải pháp quản lý sử dụng quỹ đất 5% theo Luật Đất đai và việc huy động các nguồn lực trong dân để xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hộ ở nông thôn; nghiên cứu khủng hoảng tài chính tiền tệ các nước Châu Á và tác động của chúng đối với Việt Nam; nghiên cứu luận cứ khoa học cho các giải pháp phòng, chống các tệ nạn xã hội ở nước ta,v.v…

              Từ quý 2 năm 1999, thực hiện Chỉ thị của thủ tướng Chính phủ, với sự tài trợ của UNDP, Viện Hàn lâm phối hợp với một số Bộ, ngành triển khai xây dựng Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2001 (Báo cáo này được nhận giải thưởng của UNDP).

              Các nhiệm vụ nêu trên vừa thể hiện sự tín nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với Viện Hàn lâm, sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm, đồng thời mở ra những cơ hội cho Viện Hàn lâm có điều kiện tham gia trực tiếp nghiên cứu, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.

              Bên cạnh các nhiệm vụ được cấp trên giao, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn còn chủ động xây dựng các chương trình nghiên cứu của mình (thường gọi là Chương trình cấp Viện Hàn lâm). Giai đoạn 1986-1990 Viện Hàn lâm xây dựng 5 chương trình nghiên cứu trọng điểm gồm 41 đề tài(2). Đây là bước chuyển có tính chất đột phá trong tổ chức nghiên cứu khoa học kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.

              Để góp phần chuẩn bị cho các Văn kiện Đại hội VII, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, các chương trình cấp Nhà nước do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, cùng với đội ngũ cán bộ cốt cán của Viện Hàn lâm đã tích cực tham gia, chủ động xây dựng nhiều kiến nghị. Có thể nêu lên một số kiến nghị tiêu biểu như kiến nghị về chính sách kinh tế của Việt Nam sau khi Mỹ bỏ cấm vận,  góp ý kiến hoàn chỉnh Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hoàn chỉnh Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) về một số vấn đề công tác tư tưởng - lý luận trong tình hình hiện nay, kiến nghị hoàn chỉnh Dự thảo Luật Dân sự, Đề án cải cách hành chính quốc gia, Đề án năm quốc tế về gia đình… Để góp phần chuẩn bị cho các văn kiện của Đại hội VIII, Viện Hàn lâm đã chủ động xây dựng 8 kiến nghị gửi lên Ban Bí thư và trực tiếp báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư, Tiểu ban chuẩn bị Văn kiện Đại hội một số chuyên đề về chủ doanh nghiệp tư nhân; sự phân tầng xã hội; kinh tế tư bản nhà nước trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta; bối cảnh quốc tế và đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam; vấn đề phát triển xã hội,v.v… Một số báo cáo chuyên đề, kiến nghị của Viện Hàn lâm được đánh giá tốt và sử dụng vào việc chuẩn bị các văn kiện của Đại hội VIII của Đảng.

              Từ năm 1996, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã chủ động xây dựng và thực hiện 6 chương trình nghiên cứu cấp Viện Hàn lâm sau đây:

              - Triết lý về sự phát triển của Việt Nam, gồm 6 đề tài.

              - Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2010, gồm 6 đề tài.

              - Một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn hóa cơ bản ở Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình CNH, HĐH, gồm 5 đề tài.

              - Những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH, gồm 6 đề tài.

              - Bối cảnh quốc tế và sự điều chỉnh chính sách kinh tế của các nước lớn, gồm 6 đề tài.

              - Những vấn đề cấp bách về dân tộc - tôn giáo trong những năm đầu thế kỷ XXI, gồm 3 đề tài.

              Các chương trình cấp Viện Hàn lâm trên đây đã cung cấp những cơ sở khoa học góp phần vào hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần giải quyết một số vấn đề cấp bách của đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước.

              Tiếp theo, Viện Hàn lâm đang xây dựng 3 chương trình cấp Viện Hàn lâm mới: “Những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc và tôn giáo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình CNH, HĐH”, trong đó có nghiên cứu lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ; chương trình “Những đặc điểm mới của bối cảnh quốc tế, khu vực và đối sách của Việt Nam” và chương trình “Những cơ sở xã hội nhân văn của quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường trong quá trình công nghiệp hóa: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

              Trong các kế hoạch 5 năm từ 1991 đến 2005, Viện Hàn lâm đã chủ động đề xuất với sự giúp đỡ, hợp tác của một số bộ, ngành, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, triển khai trên diện rộng nhiều dự án điều tra cơ bản (ĐTCB) về kinh tế, văn hóa, xã hội trên các địa bàn trọng điểm của đất nước. Giai đoạn 1991-1995 xây dựng và triển khai 8 dự án ĐTCB kinh tế - xã hội vùng lòng hồ sông Đà, 11 tỉnh miền núi phía Bắc, nông dân vùng đồng bằng sông Hồng, 4 quận nội thành Hà Nội, đồng bằng sông Cửu Long, điều tra cơ bản về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, tình hình tôn giáo, văn hóa dân gian các dân tộc. Giai đoạn 1996-2000 đã triển khai thực hiện 23 dự án, ĐTCB, trong đó riêng năm 1999-2000 thực hiện 20 dự án, trong các lĩnh vực KHXH&NV. Từ 2001 đến 2005, Viện Hàn lâm chủ trì thực hiện 16 dự án, trong đó có nhiều dự án lớn, có tính chất liên ngành(3).

              Đáng chú ý là năm 2000, Viện Hàn lâm đã chủ động xây dựng và trình Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Đề án “Những nhiệm vụ nghiên cứu của KHXH&NV nước ta 10 năm đầu thế kỷ XXI”. Ngoài các chương trình cấp Nhà nước về Khoa học xã hội của 2 kỳ kế hoạch 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010 được nêu trong bản Đề án, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Viện Hàn lâm đề xuất một hệ thống công trình trọng điểm có tính chất quốc gia mà việc thực hiện phải huy động lực lượng, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dậy KHXH&NV trong cả nước. Đó là những công trình: Lịch sử Việt Nam (Thông sử), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Lịch sử văn học Việt Nam, từ điển tiếng Việt (cỡ lớn), Những vấn đề cơ bản về dân tộc ở Việt Nam, Những vấn đề cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam, Địa chí các tỉnh thành phố trong cả nước, Khai thác di sản Hán Nôm, Kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Một số công trình nêu trên, như bộ Lịch sử văn học Việt Nam gồm 10 tập chia thành 16 quyển đang được thực hiện trong khuôn khổ đề tài độc lập cấp Nhà nước giai đoạn 2002-2005.

