GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Tóm tắt: Mối quan hệ của cá nhân và nhà nước là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong các quan hệ xã hội. Chiến lược phát triển đất nước nói chung, chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam nói riêng, cần phải và có nhiệm vụ giải quyết mối quan hệ đó. Hiện nay Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương và đang tiến hành xây dựng chiến lược pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước là biểu hiện, nội dung quan trọng trong mối quan hệ của cá nhân và nhà nước. Bài viết này góp phần xây dựng chiến lược đó bằng việc luận giải: chiến lược phát triển pháp luật là phương thức giải quyết, tìm kiếm sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; nền tảng của sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; các nguyên tắc xác định sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; các lĩnh vực pháp luật thể hiện sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; vai trò của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam; và giá trị của những hiểu biết đó đối với xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay.
Từ khoá: Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam; sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; tuyên truyền phổ biến, giáo dục; đào tạo pháp luật; khoa học pháp lý.
Abstract: The relationship between the individual and the state is a core social relation. National development strategy in general, and the strategy for legal development in particular, need to resolve this relationship. Until now, the Communist Party and State are working to develop a legal strategy for Vietnam in 2030, with a vision to 2045. The harmonious connection between individuals and the state is an important content in the relationship between the individual and the state. This article contributes to the development of such strategy by discussing these following issues: (i) the strategy for legal development is a method of solving and seeking for harmonious connection between individuals and the state; (ii) the foundation of the harmonious connection between the individual and the state; (iv) principles that define the harmonious connection between the individual and the state; (v) areas of law studies that represent the harmonious connection between the individual and the state; (vi) the role of public and professional legal education programs in Vietnam's strategy for legal development; and (vii) the value of such insights for the formulation and implementation of the current strategy for legal development.
Keywords: Strategy for legal development in Vietnam; the harmonious interplay of the individual and the state; propaganda, popularization, education; legal training; legal science
Đặt vấn đề
Hiện nay Đảng ta đang tiến hành xây dựng Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa năm 2045, trong đó có chiến lược thành tố là Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Xây dựng Chiến lược phát triển pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần phải dựa vào những nền tảng lý luận và thực tiễn như thế nào là vấn đề cần được làm sáng tỏ. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước là mối quan hệ trụ cột, cơ bản trong xã hội nói chung, thể hiện sự tương tác lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước. Sự tương tác lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước cần phải được thiết lập như thế nào, bằng phương thức như thế nào; phải chăng Chiến lược phát triển pháp luật là phương thức pháp quyền, hiến định với tư cách là phương thức văn minh nhất để thể hiện, thiết lập sự tương tác hài hoà của cá nhân và nhà nước trong xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền. Sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải dựa trên các nền tảng, cần phải tuân theo các nguyên tắc, được thể hiện trng các lĩnh vực pháp luật như thế nào là những vấn đề quan trọng cần phải được luận giải khi xây dựng Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Bài viết này tìm hiểu những vấn đề nêu trên nhằm góp phần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay.
1. Chiến lược phát triển pháp luật - phương thức giải quyết, tìm kiếm sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước
Trước hết cần nói rõ rằng, mối quan hệ của cá nhân và nhà nước là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong các quan hệ xã hội. Chiến lược phát triển đất nước nói chung, chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam nói riêng cần phải và có nhiệm vụ giải quyết mối quan hệ đó. Sự tương tác lẫn nhau của cá nhân và nhà nước là nội dung quan trọng trong mối quan hệ của cá nhân và nhà nước. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng phạm trù sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước với tư cách là sự biểu hiện, nội dung cụ thể của mối liên hệ, mối quan hệ của cá nhân và nhà nước, sự tôn trọng lẫn nhau, sự tương tác lẫn nhau về các quyền và các nghĩa vụ theo định hướng hài hoà hoá, với chủ định đưa vị trí cá nhân lên trước nhà nước trong sự tương tác đó. Tìm kiến sự hài hoà của cá nhân và nhà nước là thuật toán của mọi chiến lược phát triển, trong đó có chiến lược phát triển pháp luật.
Sự phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay được quyết định bởi tính chất của thời đại lịch sử cụ thể, bởi các nhu cầu và lợi ích của tất cả mọi người sống trong đất nước chúng ta. Tất cả những điều đó, trong khuôn khổ lý tưởng, được thể hiện trong các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước, có các phương thức thể hiện và đánh giá nhất định. Như lịch sử phát triển cho thấy, khắc phục các căn nguyên của xung đột xã hội, giải quyết tốt các xung đột xã hội là yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự phát triển xã hội tiến bộ, cho sự cũng cố quyền lực. Do đó, sự phát triển pháp luật Việt Nam không phải là sự phát triển theo tuyến tính và chỉ được chương trình hoá. Pháp luật được thể hiện dưới hình thức đạo luật, các quy phạm bắt buộc để thi hành chỉ có hiệu quả khi nó dựa trên nền tảng của chính sách phát triển đất nước nói chung, trong đó có chính sách xã hội ổn định và sáng suốt (anh minh). Sự tương phản giữa tầng lớp nghèo ít được bảo đảm về mặt xã hội với bộ phận giàu có nhất trong xã hội là rất lớn. Do đó, điều có ý nghĩa rất quan trọng là cần phải có các giải pháp nhận thức xã hội, sự tương tác lẫn nhau, sự điều chỉnh cân bằng, hoặc dù chỉ giành các điều kiện nền tảng sơ đẳng cho sự phát triển các cá nhân trong các bộ phận khác nhau của cơ thể xã hội.
Những biến đổi hiện nay trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và nhà nước đã và đang đặt ra nhu cầu, đòi hỏi phải có tư duy mang tính hệ thống về các quá trình đó. Trong quá trình phát triển, đặc biệt trong quá trình cải cách, đổi mới, chính pháp luật, các cơ sở học thuyết (lý luận) của nó, các cách tiếp cận đến nhận thức pháp luật, các phương thức xây dựng pháp luật, các cơ chế thực hiện pháp luật, trong đó có cơ chế áp dụng pháp luât, các phương thức và hình thức giáo dục, đào tạo pháp luật đã và đang được thay đổi. Chính việc pháp luật có được vị thế, các quy chế mới trong đời sống cá nhân, xã hội và nhà nước đã và đang khởi xướng, thúc đẩy việc làm sáng tỏ các đo lường giá trị, nguyên tắc của nó. Sự công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xác định sự tương tác hài hoà lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước. Quyền con người được nhận thức là giá trị cao nhất đã trở thành chất xúc tác pháp lý - xã hội cho quá trình chuyển động của xã hội Việt Nam đến với tự do và trách nhiệm, đến với sự tương tác mới lẫn nhau, đến với sự điều chỉnh pháp luật mới về sự tương tác lẫn nhau đó. Sự chuyển động đó cần phải đi theo hướng nào để thúc đẩy phát triển xã hội là vấn đề cần được luận giải. Do đó, trên cơ sở đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và đã, đang đem lại những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực khác nhau của phát triển xã hội, chúng tôi cho rằng, cần phải xây dựng chiến lược (các chiến lược) phát triển pháp luật dựa trên các nguyên tắc khoa học, công bằng, đạo đức, nhất quán, hệ thống, hợp lý, bao trùm, nhận thức được rõ ràng các mục tiêu trung gian, các mục tiêu dài hạn, kho tàng các phương tiện đã được kiểm chứng và được lập luận mang tính nhân đạo để đạt được các mục tiêu đó.