              Kỷ niệm nửa thế kỷ xây dựng và phát triển từ Ban Nghiên cứu Lịch sử - Văn học - Địa lý đến Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, đồng thời để đánh giá những thành tựu đạt được qua 50 năm trưởng thành, ngày 26/12/2003, tại Hội trường Ba Đình, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đã long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1953-2003)”.

              Về những thành tựu của Trung tâm, trong diễn văn đọc tại buổi lễ, GS.TS. Đỗ Hoài Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Giám đốc Trung tâm nhấn mạnh những đánh giá của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về những đóng góp của các thế hệ cán bộ Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia: “Trung tâm đã cố gắng từng bước khắc phục sự chậm trễ, đưa khoa học xã hội và nhân văn dần bắt kịp những vấn đề của thời đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới(4); “Nhiều sản phẩm khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng ra đời, đặc biệt phải kể đến sự đóng góp của Trung tâm trong việc góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta(5); “Nhiều kết luận của khoa học xã hội và nhân văn đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các Nghị quyết, hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc Đổi mới(6).

              Phát huy những thành tựu đã đạt được, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia xác định nhiệm vụ trong những năm tiếp theo là:

              - Tổ chức nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách của khoa học xã hội Việt Nam, khu vực và quốc tế; tổng kết thực tiễn, góp phần từng bước phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; giải đáp những vấn đề khoa học xã hội của cả nước và từng vùng phục vụ cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, văn hóa, môi trường và con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển trong quá trình tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

              - Đẩy mạnh việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa, tinh thần các của tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

              - Tổ chức điều tra cơ bản về kinh tế - văn hóa - xã hội trên những địa bàn trọng điểm của đất nước; tiến hành phân tích và dự bảo về kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

              - Đẩy mạnh việc kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội. Thực hiện đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ về khoa học xã hội tại Trung tâm ; Tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của cả nước, ngành, vùng, địa phương và doanh nghiệp.

Trong khoảng thời gian 2 năm 2004 và 2005, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đẩy mạnh tiến độ thực hiện các chương trình cấp Nhà nước gồm:

- Chương trình KX.02: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Con đường và bước đi, gồm 10 đề tài.

- Chương trình KX.04: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, gồm 9 đề tài.

- Chương trình KX.05: Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gồm 12 đề tài.

Viện Hàn lâm cũng tiếp tục triển khai thực hiện và nghiệm thu nhiều đề tài độc lập, nhiệm vụ cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Cơ sở. Trong đó có một số nhiệm vụ được Chính phủ giao như:

- Xây dựng Quy chế dân chủ nhằm phát huy tự do sáng tạo để khai thác mọi tiềm năng trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận; đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ (Sau đó, Viện Hàn lâm và một số cơ quan phối hợp đề nghị gọi tắt là: Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận).

- Xây dựng Đề án “Đẩy mạnh nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Riêng trong năm 2004, Viện Hàn lâm đã tổ chức hoặc phối hợp tổ chức thành công một số cuộc Hội thảo Quốc gia và Quốc tế, như:

- Hội thảo Quốc gia và Hội thảo Quốc tế “50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Điện Biên và Thủ đô Hà Nội”.

- Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ II tại Thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề: Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại.

- Hội thảo quốc tế tại Thủ đô Viên Chăn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 30 năm ký Hiệp định hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (năm 2007).

- Hội thảo về Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào tại cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) (năm 2008).

- Các cuộc Hội thảo khác như: Hội thảo Quốc tế Về các nền kinh tế chuyển đổi và hợp tác Á - Âu và triển vọng tham gia của Việt Nam; Hội thảo Quốc tế Hợp tác ASEAN - EU; Hội thảo Quốc tế về Nguôn ngữ học Liên Á lần thứ IV; Hội thảo Quốc tế Việt Nam - Na Uy đương đại; Hội thảo về Di sản Hán Nôm; Hội thảo Nho giáo tại Hà Nội; Hội thảo kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc tại Bắc Ninh…

Vào thời gian này, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đẩy mạnh việc thực hiện một số Dự án và Nhiệm vụ lớn như: Dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên; Dự án Khai quật và chỉnh lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long và một số Dự án điều tra cơ bản kinh tế, xã hội, văn hóa ở một số địa phương trong cả nước; Dự án Điều tra, sưu tầm tổng thể về Hán Nôm; Dự án Điều tra tổng thể văn học Việt Nam 10 thế kỷ; Dự án Điều tra tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số…; Dự án Điều tra cơ bản các dân tộc vùng Tây Bắc, miền Trung và Tây Nam Bộ; Điều tra cơ bản các yếu tố phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; Điều tra cơ bản và hệ thống hóa tư liệu khảo cổ học vùng Nam Bộ, hoàn thành bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập, xuất bản 75 tập Sử thi Tây Nguyên… Hoàn thành việc biên soạn và xuất bản bộ sách Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số (23 tập), cơ bản hoàn thành việc biên soạn bộ sách Lịch sử văn hóa Việt Nam (6 tập), Dự án “Sưu tầm, mã hóa, nghiên cứu, khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”…

Nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức thực hiện một số đề tài phục vụ công tác đối ngoại và phục vụ nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, như: Nghiên cứu cơ sở lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia; Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ; Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; Sự biến động chính trị Đông Á hai thập niên đầu thế kỷ XXI - Những vấn đề đặt ra và đối sách của Việt Nam; Quan hệ Nga - ASEAN trong những thập niên đầu thế kỷ XXI; Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên mới của ASEAN trong bối cảnh Đông Á đầu thế kỷ XXI; Hoàn thành Dự án hợp tác quốc tế “Hợp tác nghiên cứu giữa Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Quốc gia Lào” và hỗ trợ Lào “Tổng kết 25 năm đổi mới kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”. Một số kết quả nghiên cứu đã phục vụ trực tiếp theo yêu cầu của Trung ương Đảng và Chính phủ như: Năm 2009, Viện đã thực hiện nhiệm vụ đột xuất “Đánh giá, dự báo tình hình kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động đến Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ giao. Nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện đã thực hiện một số báo cáo chuyên đề nhằm phục vụ việc soạn thảo Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Đại hội X, XI của Đảng… Trên cơ sở kết quả khai quật khu dích tích khảo cổ học và thực hiện Dự án “Chỉnh lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long”, Viện đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, các chuyên gia UNECO quốc tế và Bộ Ngoại giao Việt Nam hoàn chỉnh bộ Hồ sơ về “Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội”, đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới đúng dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Trong những năm gần đây, trước những chuyển biến mau chóng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta và trước những biến đổi bất thường về chính trị và kinh tế - xã hội trong khu vực và quốc tế, Viện Hàn lâm càng ra sức đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình, đề tài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của đất nước theo Chiến lược phát triển khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Quy hoạch tổng thể về phát triển khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Điều đó thể hiện qua việc tổ chức thực hiện và đề xuất một số chương trình như: Chương trình Tây Nguyên 3 (giai đoạn 2011-2015): Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên; Nghiên cứu tổng thể tư liệu về Hoàng Sa và Trường Sa; Nghiên cứu đánh giá tổng hợp tài nguyên môi trường, kinh tế, xã hội và đề xuất luận cứ khoa học vụ phục chiến lược phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (Chương trình Tây Nam Bộ)…

              Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam rất chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản. Trong các chương trình, đề tài khoa học đều có sự kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng. Nhờ vậy trình độ nghiên cứu lý luận, nghiên cứu cơ bản của đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm ngày càng được nâng cao. Điều đó đã tạo tiền đề quan trọng cho Viện Hàn lâm thực hiện tốt các chương trình, đề tài, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao, tạo cơ hội cho việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của KHXH&NV vào đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội - văn hóa của đất nước một cách có hiệu quả.

  Tóm lại, trong 10 năm gần đây, phát huy các thành tựu đã đạt được trong suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có những bước trưởng thành vượt bậc trên nhiều phương diện: Về xây dựng hệ thống các cơ quan và lĩnh vực nghiên cứu, về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, về hợp tác nghiên cứu với các tổ chức quốc tế nghiên cứu về khoa học xã hội, về xây dựng cơ sở vật chất… Bước trưởng thành ấy thể hiện trên một số thành tựu cụ thể sau:

Về nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm đã tích cực triển khai đồng bộ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng với tư vấn chính sách và đào tạo. Các chương trình, dự án và đề tài nghiên cứu khoa học tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn, vừa cơ bản, vừa cấp bách của Việt Nam và các nước thuộc các lĩnh vực chủ yếu như: kinh tế - xã hội, chính trị và hệ thống chính trị, văn hóa và con người, dân tộc và tôn giáo, quốc phòng và an ninh, khu vực và quốc tế, … Các kết quả nghiên cứu của đội ngũ các nhà nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kết tinh trong nhiều công trình khoa học đã được nghiệm thu và đang thực hiện, trong hàng vạn bài báo công bố trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước và trên hơn 7 ngàn đầu sách đã được xuất bản… Các kết quả nghiên cứu ấy đã có tác động tích cực vào sự phát triển của đất nước, đã:

- Góp phần nhận thức ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Viện đã thực hiện nhiều chương trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở và chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, góp phần cung cấp cơ sở lý luận để nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, những kết quả nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới về kinh tế và chính sách xã hội, góp phần vào sự hình thành đồng bộ, hệ thống những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và của Việt Nam.

Nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và soạn thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và các Nghị quyết của nhiều Hội nghị Trung ương, cũng như tham gia vào việc Tổng kết 20 năm Đổi mới, bổ sung và phát triển Cương lĩnh phát triển đất nước năm 1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030…

- Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội, khoa học nhân văn và nghiên cứu quốc tế, cung cấp luận cứ khoa học nhằm hoạch định đường lối và chính sách phát triển toàn diện đất nước.

Viện Hàn lâm đã và đang tiếp tục nghiên cứu nhằm luận giải sự tồn tại tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong quá trình phát triển đất nước ở Việt Nam, về vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước và tham khảo kinh nghiệm thế giới, các cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã tập trung nghiên cứu sâu về kinh tế thị trường, luận chứng về sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận giải bản chất và đặc trưng của nền kinh tế thị trường, từ đó góp phần định hướng cơ chế phân bổ nguồn lực và phân phối thu nhập một cách hợp lý theo yêu cầu phát triển bền vững, đề xuất một hệ thống những biện pháp quan trọng và cần thiết để giải phóng và phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho nhiệm vụ trọng đại này. Các kết quả nghiên cứu của các chương trình và đề tài trọng tâm như: “Phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa - con đường và bước đi”, và một số đề tài trọng điểm khác đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là khâu đột phá để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; luận giải cơ sở khoa học của mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, đặc biệt lợi thế so sánh động do con người Việt Nam tạo ra và được thực hiện trong môi trường hội nhập, dựa vào phát huy tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hóa…

- Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, góp phần đổi mới hệ thống chính trị.

Trong những năm gần đây, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần làm rõ thực chất của công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân; về dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở. Những công trình nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, “Nâng cao năng lực cầm quyền và lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”, “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều kiện Đổi mới ở Việt Nam”… đã góp phần vào nhiệm vụ đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta.

Viện cũng đã tham gia tích cực vào quá trình cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn và đề xuất nhiều nội dung của Chiến lược lập pháp đến năm 2020.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nhằm phát triển văn hóa, xã hội và con người.

Trong nhiều năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã triển khai nhiều công trình, đề tài khoa học các cấp nghiên cứu về văn hóa, góp phần luận chứng cho quan điểm coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã hội; khẳng định văn hóa Việt Nam có sự thống nhất trong đa dạng và việc củng cố sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa là cơ sở giữ vững bình đẳng và phát huy tính đa dạng của văn hóa các tộc người, ở các vùng miền trên cả nước. Phân tích nhằm làm sáng tỏ những giá trị thể hiện bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam trong lịch sử cũng như ý nghĩa và vai trò to lớn của các giá trị đó trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa đất nước ngày càng phát triển.

Viện cũng đã có những nghiên cứu quan trọng về xã hội và con người trong quá trình phát triển: luận chứng về sự cần thiết phải gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó là phương thức hiệu quả nhất để phát triển xã hội một cách bền vững, hài hòa; luận chứng làm rõ vị trí trung tâm cũng như mục tiêu, động lực của con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời gian qua góp phần khẳng định: Phát triển vì con người là mục tiêu cao nhất của mọi chính sách kinh tế - xã hội của đất nước.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu các vấn đề về lịch sử, dân tộc và tôn giáo.

Nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, trong những năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tập trung làm rõ các vấn đề về sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam qua các thời kỳ; các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam; khẳng định chủ quyền quốc gia và tính toàn vẹn lãnh thổ, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết sách của Đảng và Nhà nước.

Các nghiên cứu cũng làm rõ truyền thống bất khuất, kiên cường, cần cù, thông minh, sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm rõ sự hình thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ và vùng đất Tây Nguyên, những bộ phận không thể tách rời của đất nước Việt Nam trong lịch sử.

Các nhà Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học, Tâm lý học… của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, bằng các cuộc điền dã hàng vạn ki-lô-mét trên mọi nẻo đường Tổ quốc, bằng các kết quả nghiên cứu của mình đã khẳng định việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc anh em là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu đã tiếp tục làm rõ những biến đổi về thành phần ở một số tộc người và nhóm địa phương trong điều kiện mới, trong đó chỉ ra nhận thức lịch sử, lợi ích chính trị, kinh tế, quyền sử dụng tài nguyên, chính sách ưu đãi của Nhà nước là những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trên. Đồng thời, góp phần xác định và làm sáng tỏ những vấn đề cấp bách về dân tộc trong bối cảnh có những biến động về tình hình tộc người và tôn giáo ở các vùng Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc nước ta.

Những kết quả nghiên cứu trên đã góp phần giáo dục nhân sinh quan và thế giới quan cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Đồng thời, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Những kết quả nghiên cứu này cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý ở cấp Trung ương và địa phương.

Trong lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng, Viện Hàn lâm đã góp phần làm sáng tỏ những luận điểm có tính đột phá trong nhận thức về tôn giáo như tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; văn hóa và đạo đức tôn giáo có những điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, về hệ thống tôn giáo ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa; trong đó nêu bật hai khuynh hướng có thể coi là cơ bản trong đời sống của các cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là: đồng hành cùng dân tộc và tích cực hiện đại hóa tôn giáo theo hướng trở thành các tôn giáo xã hội. Viện cũng đã có những đóng góp thiết thực vào việc xây dựng và hoàn thiện luật pháp của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu về xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại và hội nhập.

Nghiên cứu những vấn đề quốc tế và khu vực là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một mặt nhằm giúp người Việt Nam hiểu rõ về các quốc gia, dân tộc, các nền văn minh thế giới, mặt khác nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế” của Đảng và Nhà nước… Viện Hàn lâm đã có những nghiên cứu cơ bản về thời đại, về tình hình thế giới và đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng về thế giới, khu vực; góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng, khẳng định Việt Nam muốn và sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và hợp tác phát triển. Đồng thời, Viện Hàn lâm cũng đã góp phần luận giải khoa học về các phương châm đối ngoại của Đảng và Nhà nước như: giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác, tránh đối đầu trực diện, tự đẩy mình vào thế cô lập, tăng cường hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là với các nước lớn, chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. Trên cơ sở làm rõ hơn lý luận về toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế với tư cách là khuôn khổ phát triển mới của nền kinh tế thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là một trong những cơ quan đầu tiên nghiên cứu và đưa ra quan điểm Việt Nam cần phải chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trên tất cả các cấp độ: song phương, tiểu khu vực và đa phương toàn cầu.

Nhìn chung, trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - từ bước khởi đầu là Ban Nghiên cứu Lịch sử - Văn học và Địa lý, đến Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ngày càng trưởng thành và phát triển về mọi mặt: Về cơ cấu tổ chức, về đội ngũ cán bộ công chức và năng lực nghiên cứu, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và quan hệ với các cơ quan hữu quan trong nước và nước ngoài. Một khối lượng lớn các kết quả nghiên cứu đạt chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã tạo nên uy tín khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Đây là thành quả lao động của hàng ngàn cán bộ nghiên cứu, phục vụ nghiên cứu và công chức, viên chức của Viện Hàn lâm qua các thời kỳ. Các kết quả ấy đã phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý.

Dù vậy, bên cạnh những thành tựu chủ yếu, công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, tham mưu và tư vấn chính sách khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn bộc lộ một số mặt hạn chế: Cho đến nay, vẫn chưa hình thành được một hệ thống lý luận đầy đủ về khoa học xã hội của Việt Nam; sự phối hợp giữa các Viện nghiên cứu trong và ngoài nước chưa chặt chẽ và có hiệu quả; sản phẩm nghiên cứu của Viện Hàn lâm cũng như của các Viện nghiên cứu trực thuộc tuy nhiều về số lượng nhưng còn ít những công trình có giá trị cao về lý luận và thực tiễn; Đội ngũ các nhà khoa học chủ chốt ngày càng mỏng, đặc biệt là thiếu các chuyên gia đầu ngành đủ năng lực chủ trì, triển khai các chương trình, đề tài trọng điểm; mức đầu tư cho nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu còn thấp so với yêu cầu, đồng thời còn dàn trải mang nặng tính chất hành chính.

Vì vậy, trong thời gian tới Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể, có hiệu quả nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phục vụ và tổ chức nghiên cứu khoa học để đáp ứng được yêu cầu phát triển khoa học xã hội đặt ra, cụ thể gồm một số nhiệm vụ như sau:

1. Tổ chức nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách của khoa học xã hội Việt Nam, khu vực và quốc tế trong thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI. Tiếp tục tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước và tiếp tục làm rõ và phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, khải thác, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

3. Tổ chức việc nghiên cứu, điều tra cơ bản về kinh tế - văn hóa - xã hội trên những địa bàn trọng điểm của đất nước, tiến hành phân tích và dự báo về kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

4. Kết hợp hoạt động nghiên cứu với công tác đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học xã hội có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ cho Viện Hàn lâm và cho cả nước.

  Nhìn chung lại, có thể khẳng định, thời kỳ từ năm 1986 đến nay là thời kỳ phát triển phong phú và toàn diện nhất về hoạt động khoa học của Viện Hàn lâm. Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tập trung lực lượng nghiên cứu những vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách về lý luận và thực tiễn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần hình thành cơ sở lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, hoạch định các chủ trương đương lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát hiện, sưu tầm, khai thác và phát huy những giá trị của lịch sử, văn hóa, văn minh Việt Nam, góp phần vào việc nâng cao dân trí, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ và nhân dân. Tích cực điều tra cơ bản về kinh tế - xã hội - văn hóa nhằm tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng quy hoạch phát triển của từng vùng cũng như chung cho cả nước. Việc hợp tác nghiên cứu của Viện Hàn lâm với cán bộ, ngành, tỉnh, thành phố trong cả nước không ngừng được mở rộng. Việc hợp tác nghiên cứu về các vấn đề KHXH&NV của thế giới và khu vực của Viện Hàn lâm với các nước trên thế giới cũng ngày càng được tăng cường. Đến nay, Viện Hàn lâm đã có quan hệ hợp tác nghiên cứu, đào tào cán bộ, trao đổi thông tin khoa học với hơn 50 nước và các tổ chức KHXH trên thế giới. Cùng với sự trưởng thành của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, xu thế này sẽ ngày càng phát triển trong những thập niên tới của thế kỷ XXI.

              B/ Về tổ chức và cán bộ cũng là thời kỳ có những thay đổi lớn

              Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 244/NQ/HĐNN phê chuẩn chuyển Ủy ban KHXH Việt Nam thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam làm chức năng nghiên cứu Khoa học xã hội. Cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam lúc này gồm có 16 Viện, 2 Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành và một số cơ quan phục vụ nghiên cứu, cơ quan chức năng giúp việc Viện trưởng.