Tuy thế, quá trình xã hội, quá trình xây dựng nhà nước, quá trình đổi mới, cải cách, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước là rất phức tạp và nhiều khía cạnh, các quá trình đó không thể diễn ra một cách tự động, thụ động và theo một tuyến tính. Chính pháp luật cùng với các nền tảng, nguyên tắc đạo đức thực hiện sứ mệnh vĩ đại là cái điều chỉnh, điều phối, tích hợp các quá trình không đơn giản đó để thúc đẩy phát triển đất nước. Các nhà lãnh đạo, hoạt động chính trị, các nhà lãnh đạo, quản lý các quá trình đó về mặt nhà nước, nhưng các quá trình đó cần phải được thực hiện dưới những hình thức văn minh, dựa trên nền tảng pháp luật và với sự trợ giúp của pháp luật. Chỉ trong trường hợp như vậy mới có thể đạt được không chỉ các mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền và có ý nghĩa xã hội chung đối với tất cả hoặc đối với phần lớn nhân dân mà còn đạt được mục tiêu tuân theo các nền tảng nhân đạo, đạo đức trong phát triển nhà nước pháp quyền Việt Nam – nhà nước dựa trên tiềm năng sáng tạo và sức mạnh của nhân dân với tư cách là nguồn gốc của quyền lực. Nhưng phương thức thể hiện, mức độ tác động của nhân dân có thể rất khác nhau. Trong mối liên hệ đó, điều có ý nghĩa quan trọng là không chỉ khẳng định các quan điểm về thể chế quyền lực, hoàn thiện các mối quan hệ đại diện và phân công, kiềm chế, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước mà trước hết còn hình thành nên và tái sản xuất ra ý thức pháp luật và văn hoá pháp luật của tất cả các thành viên xã hội.
Không thể khắc phục được chủ nghĩa coi thường pháp luật chỉ bằng việc xây dựng và thực hiện học thuyết pháp luật quốc gia được lập luận về mặt khoa học, bao quát hết các tầng, các lớp của hệ tư tưởng pháp luật. Nhưng, nếu thiếu học thuyết đó, thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa coi thường pháp luật. Hơn nữa, thiếu nó thì không có cơ sở khoa học đầy đủ cho xây dựng và áp dụng pháp luật công bằng, đạo đức, sự tôn trọng pháp luật với tư cách là giá trị xã hội và sự tôn trọng lẫn nhau tiếp theo lấy ra từ đó của mọi người dựa trên nền tảng pháp luật, đạo đức. Con người Việt Nam đương đại đánh giá hiện thực “thông qua chính mình” và thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động của các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và trở thành người đại diện các giá trị tập thể và cá nhân. Niềm tin vào pháp luật, vào tính công bằng, tính đạo đức, sức mạnh mang tính chất công lý, tính tổng hợp và tính phổ quát của nó được sinh ra và được cũng cố, phát huy thông qua sự tiếp nhận của cá nhân về hiệu lực và hiệu quả của nó. Hiện nay, pháp luật đi vào ý thức của mọi người và được phản ánh trong tính chất hành vi của họ không chỉ thông qua hệ thống giáo dục pháp luật cần phải được xây dựng tốt hơn, mà còn từ “cuộc sống hàng ngày” mà ở đó mỗi người sống và đánh giá nó mang tính chất cá nhân. Ý nghĩa của pháp luật được hình thành trong tiến trình các chủ thể pháp luật khắc phục các khó khăn trong các tình huống cuộc sống trở thành nền tảng phát triển pháp luật chung, dựa trên trình độ giữa các thế hệ gắn liền với sự tồn tại văn minh. Do đó, việc tìm kiếm, tư duy lại, đổi mới tư duy, luận chứng các phương thức về sự tương tác lẫn nhau của pháp luật, các kênh biến đổi của các nhóm về mặt xã hội, việc cá nhân nhận thức được giá trị về vai trò cá nhân và vai trò xã hội của nó có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay khoa học pháp lý Việt Nam có nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là xây dựng chiến lược mang tính học thuyết về phát triển pháp luật Việt Nam và đó chức năng dự báo của nó được thể hiện. Ý nghĩa thực tiễn xã hội của nó thể hiện ở năng lực và kỹ năng làm sáng tỏ, xác định và tầm nhìn thấy trước tính chất của sự tương tác lẫn nhau, của trách nhiệm lẫn nhau và sự tôn trọng lẫn nhau của các chủ thể pháp luật - cá nhân và nhà nước.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, dù nhìn ở phương diện nào hay trong tổng thể các phương diện, là mối quan hệ trụ cột, cơ bản trong xã hội nói chung. Trong quá trình phát triển nhận thức về cá nhân và về nhà nước cũng được thay đổi và sự thay đổi đó gắn liền với các giá trị của các chủ thể đó, do vậy, mối quan hệ đó cũng biến đổi. Mối quan hệ đó thể hiện sự tương tác của cá nhân và nhà nước, được thiết lập trên những nền tảng và các nguyên tắc nhất định. Và những nền tảng và các nguyên tắc đó cần phải được thể hiện rõ nhất trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam.
Chiến lược phát triển pháp luật (các chiến lược pháp luật) đồng thời được quyết định bởi các yếu tố kinh tế - xã hội, tạo dựng, cũng cố, thúc đẩy hoặc cản trở, huỷ hoại sự ổn định, cũng như bởi các nền tảng đạo đức đã được ghi nhận, cũng cố trong đời sống xã hội và đời sống cá nhân. Nền kinh tế ở bên ngoài, không cân nhắc đến các nền tảng đạo đức, sự vận động của nền kinh tế không được bảo đảm bằng pháp luật thoả đáng, chính đáng là một hiện tượng ít được tiên lượng và nguy hiểm đối với tương lai ổn định của mọi đất nước. Cần phải nhấn mạnh và khẳng định điều đó, bởi vì, như lịch sử cho thấy, sự suy thoái của các nước phát triển là do sự giảm thiểu đến mức thấp nhất, sự biến dạng hoặc sự huỷ hoại các nền tảng đạo đức và các nguyên tắc đạo đức đã được thừa nhận chung. Pháp luật, được thể hiện với tư cách là tổng thể hay hệ thống các quy phạm, chỉ có hiệu lực, hiệu quả trong thời gian dài, và về mặt khách quan, đem lợi ích, phúc lợi đến với xã hội và cá nhân, nếu như nó dựa vào ý chí của đại đa số, còn tốt nhất của toàn thể nhân dân, tức là xuất phát từ các nhu cầu, lợi ích của nhân dân với tư cách là nguồn gốc của quyền lực. Ý chí của nhân dân với tư cách là nguồn gốc của quyền lực và ý chí của công dân không đồng nghĩa với nhau. Khi chúng ta nói về con người và nhà nước, về các nền tảng của sự tương tác lẫn nhau của chúng, chúng ta cần phải hình dung rõ ràng rằng, trong hoạt động của bộ máy nhà nước, trong sự biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, con người với tư cách là cá nhân có thể là “người bị mất mát”, “người bị bỏ rơi”, với tư cách là điểm khởi đầu, cá nhân sản xuất ra các lợi ích của mình, thực hiện các nhu cầu của mình. Nếu như nguồn gốc của quyền lực là nhân dân, thì con người và công dân là ai, và sự thể hiện, sự duy trì, sự tái sản xuất ra ý chí, quy chế, sự tự thực hiện của nó thể hiện ở đâu? Nếu như chủ thể của sự tiến bộ xã hội, một mặt, là nhân dân, còn mặt khác, là nhà nước với tư cách là bộ phận cơ bản của tổ chức chính trị của xã hội, thì khi đó địa vị của cá nhân trong quan hệ với nhà nước là như thế nào? “Cá nhân” được thể hiện thông qua “nhân dân” hay ngược lại? Bằng cách như thế nào nhà nước tác động đến cá nhân, nếu như nguồn gốc của quyền lực trong nhà nước, trong hệ thống chính trị được tổ chức một cách dân chủ là nhân dân? Và cuối cùng, trong điều kiện hiện nay các chủ thể như vậy của các quan hệ: “cá nhân” - “nhân dân” - “nhà nước” tương tác lẫn nhau bằng cách như thế nào, khi cân nhắc các quá trình toàn cầu hoá?