              Ngày 19/10/1990, đồng chí Đặng Xuân Kỳ được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Các đồng chí Phạm Xuân Nam, Lê Hữu Tầng làm Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam(7).

              Ngày 16/9/1991, đồng chí Nguyễn Duy Quý được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam thay đồng chí Đặng Xuân Kỳ.

              Ngày 22/5/1993, Chính phủ ra Nghị định số 23/CP Quyết định thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia trên cơ sở tổ chức lại Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Duy Quý được cử giữ chức Giám đốc Trung tâm. Các đồng chí Phạm Xuân Nam, Lê Hữu Tầng Phó Giám đốc Trung tâm.

              Theo Nghị định 23/CP của Chính phủ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia là cơ quan khoa học thuộc Chính phủ, hoạt động theo quy chế riêng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trung tâm có chức năng nghiên cứu những vấn đề Khoa học xã hội và nhân văn trọng điểm của Nhà nước, cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan lãnh đạo định ra đường lối, chính sách xây dựng và phát triển đất nước; xây dựng và phát triển tiềm lực Khoa học xã hội và nhân văn cả nước(8).

              Dựa trên chức năng nghiên cứu đó, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

              - Xây dựng trình Chính phủ xem xét và quyết định phương hướng nhiệm vụ và kế hoạch dài hạn về nghiên cứu KHXH&NV của Trung tâm.

              - Tổ chức chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch nghiên cứu và xây dựng tổ chức của Trung tâm.

          - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KHXH&NV có trình độ đại học và trên đại học.

              - Tham gia việc hoạch định chính sách phát triển KHXH&NV của cả nước.

              - Xây dựng và thực hiện kế hoạch hợp tác với nước ngoài theo các quy định hiện hành của Nhà nước.

              - Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản và kinh phí của Trung tâm theo các quy định hiện hành của Nhà nước(9).

              Ngày 23/5/1996, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 335/TTg về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc Trung tâm, Hội đồng Khoa học Trung tâm, các Viện nghiên cứu và các đơn vị phục vụ nghiên cứu khoa học trực thuộc Trung tâm, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, tiêu chuẩn công chức, viên chức, quy định về tài chính, tài sản của Trung tâm và các đơn vị trực thuộc. Đây là những quy định rất quan trọng về mặt tổ chức và hoạt động của Trung tâm, tạo hành lang pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của một cơ quan khoa học.

              Ngày 6/9/1996 đồng chí Đỗ Hoài Nam được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm. Ngày 7/4/1999, đồng chí Hồ Ngọc Hải được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm.

              Trong lịch sử 60 năm xây dựng và phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,  sau khi Trung tâm được thành lập là giai đoạn có bước phát triển về tổ chức các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành chưa từng có ở các thời kỳ trước. Tại thời điểm thành lập Trung tâm mới chỉ có 16 Viện nghiên cứu khoa học và một Viện Thông tin Khoa học xã hội. Nhưng 4 tháng sau đó, trong khi hệ thống các Viện nghiên cứu của cả nước được sắp xếp lại theo hướng sát nhập hoặc giảm bớt về số lượng theo yêu cầu của cải cách hành chính, thì Đảng và Nhà nước vẫn rất quan tâm phát triển thêm các Viện nghiên cứu khoa học của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Ngày 13/9/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 466/TTg thành lập một lúc 5 Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Đó là Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu (năm 1998 đổi thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu)(10), Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ. Gần 1 năm sau, ngày 21/6/1994, Thủ tướng Chính phủ lại ra Quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu Địa lý Nhân văn trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.Tiếp theo, ngày 24/10/1995 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 689/TTg về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trên cơ sở tách Bảo tàng Dân tộc học ra khỏi Viện Dân tộc học) trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, đặt trong hệ thống Bảo tàng Quốc gia. Ngày 20/9/1999, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 190/QĐ-TTg về việc thành lập Viện nghiên cứu Con người trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Như vậy, trong vòng 10 năm, Chính phủ đã ra Quyết định thành lập mới 8 Trung tâm và 1 Viện nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Và nếu tính từ năm 1990 đến năm 2003, hệ thống các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Trung tâm đã tăng 10 đơn vị nghiên cứu, đưa tổng số Viện và Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đạt tới 24 đơn vị nghiên cứu (17 Viện, 6 Trung tâm nghiên cứu và 1 Bảo tàng Dân tộc) chưa kể hệ thống các cơ quan phục vụ nghiên cứu như Viện Thông tin KHXH, Nhà xuất bản KHXH và hệ thống các tạp chí khoa học chuyên ngành. Có thể nói, giai đoạn phát triển từ năm 1990 đến năm 2003 của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về tổ chức, cả số lượng và chất lượng, tạo điều kiện cho Viện Hàn lâm sớm đi đến định hình của sự phát triển về mặt tổ chức nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học.

              Để tạo điều kiện cho việc thực hiện các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó, một số quyết định về tổ chức của Trung tâm được thực hiện. Đầu năm 2004, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đổi tên thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam theo Quyết định số 26/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004 của Chính phủ. Theo đó, các đơn vị trực thuộc Viện cũng có một số thay đổi về tên gọi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thành lập thêm một số đơn vị mới. Các đơn vị mới lần lượt được thành lập trong thời gian này là: Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên, Trung tâm phân tích và dự báo và Ban Quản lý khoa học…

              Các Quy chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam được xây dựng mới cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao đồng thời với việc xây dựng và ban hành thực hiện Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

              Về lãnh đạo cấp Viện Khoa học xã hội Việt Nam, trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2009, Viện có những thay đổi như:

- Tháng 2/2004, PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện trưởng Viện Sử học được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 1/12/2005, TS. Hồ Ngọc Hải được nghỉ hưu theo chế độ.

- Tháng 14/11/2007, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 2/2008, PGS.TS. Trần Đức Cường thôi giữ chức Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam để làm công tác chuyên môn.

- Tháng 8/8/2008, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chánh Văn phòng Viện Khoa học xã hội Việt Nam được Thủ tướng ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện  Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 20/5/2010, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Trưởng Ban Kế hoạch -  Tài chính được Thủ tướng ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 5/2011, GS.TS. Đỗ Hoài Nam thôi giữ chức Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam để làm công tác chuyên môn.

- Tháng 5/2011, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam và kể từ tháng 2/2013 là Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Trong năm 2007 và đầu năm 2008, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan chức năng của Chính phủ soạn thảo và trình Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 53/2008-NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2008 quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Theo Nghị định này, “Viện Khoa học xã hội là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển nhanh, bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện dịch vụ tư vấn về chính sách phát triển, đào tạo sau đại học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực khoa học của cả nước”.

Viện có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức với tổng cộng 29 đơn vị nghiên cứu, trong đó đổi tên hai đơn vị là Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ thành Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ và Viện Khoa học xã hội Miền Trung – Tây Nguyên thành Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên; thành lập mới hai đơn vị là Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam và Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên theo Quyết định số 1055/QĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành về các đơn vị sự nghiệp khác thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam có 27 tạp chí chuyên ngành và 2 Nhà xuất bản là Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Nhà xất bản Từ điển Bách khoa.

Nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của khoa học xã hội nói chung và của một trong nhiều cơ quan hàng đầu về khoa học nói riêng, đồng thời tạo điều kiện để tăng cường hội nhập quốc tế, ngày 26/12/2012, Chính phủ ra Nghị định số 109/2012/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trên cơ sở Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Về vị trí và chức năng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Nghị định nêu rõ: “Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội; cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội;tham gia phát triển tiềm lực khoa học của cả nước.

Nghị định của Chính phủ cũng xác định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có các nội dung cơ bản là:

1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về khoa học xã hội:

- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam;

- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;

- Những vấn đề cơ bản về phát triển toàn diện con người Việt Nam và các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hóa và văn minh nhân loại;

- Những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, văn học, ngôn ngữ, tâm lý học nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

- Những vấn đề cơ bản, toàn diện, có hệ thống về lý thuyết phát triển của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế;

- Những khía cạnh khoa học xã hội của nền kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và ứng phó với biến đổi khí hậu và đánh giá tác động đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam;

- Lý luận và kinh nghiệm phát triển trên thế giới, dự báo xu hướng phát triển chủ yếu của khu vực và thế giới, đánh giá những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến sự phát triển toàn cầu, khu vực và Việt Nam;

- Nghiên cứu, điều tra cơ bản, liên ngành về khoa học xã hội, phân tích và dự báo kinh tế - xã hội phục vụ nhu cầu phát triển đất nước, chú trọng những lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu, những ngành, vùng kinh tế trọng điểm và các liên kết vùng;

- Nghiên cứu, tổ chức biên soạn những công trình khoa học tiêu biểu, những bộ sách lớn, thể hiện tinh hoa của trí tuệ Việt Nam và thế giới, phục vụ công trình nghiên cứu và truyền bá tri thức về khoa học xã hội.

2. Tổ chức sưu tầm, khái quát, nghiên cứu, bảo tồn và bảo tàng nhằm phát huy những giá trị di sản văn hóa của các dân tộc Việt Nam.

3. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội; đào tạo và cấp bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật; tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của cả nước, ngành, vùng, địa phương và doanh nghiệp.

4. Tổ chức hợp tác nghiên cứu và liên kết đào tạo về khoa học xã hội với các tổ chức quốc tế, các viện, và trường đại học nước ngoài theo quy định của pháp luật.

5. Tư vấn phản biện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

6. Tổ chức tư vấn và thực hiện dịch vụ công theo quy định của pháp luật.

7. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin khoa học xã hội, phố biến tri thức khoa học, góp phần nâng cao trình độ dân trí.

              C/ Công tác đào tạo, cán bộ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng ngày càng được coi trọng, nhất là đào tạo sau đại học. Trước khi Học viện Khoa học xã hội trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ra đời, Viện Hàn lâm đã có 17 cơ sở đào tạo sau đại học. Ngày 10/01/2010 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 35/QĐ-TTg về việc thành lập Học viện Khoa học xã hội trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong những năm gần đây, hàng năm Học viện Khoa học xã hội đã thu hút hàng ngàn cán bộ trong và ngoài Viện Hàn lâm thi vào các khóa nghiên cứu sinh và cao học. Tính đến tháng 10 năm 2013, tổng số cán bộ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ là 2.593 người, trong đó có 1.080 tiến sĩ, 1.513 thạc sĩ. Cùng với các cơ sở đào tạo sau đại học của các trường đại học và các học viện, viện nghiên cứu trong cả nước, các cơ sở đào tạo sau đại học trước đây và Học viện Khoa học xã hội hiện nay của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần tích cực trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ KHXH&NV có học vị cao cho cả nước. Chất lượng đào tạo nhìn chung được đảm bảo.

              Bên cạnh việc đào tạo về chuyên môn ở trình độ trên đại học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hàng năm còn chú trọng mở nhiều lớp đào tạo kiến thức mới, nâng cao trình độ lý luận, phương pháp nghiên cứu, ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước, nghiệp vụ tạp chí, xuất bản, tài chính - kế toán… cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc Viện Hàn lâm.

              Do những cố gắng đó, số lượng cán bộ có học vị tiến sĩ và thạc sĩ của Viện Hàn lâm những năm gần đây tăng gấp nhiều lần so với 20 năm trước. Tỷ lệ cán bộ có học hàm và học vị từ thạc sĩ trở lên đạt hơn 44.8 % tổng số cán bộ. Nếu tính riêng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, tỷ lệ đó đạt tới gần 60%. Có những  viện như Viện Sử học, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Văn học, Viện Ngôn ngữ học, Viện Kinh tế Việt Nam,… đạt tới tỷ lệ 70-80%  tổng số cán bộ nghiên cứu.

              Sự phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong 60 năm qua không tách rời sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, sự phối hợp chặt chẽ với Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm.

              Sự lãnh đạo của Đảng bộ Viện Hàn lâm là vai trò quyết định đối với việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước giao cho Viện Hàn lâm. Trong 60 năm qua, Đảng bộ Viện Hàn lâm không ngừng lớn mạnh và phát triển về mọi mặt. Số lượng chi bộ và đảng viên tăng dần theo mức tăng của đội ngũ cán bộ công chức của Viện Hàn lâm. Đến nay, Đảng bộ có 43 chi bộ với 695 đảng viên, trong đó 367 đảng viên nam, 328 đảng viên nữ. Trong phong trào xây dựng Đảng bộ và Chi bộ trong sạch, vững mạnh, hầu hết các chi bộ thuộc Đảng bộ Viện Hàn lâm đều được công nhận là chi bộ trong sạch, vững mạnh. Và Đảng bộ Viện Hàn lâm là một trong những Đảng bộ thuộc Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương nhiều năm được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Nhiều cán bộ đảng viên của Đảng bộ đóng góp nhiều thành tích nên được xét tặng huy hiệu 40 năm và 50 năm tuổi Đảng. Năm 2002, Đảng bộ Viện Hàn lâm được Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương xét tặng cờ và bằng khen về thành tích xuất sắc trong hoạt động 5 năm 1997-2002. Năm 2010, Đảng bộ Viện Hàn lâm được Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương xét bằng khen về thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ 5 năm 2005-2010. Tháng 10 năm 2013, Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được công nhận là Đảng bộ trên cấp cơ sở.