Cho dù nhấn mạnh đến tầm quan trọng và tập trung đến các điểm khởi đầu nổi bật của cá nhân thì cũng không thể phủ định được tư tưởng nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, của đại diện nhân dân, của chủ quyền nhân dân. Cá nhân không thể là nguồn gốc của quyền lực ngay cả khi đề cao thái quá các quan điểm cá nhân về vấn đề đó. Xã hội không thể khước từ chủ quyền nhân dân, không thể khước từ nhà nước pháp quyền dân chủ, công bằng, pháp quyền, xã hội, văn minh, đạo đức và vì quyền con người, bởi vì, chúng đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Chính ở đó có sự liên kết, hợp nhất nguyên tắc nhà nước mạnh và có năng lực, ổn định trong các nền tảng hiến định của mình và có khả năng tác động một cách có hiệu quả và bằng phương thức pháp quyền (pháp luật, pháp lý) đến tất cả các lĩnh vực của hiện thực xã hội, với nguyên tắc bảo đảm vững chắc quy chế hiến định của cá nhân, trong đó có khả năng đương đầu (đối trọng) một cách có hiệu quả và bằng phương thức pháp quyền (pháp luật, pháp lý) với các thiết chế nhà nước trong trường hợp các thiết chế đó can thiệp không hợp pháp vào lĩnh vực tự trị cá nhân của con người hoặc không thực hiện các trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước cá nhân. Định hướng này đã được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là phải cũng cố chính các nền tảng hiến định của nhà nước, chứ không phải làm cho nhà nước trở thành lực lượng cần thiết không bị hạn chế, không bị giám sát, kiểm soát. Trong quan hệ này, chúng ta cần hình dung về thuật ngữ “nhà nước mạnh” được sử dụng trong thời gian gần đây. Xuất hiện vấn đề: nhà nước mạnh ở đâu? các nền tảng của sức mạnh như vậy là như thế nào? “sức mạnh nhà nước” đó tác động đến việc thực hiện các quyền và tự do của con người và của công dân, và điều cơ bản là đến hiệu quả bảo đảm các quyền và tự do đó bằng cách như thế nào? Có lẽ chúng ta cần đến một “nhà nước khẻo mạnh, sáng suốt” - nhà nước luận chứng sức mạnh cưỡng chế của mình bằng việc dựa vào lợi ích tổng thể của công dân, dựa vào pháp luật. Cứ để cho và mong muốn nhà nước sẽ mạnh cả trong quan hệ thực hiện các nghĩa vụ tương ứng trước các công dân của mình, tích luỹ sức mạnh đó, là chủ thể hùng mạnh của quan hệ quốc tế, trên trường quốc tế.
Tất cả những điều phân tích trên cho thấy, chiến lược phát triển pháp luật là một phương thức giải quyết mối tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước. Đó là phương thức pháp quyền, đạo đức, văn minh trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Nền tảng của sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam
Chúng tôi cho rằng, nền tảng của sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải được dựa vào các luận điểm cơ bản sau đây.
Thứ nhất, sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải dựa vào học thuyết pháp luật quốc gia. Ở đây có mấy vấn đề được đặt ra cần trả lời: Chúng ta đã có học thuyết pháp luật quốc gia hay chưa? Chiến lược phát triển pháp luật có phải là sự thể hiện của học thuyết pháp luật quốc gia hay không? Chúng tôi cho rằng, cần phải xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển pháp luật quốc gia đúng nghĩa của nó. Học thuyết pháp luật quốc gia cần phải thể hiện sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước, hay nói cách khác, sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải dựa vào học thuyết pháp luật quốc gia. Học thuyết pháp luật quốc gia phải tính đến và thể hiện một cách tổng hợp, đầy đủ sự cần thiết, các nhu cầu, các lợi ích của tất cả các thành viên của xã hội và của chính nhà nước. Các nhu cầu, các lợi ích của xã hội (các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội), tất cả các thành viên của xã hội và của chính nhà nước đều có tầm quan trọng, ý nghĩa, giá trị như nhau, nếu không nói là các nhu cầu, các lợi ích của cá nhân cần phải được đặt lên hàng đầu. Học thuyết phát triển pháp luật Việt Nam là cần thiết, cấp bách, cần phải được xây dựng ở nghĩa như vậy. Học thuyết phát triển pháp luật Việt Nam phải là kết quả của sự nghiên cứu, soạn thảo và thảo luận một cách rộng rãi với việc cân nhắc các ý kiến, các quan điểm của các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau, nhưng phải phản ánh được các nền tảng pháp luật tự nhiên mang tính nguyên tắc về sự tương tác lẫn nhau của nhà nước và của tất cả những ai tạo thành nền tảng của nó - công dân.
Công dân tương tác lẫn nhau với nhà nước trong các vai trò xã hội và pháp luật khác nhau. Nhà nước, với tư cách thiết chế phục vụ, có công việc với các cá nhân. Trong phương diện như vậy có các quan hệ tồn tại một cách cơ bản dựa vào khế ước (sự thoả thuận). Nhà nước thể hiện ở đây với tư cách là người cung cấp các dịch vụ, thực hiện các công việc, còn con người cụ thể là người tiêu dùng các dịch vụ đó. Trong mọi phương án, trong mọi trường hợp, cả hai bên đều có các quyền và các nghĩa vụ lẫn nhau.
Trong điều kiện đương đại không được nhận thức, tiếp nhận nhà nước chỉ là hoặc đặc biệt là tổ chức quyền lực công - thứ quyền lực quan trọng, tất yếu, cần thiết, và là đặc điểm “chính thống” của nó. Nhà nước được hiện đại hoá, hậu công nghiệp và các phương án phát triển tiếp theo của nó có một số hình thức hoặc phương thức thể hiện, không giống nhau, không trùng hợp hoàn toàn với các chức năng của nó. Có thể giải thích một cách phức tạp về nhà nước phát triển đương đại thông qua sự đa dạng ngày càng gia tăng sự phức tạp hơn các chức năng của nó. Ở đây hoàn toàn rõ ràng rằng, nhà nước trong mọi trường hợp đều có các chức năng nhất định với tư cách là các định hướng hoạt động cơ bản của mình. Nhưng sự phân loại chức năng hiện nay hiệu quả nhất nếu xuất phát từ sự thay đổi quy chế, vị thế của nhà nước trong điều kiện xã hội no đầy thông tin, được định hướng về mặt xã hội - xã hội được phân chia theo mức độ thu nhập và thuộc tính nghề nghiệp. Đó là xã hội, khi sản xuất ra nhà nước, đồng thời gắn liền với nhận thức chung về ý nghĩa của pháp luật, của điều chỉnh pháp luật, với vai trò giống nhau của các văn bản quy phạm pháp luật đối với tất cả, về mặt lý tưởng, là tất nhiên.
Khi thừa nhận sự phân hoá nghề nghiệp - xã hội, sự phân hoá tài sản, và ngay cả sự khác nhau của “các đòi hỏi, thỉnh cầu xuất phát”, nhà nước và xã hội phải tìm kiếm và xác lập các hình thức hoà hợp và cân bằng tối ưu lẫn nhau được thể hiện về mặt xã hội, có nền tảng kinh tế khoẻ mạnh, phát triển, đồng hành cùng các định hướng đạo đức, nhân đạo và được ghi nhận về mặt pháp lý. Tình trạng thiếu sự hài hoà tương ứng sẽ dẫn đến sự căng thẳng xã hội, các biến dạng trong các lĩnh vực khác nhau của tổ chức xã hội về mặt nhà nước.
Sự phân công quyền lực trong nhà nước, về nguyên tắc, không ảnh hưởng đến hoạt động của nó với tư cách là một thiết chế của quan hệ hợp đồng trong quan hệ với các công dân. Hơn nữa, hiện nay có các quan điểm khác nhau về số lượng các lĩnh vực, phạm vi, nhánh quyền lực, số lượng các quyền lực càng lớn, tương ứng sẽ tác động đến mối tương quan của chúng. Nhưng sự phân công quyền lực là cần thiết không chỉ với tư cách một giá trị lịch sử, được thể hiện ban đầu ở phương Tây và được lấy ra từ học thuyết của J.locke và Kh.S. Montesquieu. Quan hệ pháp luật công giữa nhà nước và công dân chỉ ra rằng, sự phân công quyền lực, nếu như điều đó tất nhiên không phải sự là sự bắt chước về sự tương tác quyền lực lẫn nhau, cho phép tương tác để tìm kiếm được không gian của tự do chính trị, là điều kiện bảo đảm để tránh được sự chuyên quyền, lạm quyền, bạo lực, chuyên chế.
Sự tham gia các cuộc bầu cử để thiết lập nên các cơ quan đại diện quyền lực ở các cấp độ khác nhau, tất nhiên, nếu như các cuộc bầu cử đó được tiến hành một cách dân chủ, công khai, tự do, dựa trên các nền tảng pháp luật nghiêm ngặt, với sự tham gia của các chuyên gia độc lập cùng với các cơ quan quyền lực nhà nước, là sự thể hiện và khẳng định quyền tác động thiết lập đến một trong các cơ quan quyền lực nhà nước, hợp pháp hoá các thẩm quyền của các cá nhân cụ thể cho các thiết chế quyền lực nhất định. Tuy vậy, các thiết chế đó - các thiết chế đại diện, các cơ quan xây dựng pháp luật tương tác lẫn nhau sau đó với các thiết chế khác không có ý nghĩa nhiều hơn. Ở đây cần lưu ý rằng, hệ thống Toà án ở nước ta được hình thành không có sự tham gia trực tiếp của nhân dân. Chủ tịch nước cũng không do nhân dân bầu trực tiếp. Các cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng không chịu sự tác động ý chí của nhân dân bằng bất cứ phương thức nào, ngoài sự tác động mang tính chất trung chuyển thông qua các cơ quan đại diện quyền lực cao nhất (Quốc hội) và chế định Chủ tịch nước, chứ chưa nói về sự thể hiện chí cá nhân của các công dân. Do đó, hoàn toàn được luận chứng khi khẳng định ở Điều 86 Hiến pháp năm 2013 rằng, “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”(1). Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung quy định về vai trò, vị trí của Chủ tịch nước trong cơ chế quyền lực nhà nước theo hướng: Chủ tịch nước là người bảo đảm thực thi Hiến pháp, các quyền, tự do của con người và công dân, ban hành các biện pháp bảo đảm chủ quyền của Việt Nam, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm sự hoạt động hài hoà và sự tương tác lẫn nhau của các cơ quan quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền thiết lập ở mức độ toàn quốc bằng cách thông qua Hiến pháp, bầu các đại biểu Quốc hội. Có khả năng có cả các trường hợp khác của sự thể hiện trực tiếp ý chí của nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đời sống nhà nước, đời sống xã hội. Ở đây chúng tôi muốn nói đến quyền trưng cầu ý dân với tư cách là sự thực thi dân chủ trực tiếp chỉ thuộc về nhân dân. Điều 29 Hiến pháp quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”(2). Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định trưng cầu ý dân (Điều 70 Hiến pháp năm 2013)(3). Uỷ ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức trưng cầu dân theo quyết định của Quốc hội (Điều 74 Hiến pháp năm 2013)(4). Trong điều kiện tổ chức quyền lực mang tính dân chủ, đó là quyền không thể bị tước đoạt của nhân dân.
Thứ hai, sự tương tác lẫn nhau của cá nhân và nhà nước có cấu phần tư tưởng và được thể hiện bằng các khái niệm “đoàn kết”, “đồng thuận”.
Điều đó có nghĩa rằng, sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải dựa vào hệ tư tưởng nhất định. Hệ tư tưởng là tất yếu, là cần thiết với tư cách là một trong những hạt nhân quan trọng nhất của sự phát triển. Các hàng giá trị của hệ tư tưởng là định hướng rõ ràng và là tiêu chuẩn về tính đúng đắn của hoạt động quyền lực trong mối tương quan với các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước. Vấn đề về hệ tư tưởng pháp luật chưa được nghiên cứu, bàn luận với tư cách là một vấn đề độc lập, quan trọng trong sách báo pháp lý nước ta. Về vấn đề này, chúng tôi đã đề cập trong công trình “Chính sách pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”(5). Hiện nay, theo chúng tôi, ở nước ta đang thiếu vắng một hệ tư tưởng pháp luật rõ ràng, được mọi người tiếp nhận, chia sẽ, đồng thuận và ủng hộ. Do đó, còn nhiều điều cần phải làm trong lĩnh vực này. Hệ tư tưởng pháp luật gắn liền mang tính chất giá trị với các cội nguồn văn hoá xã hội sâu xa của xã hội và đồng thời kết nối, hợp nhất, tích hợp trong mình các định hướng mục tiêu có thể chấp nhận được, có ý nghĩa và được mong đợi, khát vọng. Ở phương diện như vậy, hệ tư tưởng pháp luật không thể là tuỳ tiện, do ai đó nghĩ ra, do ai đó áp đặt chỉ để nó có vị trí với tư cách là một sự kiện của hiện thực pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật không thể là hệ tư tưởng pháp luật bàng quang, hững hờ đối với hệ thống pháp luật Việt Nam mà chứa đầy yếu tố truyền thống của nó. Nó tuỳ thuộc vào cơ cấu giai cấp - xã hội, các truyền thống văn hoá, dân tộc, bởi vì, không tồn tại các xã hội thuần nhất tuyệt đối. Hệ tư tưởng của người chủ sở hữu, của người lao động làm công ăn lương, của những người đại diện cho các nhóm xã hội - nghề nghiệp khác nhau không thể là như nhau và không thể là như vậy.
Hệ tư tưởng pháp luật phải chứa đựng mức độ giống nhau các tư tưởng, các quan điểm, các lý tưởng, các nguyên tắc, các giá trị chung. Nhưng, pháp luật, theo ý nghĩa, tư tưởng, tinh thần của Hiến pháp Việt Nam, nếu chưa rõ thì cũng cần phải hiểu là như vậy, là giá trị xã hội thống nhất. Theo Hiến pháp, con người, các quyền và tự do của con người là giá trị cao nhất. Công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền và tự do của con người và công dân là nghĩa vụ của Nhà nước. Các giá trị đó được ghi nhận, thể hiện một cách đơn nhất, dứt khoát và có quyền ưu tiên đứng trước.
Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được thể hiện tại Điều 15 Hiến pháp Việt Nam năm 2013, theo Điều luật đó:
1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
3. Công dân có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác(6).
Nguyên tắc về sự tương tác hài hoà lẫn nhau của các công dân với nhau và với nhà nước cũng được xác định. Theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Nhà nước bảo đảm sự bình đẳng các quyền và tự do của con người, của công dân không tuỳ thuộc vào giới tính, chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, địa vị tài sản và xã hội, nơi ở, thái độ đối với tôn giáo, tín ngưỡng, sự lệ thuộc vào các liên minh xã hội cũng như các tình tiết khác. Nghiêm cấm mọi hình thức hạn chế các quyền công dân theo sự lệ thuộc về các dấu hiệu xã hội, chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo, tính ngưỡng. Các lý tưởng và nguyên tắc pháp luật cơ bản, cốt lõi đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Điều 16 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định:
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sư, kinh tế, văn hoá, xã hội(7).
Sự hình thành hệ tư tưởng pháp luật không thể tách rời với các luận điểm mang tính hiến định. Nhưng đời sống, trong đó có đời sống pháp luật, bao giờ cũng rộng hơn mọi sự ghi nhận, ngay cả các ghi nhận quan trọng nhất các nguyên tắc và lý tưởng, các nền tảng giá trị. Không thể diễn ra sự hình hành hệ tư tưởng pháp luật mới về nguyên tắc. Đồng thời trong hệ tư tưởng pháp luật có cả tính phân đoạn, tính không diễn cảm, tính không rõ ràng. Nhưng ở đây chúng ta có công việc với sự tương quan của hai điểm khởi đầu: một mặt, điểm khởi đầu pháp lý nhà nước, có khả năng và chắc chắn có nhiệm vụ xây dựng các mô hình, các hình thức, các bộ phận cấu thành hoàn thiện của hệ tư tưởng pháp luật, và mặt khác, điểm khởi đầu cá nhân, đôi lúc bàng quang một cách vô tư đối với hệ tư tưởng pháp luật và các biểu tượng của nó. Cá nhân mong muốn nhận thức được rằng, xã hội, và điều đó có nghĩa là chính anh ta có được hệ tư tưởng pháp luật, phản ánh được các lý tưởng công bằng, bình đẳng trước đạo luật, trước toà án, và như vậy, hệ tư tưởng đó phù hợp với sứ mệnh nhân đạo cao nhất của con người.
Ngoài ra, cá nhân mong muốn vững lòng tin rằng, thứ nhất, cá nhân có các quyền, thứ hai, các quyền đó được bảo đảm không chỉ bằng các phương tiện pháp lý mà còn bằng các bảo đảm về chính trị - pháp lý và kinh tế - xã hội, thứ ba, khi có các quyền và bằng phương thức pháp lý đã được ghi nhận, về mặt hiện thực, cá nhân có thể thực hiện được các quyền của mình. Sự thống nhất của công bằng, bình đẳng, sự tôn trọng lẫn nhau được thể hiện ở mức độ riêng biệt và ở mức độ xã hội là điều kiện để khẳng định tính cần thiết và thừa nhận chúng.
Như vậy, hệ tư tưởng pháp luật là điều kiện rất quan trọng để xây dựng và tái sản xuất ra các quan hệ đối tác. Quan hệ giữa cá nhân và nhà nước là một loại quan hệ đối tác. Hệ tư tưởng ghi nhận ở trình độ thức pháp luật xã hội các quan hệ công bằng, bình đẳng, dân chủ hoặc không ghi nhận chúng, và nếu như không ghi nhận các giá trị đó, thì lúc đó hệ tư tưởng pháp luật không thực hiện sứ mệnh của hệ thống hệ tư tưởng mang tính chất xây dựng của mình.
Thứ ba, tính chất của sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước ở mức độ chính trị được thực hiện với tư cách là sự thống nhất.
Điều này nói về sự thống nhất về mặt chính trị trong sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước. Đó là sự thống nhất của đất nước, quốc gia, dân tộc, cộng đồng xã hội, sự thống nhất về mặt lịch sử và được nhà nước bảo đảm vận hành, và theo thực chất, gắn liền với các dấu hiệu của nó, đặc biệt với dấu hiệu tổ chức quyền lực nhà nước công, được thể hiện về mặt cá nhân hoặc tập thể. “Quyền lực nhà nước, nhà nước thực hiện vai trò trọng tài trong xã hội, điều chỉnh ở đó các quan hệ giữa các giai cấp và các tầng lớp (cũng như giữa các tổ chức của chúng) để sự cạnh tranh và các mâu thuẫn của chúng được giải quyết bằng con đường hoà bình, thông qua các hình thức pháp lý văn minh và không dẫn đến các hoạt động mang tính chất bạo lực, và cuối cùng, đến sự vô chính phủ và sụp đổ xã hội”(8). Phòng ngừa sự phi liên kết, sự không phối hợp, sự không hợp tác để bảo đảm tính vững chắc về mặt xã hội của quyền lực nhà nước, và đến lượt mình, quyền lực nhà nước đó thực hiện được sự thống nhất về mặt chính trị, điều đó là rất cần thiết cho các quan hệ đối tác, hợp tác về mặt pháp luật và là điều kiện của nó. Nhà nước là sức mạnh chủ yếu bảo đảm sự thống nhất, nhưng các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội cũng tham gia bảo đảm sự thống nhất đó. Nhà nước trong trường hợp này thể hiện là tổ chức của các quan hệ yêu nước, có lịch sử thống nhất, với tư cách là sự thể hiện hiện nay về mặt lịch sử. Ở đây các biểu tượng và các bản tính đồng nhất hoá, thống nhất hoá nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Không thể có được các quan hệ đối tác, hợp tác pháp luật ở bên ngoài sự bảo đảm thống nhất về chính trị. Tư tưởng về dân tộc, quốc gia với tư cách là cộng đồng chính trị là tư tưởng thống nhất cộng đồng, có một trong những biểu hiện tích cực là tư tưởng về các mối quan hệ đối tác, hợp tác pháp luật - xã hội. Trạng thái của hệ thống xã hội là lý tưởng, còn trạng thái của hệ thống pháp luật được đặc trưng bởi sự thống nhất và tính chỉnh thể. Ở phương diện như vậy, sự hợp tác về mặt pháp lý - xã hội có mức độ thể hiện cao nhất về mặt hiệu quả.
Thứ tư, sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước ở mức độ xã hội được thực hiện với tư cách là sự phối hợp.
Điều này nói về sự thống nhất về mặt xã hội trong sự tương tác của cá nhân và nhà nước. Xã hội, như mọi người đã biết, là rất phức tạp. Các công nghệ hiện đại về sự tương tác lẫn nhau của các cá nhân cũng không thay đổi được bản chất các mối quan hệ của con người, không đơn giản hoá được khuôn khổ tương tác lẫn nhau giữa các cá nhân. Các công nghệ hiện đại, trước hết, các công nghệ thông tin đòi hỏi phải hoàn thiện các hình thức tương tác lẫn nhau, cùng với các khía cạnh tích cực, làm phát sinh sự tước đoạt lẫn nhau dựa trên sự làm tối thiểu hoá, đôi khi sự thiếu vắng các giao tiếp cá nhân.
Sự phối hợp về mặt xã hội được khách quan hoá với tư cách là điều kiện hình thành các hình thức quan hệ tương tác tối ưu, với tư cách là công cụ thực hiện các trao đổi xã hội, bảo đảm tính vận động đa dạng của trao đổi thông tin, các dịch vụ, các công nghệ. Sự phối hợp nhất định về mặt xã hội cũng là điều kiện để thực hiện sự hợp tác, sự cùng chơi về mặt pháp lý - xã hội. Sự hợp tác, sự cùng chơi đó được hiểu không chỉ là quan niệm mà còn là cơ chế pháp lý - xã hội có khả năng tạo ra các tiền đề, điều kiện cho các hoạt động phối hợp của các chủ thể khác nhau, làm giảm thiểu tối đa các hoạt động khác nhau theo định hướng của chúng.
Thứ năm, phương diện pháp lý riêng có của các quan hệ tương tác của cá nhân và nhà nước trong xã hội dân chủ pháp quyền dựa trên trình độ văn hoá pháp luật và ý thức pháp luật cao, được đặc trưng bởi hệ thống trách nhiệm lẫn nhau của cá nhân, xã hội và nhà nước.
Điều này nói về nền tảng văn hoá pháp luật, ý thức pháp luật, hệ thống trách nhiệm lẫn nhau của cá nhân, xã hội và nhà nước. Một công thức hoàn toàn theo thói quen và hiển nhiên có được quy chế tồn tại, đó là “sự chấp thuận về pháp luật”, “sự phối hợp về pháp luật”, “sự liên kết (đoàn kết, cố kết) về pháp luật”.
Trong điều kiện đương đại, cũng như trước đây, thực hiện sự hài hoà trong lĩnh vực giữa cá nhân và nhà nước đòi hỏi phải có chương trình tương ứng, các khả năng kinh tế và các cơ chế nhất định. Nhưng, như chúng ta hình dung, chính cách tiếp cận đó, cách tiếp cận phát triển và kích thích đối với các quan hệ xã hội cụ thể, dường như, cho phép thực hiện các chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam. Nhà nước ở một trong các biểu hiện của nó là hệ thống các mối liên hệ hành chính - cưỡng chế rất phức tạp và thể hiện với tư cách là bộ máy tổ chức quyền lực công, cần phải được giám sát, kiểm soát. Chính vì vậy, tất cả các lập luận về ý nghĩa của các tổ chức phi nhà nước chỉ có ý nghĩa khi các lập luận đó khẳng định các tổ chức phi nhà nước cần phải tham gia vào sự giám sát, kiểm soát đó.
Sự cân bằng các quyền và các nghĩa vụ về mặt giá trị và đã được biết đến từ lâu trong các quan hệ giữa các chủ thể khác nhau của các quan hệ xã hội, được ngoại suy đến sự cân bằng có không ít ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước và các tổ chức phi nhà nước. Vấn đề nhà nước không thực hiện các nghĩa vụ của mình trước công dân cũng quan trọng như vấn đề công dân không thực hiện hoặc lẩn tránh thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước. Trong mọi phương án, trong mọi trường hợp, vấn đề quan hệ đối tác về mặt pháp lý xã hội mà ở đó các nguyên tắc đạo đức và các nền tảng pháp luật của sự tương tác lẫn nhau của con người và nhà nước được cấp thiết hoá trong các quan điểm nền tảng, làm phát sinh hoặc có thể sản xuất ra sự tin tưởng lẫn nhau của chúng.
Trong điều kiện đương đại, sự hình thành và tái sản xuất các quan hệ đối tác tin tưởng giữa nhà nước và con người với việc cân nhắc các hiện thực, tính phức tạp, diễn biến của các biến đổi, cải cách xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì thế nhà nước không chỉ không có quyền can thiệp vào lĩnh vực không gian cá nhân, nhưng trước hết, và trên hết, không có các hoạt động khiếm nhã từ phía mình khi ban hành và thực hiện các quyết định quan trọng nhất, khi tiến hành các cuộc vận động chính trị, các cuộc cải cách kinh tế, các chương trình xã hội.
Về mặt hiện thực, Việt Nam đã sử dụng kinh nghiệm nhất định đã được quốc tế tích luỹ được trong phát triển các quyền và tự do của cá nhân. Tư tưởng phân công quyền lực được phản ánh trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, sự thừa nhận tính tối thượng của pháp luật (tính tối thượng của đạo luật), việc soạn thảo các cơ chế giám sát, kiểm soát xã hội, sự hình thành các thiết chế của người dân và nhiều điều kiện cần thiết khác của sự tiến bộ pháp luật và chính trị tiếp giáp, đi cùng với các truyền thống và các đặc điểm văn hoá lịch sử, với hiện thực Việt Nam.
“Khái niệm về chế độ cuộc sống tốt đẹp nhất của con người được soạn thảo bởi ý thức chung của xã hội loài người. Chính các tư tưởng và các hình thức cuộc sống xuất hiện ở một dân tộc, một quốc gia, được kiểm chứng bởi các dân tộc, quốc gia khác; mỗi dân tộc, quốc gia là ví dụ và kinh nghiệm cho các dân tộc, quốc gia khác. Chính các đặc điểm được lấy ra từ tinh thần dân tộc, tinh thần nhân dân và từ sự đa dạng về các điều kiện lịch sử cho thấy rõ mức độ phát triển và sự gần gủi nhiều hay ít với trật tự mang tính lý tưởng được nhận thức với tư cách là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển tổng thể. Nhân dân có thể trân quý, giữ gìn các đặc điểm đó hoặc có thể quy phục, cam chịu các đặc điểm đó; nhưng dẫu sao các đặc điểm đó, chứ không phải là lý tưởng, sự thay đổi loại hình, chứ không phải là bản chất, và chính dân tộc (nhân dân) kết tụ lại trong chúng, khi khước từ các khát vọng mang tính lý tưởng, thông qua điều đó mất đi động lực sức mạnh của sự phát triển. Nhân dân định trước cho mình đến với cuộc sống cổ hữu trong lĩnh vực bị hạn chế, thiếu tất cả những điều nâng tinh thần lên và đem cuộc sống đến với các quan hệ xã hội. Khát vọng đến với lý tưởng là yếu tố chung của xã hội loài người trong phát triển; chỉ có khát vọng mới đưa nhân dân ra khỏi tính hạn chế và làm cho nhân dân trở thành cơ quan và công cụ của tinh thần toàn thế giới. Ở đó thể hiện sứ mệnh cao nhất của nó”(9).
Vấn đề xác định và lựa chọn mô hình phát triển và tái sản xuất phát triển xã hội và phát triển nhà nước đã được Đảng, nhà nước và nhân dân ta lựa chọn trong quá trình tiến hành cách mạng, đặc biệt trong quá trình đổi mới ở nước ta. Mô hình đó đã được ghi nhận và thể hiện trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Hiến pháp Việt Nam năm 2913.
Trong quá trình đổi mới, pháp luật có được các đặc điểm văn minh, cho dù bản chất của pháp luật, ý nghĩa sâu sắc và sứ mệnh của nó không thay đổi. Chẳng hạn, hơn một trăm năm về trước, B.N. Chicherin đã diễn đạt định mệnh của pháp luật như sau: “Pháp luật là gì? Điều đó, như mọi người đã rõ, được nhận thức ở ý nghĩa hai mặt của nó: ý nghĩa chủ quan và ý nghĩa khách quan. Pháp luật chủ quan được xác định là khả năng đạo đức, hoặc nói cách khác, là tự do hợp pháp làm hoặc đòi hỏi cái gì đó. Pháp luật khách quan là chính đạo luật xác định tự do đó. Kết hợp hai ý nghĩa đó đem đến cho chúng ta định nghĩa chung: pháp luật là tự do được xác định bởi đạo luật. Và ở nghĩa đó, và ở nghĩa khác, không chỉ nói về tự do bên ngoài, được biểu hiện trong các hành động, mà còn về tự do bên trong của ý chí; do đó, có thể nói một cách đầy đủ hơn và chính xác hơn rằng, pháp luật là tự do bên ngoài của con người, được xác định bởi đạo luật chung”(10).
Chính nhà nước pháp quyền được khởi đầu với việc khẳng định vai trò và vị trí của pháp luật với tư cách là cái điều chỉnh giá trị hiện thực các quan hệ xã hội. Tuy vậy, pháp luật trong lịch sử Việt Nam đã không thực hiện và không thể thực hiện vai trò của giá trị xã hội hiện thực do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết, do thiếu vắng ý nghĩa của nó nằm sâu trong cơ thể xã hội và ý thức của mọi người với tư cách là cái điều chỉnh tổng hợp và về mặt lý tưởng là cái điều chỉnh công bằng (hoặc thỉnh cầu đến điều đó). Ý nghĩa và phổ biến giá trị của pháp luật trong các quy mô rộng lớn được những người đại diện pháp luật - các cá nhân thực hiện.
Trong mọi phương án, trong mọi trường hợp, pháp luật, thái độ đối với pháp luật từ phía quyền lực là tiêu chuẩn đặc thù về sự bình yên, hạnh phúc và sức khoẻ của xã hội. Giá trị của pháp luật, với tư cách là tổng thể các quy phạm bắt buộc do nhà nước xác lập và bảo đảm, được gia tăng trong điều kiện xã hội thông tin, hậu công nghiệp, hiện đại hoá, đổi mới sáng tạo. Nói cách khác, vai trò của đạo luật, của điều chỉnh pháp luật, của sự vận động của các cơ chế pháp lý khác nhau được gia tăng. Vì sao diễn ra như vậy?
Xã hội thông tin tạo ra các điều kiện để hình thành nên các phong cách và các phương thức mới của các quan hệ lẫn nhau giữa mọi người. Một mặt, thông tin ngày càng trở nên dễ tiếp cận hơn đối với mỗi cá nhân, tốc độ truyền tin đến những người mang thông tin là rất lớn, sự chuyển tải thông tin đến một nhóm người không xác định cũng diễn ra rất năng động. Hình thành nên hiệu quả tâm lý – xã hội mới “tất cả hiểu biết của tất cả mọi người về tất cả mọi người”. Ở đây chính sự hiện có thông tin ở cá nhân, về mặt thực tế, không tác động đến sự quản lý thông tin từ phía cá nhân đó. Thông tin trong mạng lưới Internet, trên truyền hình đã trở thành một bộ phận của lối sống mọi người đắm chìm trong các công việc hàng ngày của mình và giải quyết các nhiệm vụ của cá nhân.
Thông tin và xã hội thông tin tương ứng không khắc phục được tính khép kín, tính tự trị bên trong của các không gian cá nhân, của chủ nghĩa cá nhân, của tính tách rời lẫn nhau, và có thể, tính tước đoạt của nhau và của các thiết chế quyền lực, của các cơ cấu nhà nước. Trong chiến lược phát triển pháp luật các nền tảng pháp luật của xã hội thông tin có ý nghĩa đặc biệt, và vấn đề này chưa được khoa học pháp lý nước ta giải quyết. Một khối lượng lớn Internet - thông tin chưa được pháp luật điều chỉnh đầy đủ.
Xã hội công nghiệp, hậu công nghiệp do chính con người sinh ra, không thay đổi bản chất, các nền tảng sinh học, sinh lý và đạo đức của nó, cũng hình thành nên môi trường mới, khi đó không phải sự hợp nhất của người lao động và quá trình sản xuất tạo ra sự gia tăng tư bản (vốn), mà diễn ra sự hợp nhất các thẩm quyền của người lao động với các nhân tố kỹ thuật. Do đó, sự gia tăng tư bản (vốn) trong điều kiện đương đại có các hình thức bí quyết mới. Xã hội được tổ chức dựa vào các điểm khởi đầu hậu công nghiệp sử dụng các khả năng tổ chức - điều phối, trung chuyển, trao đổi, tác nghiệp của xã hội hậu công nghiệp hiện đại. Sức mạnh và sự thông minh của sự tổ chức như vậy, trong kết hợp với chính sách xã hội nhất quán và được thực hiện một cách rõ ràng, được sự ủng hộ của những người ít được bảo đảm, không thành đạt trong kinh doanh sẽ bảo đảm tính vững chắc, ổn định của quyền lực và giảm thiểu tối đa tính xung đột. Do đó, trong chiến lược phát triển pháp luật cần phải cân nhắc tính tiềm ẩn gia tăng của các quan hệ của người làm công ăn lương và người chủ lao động. Điều đó đòi hỏi phải đề cao vai trò của pháp luật lao động nói riêng và pháp luật trong lĩnh vực xã hội nói chung.
Xã hội thông tin đòi hỏi phải có sự phát triển vượt trước các định hướng ưu tiên của khoa học, công nghệ và áp dụng các kết quả nhiên cứu của chúng vì lợi ích của con người. Đổi mới sáng tạo đòi hỏi phải có các đặc điểm về chất của xã hội, và các đặc điểm đó thể hiện ở việc áp dụng với mức độ cao nhất các kết quả nghiên cứu khoa học mới, công nghệ mới và thực hiện có hiệu quả các kết quả đó trên thị trường. Lĩnh vực phát triển khoa học - công nghệ là lĩnh vực có khả năng cạnh tranh để có được sự tổ chức sản xuất có lợi nhuận cao và các lĩnh vực dịch vụ.
Kinh nghiệm thực nghiệm và áp dụng các mô hình phát triển hiện đại của các nước khác nhau là rất rộng lớn. Chẳng hạn, ở các nước tây Âu vào nữa sau thế kỷ XX đã xây dựng và áp dụng các quan niệm dân chủ xã hội về nhà nước vào cuộc sống và các quan niệm đó đã cho phép đẩy nhanh sự phát triển sáng tạo chúng. Các quan niệm đó điều chỉnh các quan hệ lẫn nhau trong các lĩnh vực cơ bản của không gian công, làm cho nó trở nên công khai đối với đổi mới sáng tạo xã hội và đổi mới công nghệ và điều đó ở mức độ đầy đủ tạo điều kiện cho việc tự thực hiện của con người đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, các quá trình xã hội do các nhân tố khách quan của liên kết và toàn cầu hoá sinh ra trở nên phức tạp hơn. Tương ứng cả các quan hệ trong hệ thống “cá nhân - xã hội - nhà nước” (cùng với các quan hệ “cá nhân - nhân dân - nhà nước) không thể không thay đổi. Do đó, trong mọi phương án phát triển pháp luật và nhà nước, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển pháp luật, điều cơ bản, cốt lõi là sự hướng đến con người, đến chính giá trị cá nhân của nó. Trong các mối quan hệ lẫn nhau của con người, nhà nước và pháp luật, việc thực hiện và nói chung sự hiện diện các khái niệm “công lý”, “công bằng”, “lẽ phải” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà nước được tổ chức và vận hành dựa vào pháp luật có khả năng hiện thực hoá được các khái niệm đó cả ở phương diện lý luận lẫn ở phương diện thực tiễn. Chính pháp luật, bởi vì, trong nền tảng nhân đạo của mình, nó dựa vào đạo đức, sản xuất ra hoặc có khả năng sản xuất ra các khởi điểm công bằng. Pháp luật sản xuất ra công bằng lẫn các hình thức bảo vệ công bằng, tái sản xuất ra theo sự cần thiết các quan hệ cưỡng chế. Và các quan hệ của con người và các thiết chế quyền lực, của quản lý, của phục tùng được hình thành trong sự hợp nhất của các khởi điểm (cơ sở) pháp luật và các khởi điểm riêng có của nhà nước (các khởi điểm tổ chức, bộ máy, đại diện và các khởi điểm khác). “Nhà nước không phải là liên minh đạo đức, cũng không phải là giáo hội, mà là liên minh cưỡng chế, không phải là sự hy sinh thân mình, sự hy sinh theo thực chất của mình là tự nguyện, mà là pháp luật. Điểm khởi đầu cơ bản của pháp luật là lẽ phải hoặc công bằng, công bằng trong phụ ngữ với các liên minh xã hội, thể hiện sự phân chia như nhau cả các gánh nặng xã hội lẫn các lợi ích giành cho các thành viên đối với các phương tiện chung”(11).
Đạt được sự công bằng, cũng như đạt được sự phồn vinh, phúc lợi của con người nói chung là rất quan trọng đối với tất cả các loại chiến lược phát triển xã hội và phát triển nhà nước dựa trên các nền tảng nhân đạo. Ở đây hoàn toàn có khả năng rằng, việc không đạt được các mục tiêu đáp ứng các sự thiết yếu, các nhu cầu và các lợi ích của con người trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, đạo đức sẽ trở thành chướng ngại vật, lực cản để thực hiện các mục tiêu tương tự trong lĩnh vực phát triển pháp luật và ngược lại. Ở nghĩa này, cần phải có hệ thống các định hướng, các chương trình mục tiêu và các hoạt động mang tính chiến lược để xác định sự phát triển pháp luật thành công của xã hội.
Trong mỗi lĩnh vực pháp luật, ngành pháp luật, trong áp dụng pháp luật có rất nhiều nhiệm vụ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự đó là giảm thiểu đến mức tối đa các tội phạm tham nhũng, các tội phạm về ma tuý, các tội phạm xâm phạm cá nhân. Các nhiệm vụ đó là rất cấp bách và gắn liền với khái niệm “chiến lược phát triển pháp luật”.
“Chiến lược phát triển pháp luật” với tư cách là khái niệm có mối tương quan với khái niệm “chính sách quốc gia trong lĩnh vực pháp luật”, “chính sách pháp luật”. Tuy vậy, các khái niệm đó có sự khác biệt mang tính nguyên tắc. “Chính sách quốc gia trong lĩnh vực pháp luật” (nhận thức với tư cách là hoạt động) – đó là một loại hoạt động của nhà nước định hướng đến việc xây dựng và tái sản xuất ra các điều kiện để phát triển pháp luật vì lợi ích của cá nhân, xã hội nhà nước. “Chính sách pháp luật” được định nghĩa thông qua phạm trù hoạt động, là hoạt động mang tính hệ thống, có cơ sở khoa học, dựa trên pháp luật, được thực hiện trong lĩnh vực pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các thiết chế xã hội, các công dân thực hiện, nhằm duy trì và tái sản xuất ra các giá trị pháp luật. Chính sách pháp luật có tính chất công, năng động, có tính hướng đích, ổn định và có kế hoạch. Chính sách pháp luật ở bên ngoài con người, ở bên ngoài các lợi ích của nó, cũng như ở bên ngoài các lợi ích liên kết của các cộng đồng và các tập thể mọi người không có nội dung nhân đạo, chẳng lẽ, lại có quyền tồn tại. Cuối cùng, chính sách pháp luật không có định hướng phát triển chính giá trị con người sẽ dẫn đến chế độ chuyên chế hoặc sự độc chiếm của các thẩm quyền và các chức năng pháp lý - quyền lực của một nhóm người. Chính vì vậy mà khi xây dựng các quy chế pháp lý này hay các quy chế pháp lý khác của cá nhân nhà làm luật cần phải tuân thủ các quy phạm và tiêu chuẩn pháp lý quốc tế đã được hình thành về mặt lịch sử.
Khái niệm “chiến lược” không phải là một khái niệm pháp luật, trước hết, nó được sử dụng trong lĩnh vực quân sự, trong khoa học quân sự. Đó là khái niệm gắn liền với việc thực hiện các tác nghiệp, các hoạt động của quân đội có quy mô rộng lớn. Tiếp theo, khái niệm chiến lược được sử dụng trong các lĩnh vực hoạt động khác của con người. Hình thức tổ chức các tương tác lẫn nhau của con người, cân nhắc một cách tối đa các khả năng, các viễn cảnh, các phương tiện hoạt động của các chủ thể, các vấn đề, các khó khăn, các xung đột cản trở việc thực hiện sự tương tác lẫn nhau được xác định là khái niệm chiến lược(12). Ở đây sự quan tâm là hướng đến hình thức tổ chức các tương tác của con người, điều đó khẳng định tính cấp thiết của sự phối hợp và sự đồng bộ hoá các tương tác lẫn nhau. Trong định nghĩa cũng phản ánh cả tính vấn đề, các phức tạp và các khó khăn có thể trở thành các nhân tố cản trở sự tương tác lẫn nhau cần phải có. Các viễn cảnh và các phương tiện hoạt động của các chủ thể nhất định là tình tiết quan trọng.
Chiến lược phát triển pháp luật hay các chiến lược phát triển pháp luật cũng được luận chứng bằng tính cấp thiết của sự hình thành quan hệ đối tác về mặt pháp lý - xã hội: các quan hệ dựa trên sự cân bằng các quyền, các nghĩa vụ xuất hiện giữa cá nhân và nhà nước. Chính quan hệ đối tác được hình thành dựa trên sự cân bằng giữa cách tiếp cận tự do chủ nghĩa triệt để và cách tiếp cận chuyên chế trong nhận thức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Theo quan điểm của chúng tôi, chiến lược phát triển pháp luật là hình thức (cũng như các phương thức và các phương tiện) cơ bản, có triển vọng của việc đạt được các mục tiêu pháp luật quan trọng nhất, dựa trên các nhu cầu thực hiện công bằng xã hội với sự trợ giúp và dựa vào nền tảng pháp luật, bảo vệ có hiệu quả các quyền và tự do của cá nhân và các quan hệ đối tác của nó với nhà nước.
Rõ ràng là chiến lược phát triển pháp luật cần phải có đầy nội dung lẫn các định hướng về thời gian. Các thông số về nhịp độ của chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay là như thế nào và có sự tương tự nào đó hay không? Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021- 2030. Từ đó cần xây dựng quan niệm về chiến lược phát triển pháp luật tổng thể và các chiến lược phát triển các lĩnh vực, các ngành pháp luật Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra cho khoa học pháp lý việt Nam hiện nay. Các định hướng lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 định hướng cho việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045(13).
(Tiếp số sau)
_____________________________________
Ghi chú:
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Xem: Võ Khánh Vinh (2020), Chính sách pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.74-106.
6. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
8. Chirkin V.G. (2010), “Quan niệm về quyền lực công của nhân dân trong thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề của luật học, Số 1 (5), tr.38 - 39 (bản tiếng Nga).
9. Chicherin B (1900), Triết học pháp luật, Mátxcơva, tr.81-82, (bản tiếng Nga).
10. Chicherin B (1900), Triết học pháp luật, Mátxcơva, tr.84, (bản tiếng Nga).
11. Chicherin B (1904), Những vấn đề của chính sách, Mátxcơva, tr.37 (bản tiếng Nga).
12. V.E. Kemerov (chủ biên, 2004), Từ điển Triết học đương đại, Mátxcơva, tr.681 (bản tiếng Nga).
13. Xem: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Khánh Vinh (2020), Chính sách pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
2. Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Võ Khánh Vinh “Về giá trị học pháp luật”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 7/2014.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Lukasheva E. A., Quyền con người và nhà nước xã hội pháp quyền// Quyền con người và nhà nước xã hội pháp quyền ở Nga. Mátxcơva, 2013 (bản tiếng Nga).
6. Từ điển triết học đương đại/ chủ biên Giáo sư V.E. Kemerov, Mátxcơva, 2004 (bản tiếng Nga).
7. Chirkin V.G. “Quan niệm về quyền lực công của nhân dân trong thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề của luật học, 2010, Số 1 (5) (bản tiếng Nga).
Nguồn: Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 8-2021.