              Cùng với sự phát triển của Đảng bộ, Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm cũng không ngừng phát triển trong 60 năm qua. Trước đây, Công đoàn Viện Hàn lâm thuộc Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội. Từ năm 1994, Công đoàn Viện Hàn lâm thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam và được nâng cấp thành Công đoàn cấp trên cơ sở từ năm 1999. Hiện nay Công đoàn Viện Hàn lâm có 47 đơn vị, trong đó có 41 đơn vị công đoàn cơ sở thành viên và 6 đơn vị công đoàn bộ phận, với tổng số 1929 đoàn viên Công đoàn. Từ năm 1992 đến nay, Chủ tịch Viện và Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm đã ký kết Quy chế phối hợp hoạt động giữa chính quyền và công đoàn  trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Bởi vậy, Công đoàn ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát về quản lý, động viên đoàn viên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Do đạt được nhiều thành tích trong mọi mặt hoạt động, nên từ năm 2000 đến nay, hàng năm, Công đoàn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đều được Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Công đoàn Viên chức Việt Nam khen thưởng. Trong các hoạt động của Công đoàn Viện Hàn lâm, đáng chú ý nhất là mặt hoạt động về nữ công. Nhờ có nhiều đóng góp tích cực và đạt được nhiều thành tích xuất sắc, hoạt động nữ công của Công đoàn Viện Hàn lâm được nhận nhiều bằng khen của Công đoàn Viên chức Việt Nam. Đặc biệt, tập thể nữ Ban biên soạn từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) được Quỹ hỗ trợ tài năng sáng tạo nữ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (FAWIC) tặng giải thưởng về tài năng sáng tạo nữ và PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm (Viện Ngôn ngữ học) được tặng bằng lao động sáng tạo năm 2001.

              Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tích cực hoạt động, có nhiều đóng góp vào sự tiến bộ chung của Viện Hàn lâm.

              Mặc dù là một cơ quan nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia như Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhưng cán bộ trẻ sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vẫn không ngừng được phát triển. Ngoài các hoạt động văn hóa, thể thao, v.v…đáng chú ý của các phong trào Đoàn Thanh niên của Viện Hàn lâm là tiến quân vào khoa học và phấn đấu vươn lên Đảng, nhằm mục tiêu sớm trở thành cán bộ khoa học có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường chính trị vững vàng và trình độ khoa học cao. Hiện nay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm có 36 Chi đoàn trực thuộc, 2 Chi đoàn cơ sở, 1 Đoàn cơ sở với tổng số 909 đoàn viên, sinh hoạt trực thuộc Đoàn khối các cơ quan Trung ương. Từ năm 2002, Đoàn Thanh niên của Viện Hàn lâm được nâng cấp thành Đoàn Thanh niên cấp cơ sở tương đương quận, huyện. Do có nhiều thành tích trong hoạt động, từ năm 1996 đến nay, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm được tặng nhiều bằng khen của Trung ương đoàn và Đoàn Khối các cơ quan Trung ương. Đặc biệt, Ban Chấp hành Đoàn Viện được Trung ương Đoàn tặng thưởng Cờ thi đua của Đơn vị xuất sắc công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cấp huyện 5 năm liền (2007-2011). Các đoàn viên thanh niên thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ tự vệ Viện Hàn lâm. Viện Hàn lâm được chia thành 29 trung đội, 10 tiểu đội theo tổ chức hành chính của cơ quan. Trong những năm gần đây, lực lượng tự vệ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam liên tục được tặng cờ là đơn vị quyết thắng. Từ năm 2000 đến nay, lực lượng tự vệ Viện Hàn lâm còn tích cực tham gia các hội thao quân sự hàng năm do Quận đội Hai Bà Trưng, Quận đội Ba Đình, Hà Nội tổ chức, và năm nào Đại đội tự vệ Viện Hàn lâm cũng đạt giải cao về đồng đội và cá nhân, nhất là các môn về lý luận chính trị và bắn súng.

              Trong 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp về mặt khoa học, được Đảng và Chính phủ đánh giá cao, góp phần quan trọng vào việc hoạch định các chủ trương, đường lối chính sách  của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ và góp phần vào việc phát triển nền văn hóa, khoa học nước nhà. Trong số hàng trăm công trình khoa học đã công bố, có thể nêu lên những công trình nghiên cứu xuất sắc, có đóng góp khoa học tiêu biểu, đã được Đảng và Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước năm Đợt 1 năm 1996, Đợt 2 năm 2000, Đợt 3 năm 2005 và Đợt 4 năm 2012 như sau:

              a) Về Giải thưởng Hồ Chí Minh có các công trình Vài nhận xét về thời kỳ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn Gia Long (1954) và Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản (1960) của GS. VS. Nguyễn Khánh Toàn; Bộ lịch sử 80 năm chống pháp - 3 tập (1956, 1959, 1960) của GS. Trần Huy Liệu; các công trình về lịch sử Việt Nam: Giai cấp công nhân Việt Nam - 4 tập (1956-1957) và Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám - 3 tập của GS. Trần Văn Giàu; công trình  Nghiên cứu Văn học Việt Nam và Văn học Thế giới (1945-1984) của GS. Đặng Thai Mai; công trình: Anh hùng và nghệ sĩ (1972), Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng và văn hóa (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử của GS. Vũ Khiêu; cụm công trình: Bàn về văn học viết Thân phận con người, Tiểu thuyết và thời gian, Đối thoại văn học, Từ ký hiệu học đến thi pháp học của GS. VS. Hồ Tôn Trinh; công trình: Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu của GS. Cao Xuân Huy; Các công trình: Văn học dân gian- tập 1, 2 (1972, 1973), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam và sự phát triển của xã hội Việt Nam (1995) của GS. Đinh Gia Khánh; các công trình: Truyện cổ Việt Nam (1955) và Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1972) của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan; các công trình: Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ (1964), Người anh hùng làng Gióng (1969), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974) của nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh; các công trình Lược khảo về thần thoại Việt Nam (1957), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam - 5 tập (1958-1982), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh (1995 - chủ biên) của GS. Nguyễn Đổng Chi; cụm công trình lịch sử văn hóa Việt Nam: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Lịch sử cổ đại Việt Nam, Việt Nam văn hóa sử cương, Đất nước Việt Nam qua các đời của GS. Đào Duy Anh; công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Việt Nam - 2 tập của tác giả Trần Văn Giáp; cụm công trình lịch sử: Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử, Lịch và lịch Việt Nam của GS. Hoàng Xuân Hãn; cụm công trình Khảo cổ học Việt Nam: Trống Đông Sơn ở Việt Nam, Hang Con Moong, Hùng Vương dựng nước của GS. VS. Phạm Huy Thông; công trình: Theo dấu các văn hóa cổ của GS. Hà Văn Tấn; công trình: Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam - 2 tập của GS. Nguyễn Văn Huyên; công trình: Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức của GS. Trần Đức Thảo; công trình Chiến tranh Việt Nam và Kinh tế Mỹ của GS. Đào Văn Tập; công trình, cụm công trình Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh, Lý luận văn thơ Việt Nam, Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh của GS.NGND. Hà Minh Đức.

            b) Về Giải thưởng Nhà Nước có các công trình và cụm công trình: Nam Cao đời văn và tác phẩm, Khảo luận văn chương, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Các Mác. Ph. Ănghen. V. I. Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ của GS. Hà Minh Đức; cụm công trình về văn hóa Việt Nam: Xã thôn Việt Nam,  Tìm hiểu tính cách dân tộc của GS. Nguyễn Hồng Phong; cụm công trình về văn hóa Việt Nam: Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới,  Thử tìm hiểu tính cách Nguyễn Du trong truyện Kiều của PGS. Phan Ngọc; cụm công trình về ngôn ngữ với văn hóa xã hội: cuộc sống trong ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hóa của GS. Hoàng Tuệ; công trình: Quang Trung anh hùng dân tộc (1988 - 1992) của tác giả Hoa Bằng; cụm công trình: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Quang Trung - Nguyễn Huệ, Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, của tác giả Nguyễn Lương Bích; cụm công trình: Cách mạng Tây Sơn, Nguyễn Huệ con người và sự nghiệp GS. Văn Tân; cụm công trình Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc, Những vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn; công trình: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của tác giả Cầm Trọng; cụm công trình: Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, Chúng ta kế thừa di sản nào của GS. Văn Tạo; Công trình: Tín ngưỡng Thành hoàn Việt Nam, Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Duy Hinh; Công trình Sử thi Ê-đê, Vùng Sử thi Tây Nguyên của GS.TSKT. Phạm Đăng Nhật; Cụm công trình khoa học “Những vấn đề ngữ nghĩa và Từ điển Tiếng Việt”: Lôgic - Ngôn ngữ học, Từ điển Chính tả,Từ điển Vần, Chính tả Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê; công trình Nghiên cứu về ngữ pháp Tiếng Việt của GS. Lê Khả Kế; công trình Từ điển Anh - Việt của tập thể tác giả do GS. Hoàng Phê chủ biên; Cụm công trình khoa học Văn học Việt Nam hiện đại: Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu biểu, Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại của GS. Phong Lê - Lê Phong Sừ; Cụm công trình khoa học về Văn học Trung đại Việt Nam: Những suy nghĩ từ văn học Trung đại , Ngô Thi Sỹ - Những chặng đường thơ văn của PGS. Trần Thị Băng Thanh; công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam và những chứng tích Lịch sử của GS. Văn Tạo và GS.TS. Furuta Moto (đồng chủ biên) và các tác giả; công trình Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách Mạng tháng tám năm 1945 của Dương Kinh Quốc; công trình Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam, Địa lý tự nhiên Việt Nam, Sự phát triển của khoa học địa lý trong thế kỷ XX của GS.TS. Vũ Tự Lập; công trình Truyện Nôm công trình lịch sử và thi pháp thể loại, Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại của GS.TS. Kiều Thu Hoạch; công trình Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Hồ Quý Ly của PGS.TS. Nguyễn Danh Phiệt; công trình Tính dân tộc trong văn học, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Động lực dân tộc và thực tiễn sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của PGS.TS. Thành Duy (Nguyễn Văn Truy).

              20 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 24 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước trên đây xứng đáng tiêu biểu cho hàng trăm công trình khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã được công bố trong 60 năm xây dựng và phát triển.

              Các hoạt động của Viện Hàn lâm tiến tới kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Hàn lâm đã được triển khai từ năm 2012. Từ đầu năm 2013 đến nay, các hoạt động kỷ niệm đã được thực hiện như xây dựng phòng truyền thống của Viện Hàn lâm; tổ chức thi hội diễn văn nghệ quần chúng đạt kết quả tốt./.

 

(1) Các phần trong ngoặc kép là trích Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. Số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991, trang 1-5.

(2) 5 chương trình nghiên cứu trọng điểm đó là: Chương trình A: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ Việt Nam, gồm 8 đề tài. Chương trình B: Một số vấn đề cơ bản và cấp bách của cách mạng tư tưởng và văn hóa trong giai đoạn hiện nay, gồm 14 đề tài. Chương trình C: Tình hình Thế giới và cơ sở khoa học của đường lối đối ngoại của Đảng, gồm 5 đề tài. Chương trình D: Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng giữa 2 hệ thống thế giới, gồm 6 đề tài, Chương trình E: Điều tra cơ bản các vùng trọng điểm của đất nước, gồm 8 đề tài.

(3)  Có thể nêu lên một số Dự án lớn như sau:

- Điều tra, sưu tầm, bảo quản, phiên dịch và xuất bản kho tàng Sử thi Tây Nguyên.

- Điều tra tổng thể tư liệu văn học Việt Nam 10 thế kỷ.

- Điều tra cơ bản các ngôn ngữ ở Việt Nam.

- Dự án tổng thể về bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu, khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm.

- Điều tra xác định các thành phần dân tộc Việt Nam.

- Điều tra bổ sung, tổng kết thực tiễn kinh tế-xã hội và đề xuất những giải pháp phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Điều tra cơ bản định kỳ về thực trạng kinh tế-xã hội-văn hóa của các vùng và các tầng lớp dân cư nhằm phục vụ cho nghiên cứu chính sách phát triển ở Việt Nam.

- Điều tra cơ bản về môi trường xã hội nhân văn và xây dựng luận cứ khoa học hoàn thiện các chính sách tái định cư nhân dân phục vụ xây dựng thủy điện Sơn La.

- Điều tra tổng thể về lịch sử, văn hóa, xã hội địa bàn Tây Nguyên phục vụ xây dựng chiến lược vùng Tây Nguyên.

(4)  Phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 1996, Báo Nhân dân ngày 2-3-1996.

(5) Phát biểu của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 1998, Báo Nhân dân ngày 18-2-1998.

(6) Phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 2002, Báo Nhân dân ngày 29-4-2002.

 

(7)  Đồng chí Phạm Xuân Nam được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam ngày 16/2/1987.

(8) Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

(9)  Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

(10) Ngày 5/3/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 56/1998/QĐ-TTg về việc đổi tên Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu.

 

Các tin đã đưa ngày: