ThS. Nguyễn Văn Biểu*
Đồng chí Trần Quý Kiên tên thật là Đinh Xuân Nhạ (1), sinh tháng 9 năm 1911, trong một gia đình yêu nước ở phố Hàng Nứa, trên đê Yên Phụ (Hà Nội). Quê gốc của đồng chí ở thôn Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên (tỉnh Hà Đông). Do nhà nghèo, bố mẹ đồng chí đã sớm phải bỏ quê ra Hà Nội kiếm sống.
Đồng chí Trần Quý Kiên tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, khi mới 16 tuổi. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, ngay từ tháng 5-1930, đồng chí Trần Quý Kiên đã được kết nạp vào Đảng và là một trong những lớp đảng viên đầu tiên của Đảng. Trong bản Lý lịch tự thuật của đồng chí có viết: “Do tinh thần yêu nước và sự bóc lột của chủ trong khi làm thợ nên tôi rất dễ giác ngộ cộng sản. Sau đó đồng chí Phát giới thiệu tôi với đồng chí Giang Đức Cường và đồng chí Lã Phạm Thái ở Chi bộ học sinh Hà Nội” (2). Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Trần Quý Kiên là một nhà cách mạng tiêu biểu, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, đã có nhiều cống hiến to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bài viết này, với nhiều nguồn tư liệu mới, bài viết sẽ làm sáng tỏ về cuộc đời và hoạt động của đồng chí Trần Quý Kiên đối với cách mạng Việt Nam trong những năm 1930 - 1945.
1. Những hoạt động yêu nước và góp phần xây dựng Đảng của đồng chí Trần Quý Kiên
Ngày 17-3-1930, tại nhà số 42 phố Hàng Thiếc, Ban Chấp hành lâm thời của Thành Đảng bộ Hà Nội được thành lập, gồm 3 đồng chí: Đỗ Ngọc Du (Bí thư), Nguyễn Ngọc Vũ và Lều Thọ Nam. Tháng 6-1930, Thành ủy Hà Nội chính thức thành lập do đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ làm Bí thư. Việc thành lập Đảng bộ Thành phố Hà Nội là sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng của nhân dân Hà Nội. Để thực hiện chủ trương của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ về việc đẩy mạnh đấu tranh, củng cố phát triển tổ chức, tuyên truyền ảnh hưởng của Đảng, chống sự khủng bố của thực dân Pháp, Thành ủy Hà Nội đã quyết định thành lập Đội Tuyên truyền xung phong gồm các đồng chí: Lê Đình Tuyển, Đinh Xuân Nhạ (tức Trần Quý Kiên), Giang Đức Cường. Các đồng chí Lê Đình Tuyển, Đỗ Đình Cưu, Đỗ Danh Vưu được phân công phụ trách công nhân; đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ phụ trách nông dân; đồng chí Lều Thọ Nam phụ trách học sinh; đồng chí Đặng Xuân Khu phụ trách sinh viên và binh lính; đồng chí Hoàng Ngọc Bảo, Lã Phạm Thái phụ trách Thanh niên cộng sản. Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền xung phong đã bắt tay ngay vào việc tập trung xây dựng cơ sở Đảng và vận động quần chúng công nhân, nông dân và các giới trong thành phố Hà Nội (3), đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Tôi được Đảng giao cho những việc như dán biểu ngữ, phát truyền đơn, treo cờ đỏ, tuyên truyền xung phong…”(4). Đội Tuyên truyền xung phong chính là tổ chức tiền thân của Ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội sau này.
Vào dịp kỷ niệm lần thứ 13 Cách mạng Tháng Mười Nga, Thành ủy Hà Nội tổ chức tuyên truyền xung phong tại trường Bách Nghệ ở phố Carreau (nay là phố Lý Thường Kiệt). Ngày 11-10-1930, đồng chí Đinh Xuân Nhạ trực tiếp phụ trách một tổ tuyên truyền xung phong mang, cờ biểu ngữ đến treo trước cổng trường. Đúng lúc học sinh tan học đổ ra rất đông, Đinh Xuân Nhạ đứng lên diễn thuyết và tung truyền đơn hô hào ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đồng chí liền bị thực dân Pháp bắt và giam ở nhà tù Hỏa Lò. Trong thời gian này, thực dân Pháp tiến hành khủng bố rất ác liệt, hòng phá vỡ phong trào cách mạng trong cả nước. Tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng ở nhiều nơi liên tục bị đánh phá và tổn thất khá nặng nề. Thành ủy Hà Nội bị phá vỡ, phải lập lại nhiều lần. Chỉ từ tháng 6 đến tháng 12-1930, Thành ủy Hà Nội phải 3 lần thành lập lại. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ lần lượt bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò như: Nguyễn Ngọc Vũ, Lê Đình Tuyển, Đặng Xuân Khu, Đinh Xuân Nhạ, Giang Đức Cường, Hoàng Ngọc Bảo (5)...
Theo chủ trương của Chi bộ nhà tù Hỏa Lò, báo Lao tù đỏ (sau đổi thành Lao tù tạp chí) (6),... được xuất bản, đồng chí Đinh Xuân Nhạ là người viết chữ đẹp, nên được phân công chép báo. Trong hồi ký của đồng chí Trần Bảo viết: “Tòa soạn báo làm việc dưới gầm sàn gỗ vào những lúc ánh sáng nhiều nhất trong ngày, đủ để trông thấy chữ mà viết. Anh Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) vừa soạn bài, vừa viết sách dưới đó, tôi làm nhiệm vụ đứng gác bọn sếp ngục cho anh viết. Chính ở trong gầm sàn này đã ra đời những tài liệu công vận, nông vận, ABC cộng sản (tức cộng sản sơ giải), hai chiến thuật, bệnh ấu trĩ của người cộng sản… Bản thảo viết ra được những tay chữ đẹp như Khôi, Trụ, Nhạ, Tuân chép lại vào những tập giấy cuộn thuốc lá, anh em truyền tay nhau xem và gửi ra các cơ sở bên ngoài… Tôi và Nhạ được giao nhiệm vụ tổ chức cơ quan giữ gìn sách báo. Tôi làm “kho” và Nhạ làm “thư viện” (7). Năm 1931, sau gần một năm giam giữ, tra khảo không tìm được chứng cứ, thực dân Pháp buộc phải mở phiên tòa xét xử đồng chí Đinh Xuân Nhạ và hàng trăm chiến sĩ cách mạng khác, “… ra tòa lần này có giáo Sần, Trụ, Khôi, Đĩnh, Nhạ, Cân, Thuần… và tôi” (8). Kết thúc phiên tòa Đinh Xuân Nhạ bị kết án 10 năm tù giam ở Hỏa Lò.
Giữa tháng 12-1931, thực dân Pháp chở 75 tù nhân, phần lớn là những chiến sĩ cộng sản, xuống Hải Phòng để đưa ra Côn Đảo. Trong số này có các đồng chí Lê Duẩn, Khuất Duy Tiến, Lê Thanh Nghị, Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Tuân Thức… Khi đến Hải Phòng, thực dân Pháp đưa cả đoàn tù vào giam trong nhà lao Hải Phòng. Tại đây các đồng chí tù chính trị tiếp tục đấu tranh với chế độ nhà tù thực dân đế quốc. Nguyễn Thành Long, có biệt hiệu Long tàu bay, giỏi nghề cơ khí và có tài mở được các loại khoá, được anh em tù chính trị phạm ủng hộ, quyết định để Long vượt ngục. Đêm 20-12-1931, các anh em tù đứng chồng lên vai nhau làm thang cho Long trèo lên mái dỡ ngói và dùng dây thừng, móc sắt leo qua sân thoát ra ngoài. Sáng hôm sau, phát hiện có tù trốn, bọn cai ngục liền cùm chân tất cả tù nhân. Anh em bàn nhau phải tổ chức đấu tranh phản đối. Đồng chí Lê Duẩn đề nghị tuyệt thực để chống lệnh cùm chân. Các đồng chí Khuất Duy Tiến, Nguyễn Tuân Thức, Vũ Thiện Chân... chủ trương không nên manh động, nhưng số tù nhân Quốc dân Đảng muốn tỏ ra hăng hái, đề nghị phải dùng vũ lực để đánh cả bọn cai ngục. Gạch đá, thanh sắt, gậy gộc được chuẩn bị sẵn. Sau giờ ăn cơm chiều ngày 21-12-1931, những tiếng hò la vang dội trong nhà giam mở đầu cho cuộc đấu tranh. Hồi ký của Trần Bảo viết “Tình thế đã đẩy đến mức lưu huyết… Sáu đồng chí Xương, Dương, Hồ, Tịnh, Tâng, Đang không bao giờ trở về nữa” (9). Sau đó, vì chưa có tàu đi Côn Đảo, cả đoàn tù bị cùm chân suốt một tháng, rồi lại bị đưa về Hoả Lò (10).
Cuối năm 1932, phong trào cách mạng dần dần được phục hồi, nhiều cơ sở được gây dựng lại. Trước tình hình đó Chi bộ nhà tù Hỏa Lò bí mật bàn kế hoạch tổ chức cho các anh em vượt ngục. Các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo, Bùi Xuân Mẫn, Vũ Trọng Đàm họp bàn, thảo luận và vạch kế hoạch tổ chức cuộc vượt ngục một cách chu đáo, tỉ mỉ. Cuối cùng, bảy đồng chí: Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo, Vũ Như Cương (có sách chép là Võ Duy Cương), Phạm Quang Lịch, Bùi Xuân Mẫn, Vũ Trọng Đàm, Lê Đình Tuyển (11) được chọn để vượt ngục. Cuộc vượt ngục được chọn đúng vào đêm No-en, ngày 24-12-1932, lợi dụng mọi người đi chơi đông đúc ở Nhà thờ lớn Hà Nội, thực dân Pháp sơ hở trong việc phòng bị, bảy đồng chí đã mau lẹ trèo tường, vượt qua hàng rào dây thép gai tẩu thoát ra ngoài, hòa chung với đoàn người đi lễ đêm No-en.
Cuộc vượt ngục thành công khiến thực dân Pháp thấy phải sớm di chuyển số tù nhân mà chúng cho là “bướng bỉnh”, “nguy hiểm” đi nơi khác. Nhà tù Sơn La là đích ngắm tới của chúng, nhằm lợi dụng sự khắc nghiệt, hà khắc ở đây để giết hại những người tù cộng sản. Trong Báo cáo mật gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ năm 1933, Công sứ Sơn La Saint Poulof đã nói: “Xin ngài cứ tiếp tục gửi chính trị phạm lên Sơn La. Bọn này nếu ở Hỏa Lò, là những hạng hung hăng khó trị, thì rồi đây tới đất Sơn La chỉ trong vòng 6 tháng thôi, vi trùng sốt rét sẽ làm cho chúng suy nhược và trở nên hiền lành và sẽ định đoạt số mạng chúng” (12).
Tháng 2-1933, đồng chí Đinh Xuân Nhạ cùng với 210 người tù cộng sản và Quốc dân Đảng từ nhà tù Hỏa Lò bị đưa lên giam ở nhà tù Sơn La. Đoàn tù tới Sơn La vào ngày 3-3-1933. Ngày 31-10-1933, Công sứ tỉnh Sơn La Saint Poulof cho lập danh sách 22 tù chính trị ở nhà tù Sơn La không được ân xá, trong đó có: Lê Duẩn, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Trịnh Đình Cửu, Khuất Duy Tiến, Đặng Hữu Rạng, Vũ Thiện Chân, Phạm Văn Tư, Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Tuân Thức, Nguyễn Đình Hang, Nguyễn Văn Ngọ, Mai Lập Đôn, Lê Đình Ninh, Trần Văn Lan... Trong phiếu nhận dạng của tù nhân Đinh Xuân Nhạ, mang số tù là 289 (13). Theo nhận xét của Chánh Giám ngục nhà tù Sơn La thì đây là những người có hạnh kiểm “bình thường” hoặc “xấu” (14), thậm chí trong phiếu nhận dạng của mỗi tù nhân, Chánh Giám ngục nhà tù Sơn La còn nêu rõ đây là những “phần tử nguy hiểm”, “là kẻ cầm đầu các phong trào phản loạn”, “đích thực là cộng sản”, “là kẻ cầm đầu tại nhà tù” (15)...
Tháng 10-1933, được tin Toàn quyền Đông Dương Pasquier lên Sơn La kiểm tra tình hình và khánh thành con đường mang tên chúa ngục Saint Poulof, anh em tù chính trị dự đoán, viên chúa ngục Saint Poulof thế nào cũng mời Pasquier đến ngục Sơn La để chúng tâng công với quan thầy trong việc đàn áp tù cộng sản. Nhân cơ hội này, anh em tù chính trị quyết định tổ chức đưa yêu sách và đấu tranh tố cáo tội ác của chế độ nhà tù gửi cho Toàn quyền. Toàn quyền Pasquier nhận bản yêu sách và hứa sẽ xem xét giải quyết.
Trước sự đấu tranh quyết liệt của những người tù chính trị, lại được đông đảo nhân dân Đông Dương và dư luận tiến bộ Pháp ủng hộ, Toàn quyền Pasquier buộc phải ký lệnh giảm hoặc xóa bỏ một số án tử hình, đưa một số tù chính trị ở ngục Sơn La về giam tại Hỏa Lò (Hà Nội). Ngày 17-11-1933, đoàn tù bắt đầu khởi hành từ Sơn La về Hà Nội.
Sau thời kỳ đấu tranh chống khủng bố trắng (1931- 1935), nhiều tổ chức cơ sở đảng dần dần được khôi phục và phát triển ở nhiều nơi, ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân nổ ra tại nhiều địa phương. Trước tình hình đó thực dân Pháp lo sợ và quyết định chuyển một số tù chính trị ở nhà tù Hỏa Lò mà chúng xếp vào loại nguy hiểm đưa ra Côn Đảo, còn những người ốm yếu thì đưa lên Sơn La, trong số đó có Đinh Xuân Nhạ. Tù chính trị được đưa lên giam ở nhà tù Sơn La này chia thành hai đoàn, một đoàn lên vào tháng 5 - 1935 và một đoàn lên vào tháng 6-1935. Đây là lần thứ hai Đinh Xuân Nhạ bị đưa lên giam ở nhà tù Sơn La, cùng bị đưa lên còn có Đặng Xuân Khu, Nguyễn Lương bằng, Đặng Việt Châu, Hào Lịch, Bùi Vũ Trụ (16)... Trong phiếu nhận dạng của tù nhân Đinh Xuân Nhạ, mang số tù 281. Hồi ký của đồng chí Đặng Việt Châu viết: “Chúng tôi đến Sơn La ngày 4 - 6 - 1935. Đến nơi vào khoảng 4 giờ chiều đã gặp các anh em đi chuyến trước (ngày 9 - 5 - 1935) ở đó… Các đồng chí Hào Lịch, Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Mạnh Hồng, Trần Quý Kiên… thấy chúng tôi, vừa mừng vừa căm tức về thủ đoạn xảo trá của đế quốc” (17).
Trong nhà tù Sơn La, các anh em tù chính trị đã họp nhau lại để thành lập ra một Ủy ban chung để chỉ đạo mọi vấn đề sinh hoạt trong nhà tù, giữ gìn trật tự, vệ sinh chung trong tù đến ra ngoài đi làm, đối phó với gác ngục và cai lính, giao dịch với đồng bào địa phương, giúp đỡ nhau khi ốm đau… Thế là một ủy ban thống nhất tù chính trị gọi là Hội đồng thống nhất được thành lập. Đinh Xuân Nhạ được bầu là Trưởng ban Hợp tác xã (18), Phó ban là một người của Quốc dân Đảng.
Giữa năm 1936, hơn một tháng sau khi Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình, đòi trả tự do cho tù chính trị phát triển mạnh buộc Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp phải tuyên bố “đại xá” tù chính trị ở Đông Dương.
Nắm được tình hình đó, tù chính trị ở nhà tù Côn Đảo nổi dậy đấu tranh đòi thả tự do. Nhờ vậy, hơn 200 chiến sĩ cách mạng được trở về đất liền. Trong dịp này nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương cũng buộc phải thả một số tù chính trị ở nhà tù Sơn La và một số nhà tù khác trong cả nước. Cuối tháng 7-1936, khoảng 30 trong số gần 70 tù chính trị ở nhà tù Sơn La được ân xá đợt đầu, số còn lại về đợt sau. Trong Hồi ký Trường học cuộc đời, Đặng Việt Châu viết: “… Đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng, Tạ Văn Cấp và tôi được về chuyến đầu, còn đồng chí Cây Xoan (Trường Chinh) và Trần Quý Kiên về chuyến sau” (19).
Tháng 8-1936, đồng chí Đinh Xuân Nhạ cùng với Đặng Xuân Khu và hàng chục tù chính trị khác được trả tự do (20). Từ Sơn La, đồng chí Đinh Xuân Nhạ và những người được thả trong chuyến này đi thuyền xuôi về Hà Nội. Sở Mật thám Hà Nội tuyên bố lệnh quản thúc, rồi cho tù được ân xá trở về quê. Đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Về đến nhà được mấy hôm tôi tìm ngay đến nhà báo Le Travail và liên lạc được với đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện rồi đến đồng chí Hoàng Quốc Việt và Tô Hiệu… Cùng các đồng chí tổ chức lại Đảng và phân công hoạt động” (21).
Sau khi được trả tự do, chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều chiến sĩ cộng sản trở về Hà Nội tiếp tục hoạt động như: Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu... Từ nhà tù Sơn La về có các đồng chí Đặng Xuân Khu, Đinh Xuân Nhạ, Bùi Vũ Trụ... Ngoài ra, còn có một số đồng chí hoạt động cách mạng ở bên Lào bị trục xuất về nước như: Nguyễn Trọng Cảnh, Phan Trọng Tuệ, Lê Hoàng... (22). Đây là nguồn cán bộ quý của Đảng, vì họ đã được thử thách rèn luyện trong các nhà tù đế quốc thực dân, có tài năng, có phẩm chất cách mạng, kiên trung, lực lượng này sẽ góp phần phục hồi và đẩy nhanh phong trào cách mạng tiến lên một bước mới.
2. Tham gia tái lập Xứ uỷ Bắc Kỳ và Đảng bộ các tỉnh, thành phố thuộc Xứ ủy Bắc Kỳ
Vào cuối năm 1936, các đồng chí Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Văn Cừ, và Nguyễn Văn Minh hẹn nhau họp tại một địa điểm gần sân bay Gia Lâm nhằm trao đổi về việc củng cố và phát triển các cơ sở đảng, cơ sở cách mạng, “để đi tìm và tập hợp các đồng chí mới ở tù ra và các đồng chí còn sót lại ở ngoài để xây dựng lại phong trào” (23). Tại cuộc họp, các đồng chí bàn nhau “thành lập cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội, lấy tên là ủy ban sáng kiến” (24).
Sau khi thành lập, ủy ban sáng kiến được bổ sung thêm nhiều cán bộ, trong đó có nhiều đồng chí giàu kinh nghiệm hoạt động cách mạng. ủy ban sáng kiến tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận hoạt động công khai, một bộ phận hoạt động bí mật. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ hoạt động ở bộ phận bí mật. ủy ban sáng kiến phân công đồng chí Tô Hiệu về hoạt động tại Hải Phòng, Quảng Ninh, đồng chí Hoàng Văn Thụ về hoạt động ở các vùng dân tộc thiểu số phía Bắc. Ngoài ra, ủy ban còn phân công đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Nguyễn Văn Minh, Đinh Xuân Nhạ phụ trách việc móc nối liên lạc với các đồng chí ở Trung Kỳ; đồng thời trực tiếp tham gia khôi phục và phát triển các cơ sở đảng ở khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận (25). Đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Tháng 2-1937, tôi phụ trách Hải Phòng… đã gây được cơ sở đảng và quần chúng ở những nơi như: nhà máy Ciment, nhà máy chai, máy sợ, máy khuy, thợ xe, thợ mộc, thợ cạo, thợ máy, trong các chị em buôn bán ở chợ Sắt…” (26). Hoạt động hiệu quả của ủy ban sáng kiến đã giúp cho các tổ chức đảng lần lượt được lập lại ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định... Trong Báo cáo của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban Trung ương Quốc tế Cộng sản viết: “Việc tổ chức lại các tổ chức của Đảng có thể tiến hành khá nhanh, đó là nhờ hoạt động của các cựu tù chính trị được ân xá” (27).
Trên cơ sở phát triển của tổ chức đảng, yêu cầu lập lại Xứ uỷ Bắc Kỳ để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh trở nên cấp thiết. Tháng 3-1937, Hội nghị thành lập Xứ ủy Bắc Kỳ lâm thời được tiến hành. Tham gia hội nghị có các đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Tú Hưu (tức Hoàng Văn Nọn), Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Đặng Xuân Khu, Tô Hiệu, Hoàng Quốc Việt, Đinh Xuân Nhạ, Trần Cung, Đinh Văn Di và một số đồng chí khác. Xứ ủy Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Hoàng Văn Nọn, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Trần Quý Kiên (28)... Hội nghị đã cử đồng chí Lương Khánh Thiện làm Bí thư Xứ uỷ lâm thời Bắc Kỳ, kiêm Bí thư Thành uỷ Hà Nội. Xứ uỷ Bắc Kỳ được thành lập đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh đạo nhân dân các tỉnh, thành Bắc Kỳ đấu tranh cách mạng giành quyền tự do, dân chủ.
Sau khi ở Hải Phòng về, đồng chí Đinh Xuân Nhạ được giao phụ trách các hội ái hữu của thợ mộc, thợ mũ và nhà máy Gia Lâm… cùng làm lúc ấy có các đồng chí Văn Tiến Dũng, Hà Kế Tấn… (29).
Tháng 3-1937, Thành ủy Hà Nội chính thức được lập lại do đồng chí Lương Khánh Thiện, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp làm Bí thư. Tham gia Thành ủy có các đồng chí: Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Mạnh Đạt (tức Lộc, ái), Tạ Quang Sần, Nguyễn Trọng Cảnh (Trần Quốc Hoàn) (30). Phạm vi hoạt động của Đảng bộ lúc này bao gồm cả Sơn Tây và Hà Đông. Thành uỷ Hà Nội được tái lập đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết của các cơ sở Đảng và quần chúng nhân dân.
Sau khi Thành ủy Hà Nội được tái lập, tháng 3-1937, Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ thị cho các đồng chí cơ sở ở Hải Phòng phải nhanh chóng thành lập cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ và tăng cường đồng chí Đinh Xuân Nhạ về Hải Phòng (31). Tháng 4-1937, cuộc họp thành lập Thành ủy Hải Phòng được tổ chức tại nhà đồng chí Dư, ở ngõ Đá, phố Cát Dài. Tham gia Thành ủy Hải Phòng có các đồng chí Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Túc, Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Văn Vượng, Tư Thành, Hoàng Văn Trành… Đồng chí Nguyễn Văn Túc được cử làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng (32). Sự kiện Thành ủy Hải Phòng được tái lập lại đánh dấu kết quả của công tác xây dựng Đảng và cơ sở cách mạng; đồng thời phù hợp với sự phát triển của tình hình thực tế, tạo ra sự thống nhất và hiệu quả trong sự lãnh đạo và tổ chức phong trào.
Tại Hà Nội, ngay sau khi Thành ủy Hà Nội thành lập lại, các đồng chí lãnh đạo đã khẩn trương bắt tay vào xây dựng và phát triển cơ sở đảng; vận động quần chúng tích cực triển khai, chắp mối bắt liên lạc với những đảng viên đang hoạt động ở Hà Nội; cử thêm cán bộ, đảng viên tăng cường vào các xí nghiệp, nhà máy, các ngành nghề và về các vùng nông thôn ngoại thành; đồng thời thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên mới.
Năm 1938, cơ quan lãnh đạo Thành ủy Hà Nội được kiện toàn, đồng chí Đinh Xuân Nhạ làm Bí thư Thành ủy (33); Thành ủy Hà Nội được bổ sung thêm 2 đảng viên đang hoạt động trong phong trào công nhân là Nguyễn Văn Trân và Văn Tiến Dũng. Trong hồi ký Đi theo con đường của Bác của đồng chí Văn Tiến Dũng đã viết: “Anh Đinh Xuân Nhạ - người đã tổ chức tôi vào Đảng những năm trước” (34), “Anh Nhạ lúc đó mở một cửa hàng sửa xe đạp ở gần bến Nứa, đường bờ sông… Hoàn toàn không một ai lúc đó, nếu không phải là đảng viên có trách nhiệm, có thể biết được đây lại là một đồng chí trong Thường vụ Thành ủy Hà Nội. Anh Nhạ phụ trách về tổ chức, chuyên đi xây dựng lại và tổ chức mới những chi bộ Đảng trong công nhân và lao động” (35).
Sau khi Chính phủ Bình dân lên cầm quyền ở Pháp, giới cầm quyền ở chính quốc và thuộc địa nới lỏng cho nhân dân Đông Dương một số quyền tự do, dân chủ, nên đây là lúc hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương nói chung và Xứ ủy Bắc Kỳ nói riêng, có phần thuận lợi hơn so với thời kỳ trước, do đó cơ sở Đảng đã được chắp nối, khôi phục, tái lập và phát triển rộng thêm.
ở vùng phía Tây của Hà Nội, Xứ ủy Bắc Kỳ có một chương trình lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ cho cả hai vùng Nam và Bắc huyện Hoài Đức. Tháng 8-1936, tổ cộng sản Đa Phúc (Quốc Oai, nay thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Nội) là tổ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sơn Tây được thành lập gồm có 3 đồng chí: Nguyễn Văn Thọ (tức Thoả), Phan Trọng Tuệ và Đào Văn Tiễu. Đầu năm 1938, sau một thời gian theo dõi, đồng chí Đinh Xuân Nhạ, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội đã trực tiếp về Đa Phúc công nhận chi bộ dự bị Đa Phúc là một chi bộ chính thức (36). Đồng chí Đinh Xuân Nhạ giao nhiệm vụ cho chi bộ Đa Phúc phải lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh Sơn Tây, dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội.
Trong thời gian này, đồng chí Hoàng Lương Hữu, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ là người trực tiếp bồi dưỡng, lựa chọn quần chúng tích cực để xây dựng chi bộ Đảng. Trên cơ sở phát triển đó, ngày 15-5-1938, đồng chí Đinh Xuân Nhạ thay mặt Xứ ủy Bắc Kỳ đã về La Cả tổ chức kết nạp 3 quần chúng vào Đảng là: Dương Nhật Đại (La Cả), Nguyễn Quý Bình (Đại Mỗ), Ngô Văn Phát (Thượng Cát) và thành lập chi bộ ghép do đồng chí Dương Nhật Đại làm Bí thư (37). Xứ ủy Bắc Kỳ giao nhiệm vụ cho chi bộ lãnh đạo phong trào toàn tỉnh, đồng thời lập Ban vận động chuẩn bị thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Đông.
Đến cuối năm 1938, Đảng bộ tỉnh Hà Đông được thành lập. Ban Tỉnh ủy lâm thời gồm 5 đồng chí, do đồng chí Dương Nhật Đại làm Bí thư. Cuối năm 1938, đồng chí Đinh Xuân Nhạ bị mật thám Pháp khám xét nhà, bắt được tài liệu bí mật “chúng gửi xuống Sở Mật thám luôn để dọa nạt, dụ dỗ (vì là thời kỳ Chính phủ Bình dân nên chúng không bỏ tù và truy tố được). Sợ lộ bí mật và có hại nên Đảng đã trao những việc mà tôi (Đinh Xuân Nhạ) phụ trách trên cho các đồng chí khác. Nhà máy Gia Lâm thì trao cho đồng chí Hoàn” (38).
Đầu năm 1939, đồng chí Đinh Xuân Nhạ được chỉ định vào Ban Chấp hành Xứ ủy Bắc Kỳ, cùng làm việc với các đồng chí Hoàng Văn Thụ và Lương Khánh Thiện. Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đồng chí Đinh Xuân Nhạ và đồng chí Lương Khánh Thiện được giao nhiệm vụ lên Phú Thọ “chuẩn bị địa bàn, xây dựng cơ sở cho Đảng rút vào hoạt động bí mật” (39). Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lương Khánh Thiện và đồng chí Đinh Xuân Nhạ, nhiều chi bộ đảng và cơ sở cách mạng ở các huyện Yên Lập, Cẩm Khê, Phù Ninh, Lâm Thao và thị xã Phú Thọ được thành lập. Trên cơ sở đó, đồng chí Lương Khánh Thiện và đồng chí Đinh Xuân Nhạ thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Phú Thọ. Đây là một trong những công lao đóng góp quan trọng của đồng chí Đinh Xuân Nhạ vào quá trình vận động cách mạng tiến tới thành lập Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
Tháng 6-1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp. Phát xít Nhật lăm le nhảy vào độc chiếm Đông Dương. Đồng chí Lương Khánh Thiện được Đảng điều động về làm Bí thư Khu B (còn gọi là Liên tỉnh B, gồm Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Hòn Gai, Hải Dương, Hưng Yên), trực tiếp phụ trách Đảng bộ Hải Phòng. Đồng chí Đinh Xuân Nhạ về hoạt động gây dựng cơ sở ở Bắc Giang cùng với đồng chí Trần Quốc Hoàn. Trên đường xuống cơ sở ở Hiệp Hòa, hai đồng chí bị lính tuần bắt, rồi bị đưa về giam ở nhà lao Bắc Giang. Sau đó đưa về Hà Nội để xét xử, kết án 5 năm tù chính trị và 1 năm tù về tội trộm cướp vì đã mang thẻ của của người khác. Sau khi kết án, thực dân Pháp đưa hai đồng chí về giam ở nhà lao Bắc Giang.
Trong hai năm 1941 và 1942, mặc dù phong trào cách mạng liên tiếp bị thực dân Pháp khủng bố, cơ sở đảng, cơ sở cách mạng bị phá vỡ, nhiều đảng viên trung kiên của Đảng bị bắt bớ, nhưng vẫn không dập tắt được ngọn lửa cách mạng ở khắp các tỉnh Bắc Kỳ. Trong đó có cuộc đấu tranh của tù nhân ở nhà lao Bắc Giang dưới sự lãnh đạo của đồng chí Trần Quốc Hoàn và đồng chí Đinh Xuân Nhạ đòi cải thiện chế độ lao tù đã giành được thắng lợi (40), đồng chí Đinh Xuân Nhạ viết: “Chúng tôi lợi dụng tụi Cẩm, lãnh đạo tù thường phạm chống Giám ngục và tù anh chị bóc lột, lãnh đạo tụi lưu manh chống Giám ngục ăn cắp gạo. Đồng thời dạy truyền bá Quốc ngữ và tuyên truyền chính trị để giới thiệu ra ngoài” (41).
Năm 1943, đồng chí Đinh Xuân Nhạ bị Pháp bắt và lại một lần nữa bị đưa lên giam ở nhà tù Sơn La cùng với đồng chí Trần Quốc Hoàn và đồng chí Lê Thanh Nghị, đây là lần thứ 3 đồng chí Đinh Xuân Nhạ bị đưa lên giam ở nhà tù Sơn La. Theo hồi ký của đồng Lê Thành viết: “Sau Tết năm 1943-1944, vào khoảng đầu tháng 2-1944, đoàn “con Voi” chúng tôi bị đày đi Sơn La… cả đoàn tù khoảng 150 người… suốt chặng đường 12 ngày trót lọt, anh em tương đối khỏe mạnh đều tới Sơn La. Dưới sự chỉ đạo của anh Đinh Xuân Nhạ tức Kiên là đồng chí đã từng ở Sơn La… có kinh nghiệm trong hướng dẫn anh em, cũng như giao dịch với sĩ quan binh lính dẫn đường”(42). Những tù nhân án nhẹ, lên nhà tù Sơn La một thời gian được chuyển giam ở các nhà lao (căng) hàng tỉnh nhỏ khác. Đồng chí Đinh Xuân Nhạ bị đưa đi giam ở nhà lao Nghĩa Lộ.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), không khí cách mạng sục sôi, “cao trào kháng Nhật, cứu nước do Đảng lãnh đạo ngày một mạnh mẽ, sâu rộng khắp Bắc, Trung, Nam. Căn cứ du kích mở rộng. Khu giải phóng và Quân giải phóng Việt Nam thành lập. Chính quyền địa phương của nhân dân đã lập trên 6 tỉnh Thượng du và Trung du Bắc Kỳ” (43). Trước tình hình đó, đồng chí Đinh Xuân Nhạ “cùng anh em tù chính trị phá nhà lao Nghĩa Lộ vượt ngục, tôi cũng vượt ngục. Do đồng chí Trần Quý Kiên bị ốm không đi cùng anh em nên mất liên lạc phải về nhà. Đến đầu tháng 4-1945, mới liên lạc được với đồng chí Trần Quốc Hoàn. Đồng chí Trần Quý Kiên được Đảng chỉ định làm Bí thư khu Quang Trung, gồm các tỉnh Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa - Sơn La - Lai Châu, thay đồng Trần Tử Bình” (44).
Đồng chí Đinh Xuân Nhạ là một trong năm người trong Ban Chỉ đạo Chiến khu Quang Trung, được cử giữ chức Phó thường trực. Hồi ký của đồng chí Văn Tiến Dũng viết: “ủy ban Quân sự Cách mạng Chiến khu Quang Trung (còn gọi là Ban Chỉ đạo) gồm 5 người: anh Ty (tức Trần Quý Kiên), mới được Trung ương tăng cường, 3 đồng chí Bí thư của 3 tỉnh và tôi phụ trách chung. Nhưng vì còn có trách nhiệm thường trực của ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, nên tôi không ở liền tại Chiến khu được và đồng chí Ty (Trần Quý Kiên) được cử là Phó thường trực. Tôi đi đi, về về và vẫn phải trụ ở địa bàn huyện Yên Phong, trong mấy xã bên bờ sông Như Nguyệt” (45).
Đầu tháng 5-1945, đồng chí Trần Quý Kiên - đại diện Xứ ủy Bắc Kỳ về Ninh Bình triệu tập hội nghị họp tại thôn Sải (Nho Quan) thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm 6 đồng chí, do đồng chí Lê Thành (tức Nguyễn Văn Mộc) làm Bí thư (46). Dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Quý Kiên, hội nghị đã kiểm điểm đánh giá phong trào và quyết định phát động phong trào chống thuế rộng rãi, mạnh mẽ. Nơi nào có điều kiện thì tổ chức đấu tranh chống thu thuế, chống thu thóc lẫm. Nơi nào cơ sở cách mạng còn yếu thì phát động quần chúng xin khất thuế tạo điều kiện tiến lên chống thuế.
Đầu tháng 8-1945, tình hình thế giới thay đổi có lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô đã kéo vào Mãn Châu, Cao Ly (Triều Tiên) tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật. Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi, cơ hội rất tốt cho nhân dân ta giành độc lập đã tới. Trước tình hình khẩn cấp đó, Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương cấp tốc triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào… Tham dự có đại biểu của các Đảng bộ Bắc, Trung, Nam, các chiến khu, các vùng giải phóng. Đồng chí Trần Quý Kiên và đồng chí Văn Tiến Dũng cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ và Chiến khu Quang Trung cấp tốc lên đường dự hội nghị nhưng vừa tới báo cáo, còn ở ngoài trạm (Sơn Dương, Quyên Quang), Bác đã Chỉ thị quay về ngay, quay về gấp, kẻo không kịp hành động (47).
Đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Trần Quý Kiên đã quay về để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa nơi mình phụ trách “Tôi về tới Yên Phong gặp ngay nữ đồng chí Minh - cán bộ phụ trách huyện... Nghe tình hình và dặn dò chị Minh mấy việc để củng cố, giữ vững chính quyền, ổn định tình hình, anh Ty (Trần Quý Kiên) và tôi về thẳng Hà Nội. Hà Nội cũng đã (giành chính quyền) xong. Tôi gặp anh Nguyễn Khang ở Bắc Bộ phủ. Trao đổi vắn tắt tình hình với anh, tôi lại cấp tốc lên đường, xuống thẳng Ninh Bình. Cũng như nhiều nơi khác, Ninh Bình đã giành được chính quyền trọn vẹn...” (48).
3. Lãnh đạo giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Sơn La, Lai Châu
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước, nhiều cán bộ Việt Minh được Đảng tăng cường về các địa phương, giúp các địa phương ổn định đời sống, củng cố chính quyền, đối phó với nạn thù trong, giặc ngoài. Đồng chí Dương Văn Ty (Trần Quý Kiên) được Trung ương giao nhiệm vụ lên lãnh đạo giành chính quyền ở Sơn La, Lai Châu.
Ngày 28-9-1945, đoàn cán bộ của Tổng bộ Việt Minh do đồng chí Dương Văn Ty dẫn đầu (49) lên tới Mộc Châu. Đồng chí đã thuyết phục và tranh thủ Bố chánh Sa Văn Minh, vốn là người thức thời, hiểu được uy tín, sức mạnh của cách mạng. Bố chánh Sa Văn Minh đã quy phục, giải tán chính quyền cũ và đi theo cách mạng (50). Sau đó, đồng chí Dương Văn Ty đưa Sa Văn Minh cùng về tỉnh Sơn La nhận nhiệm vụ mới.
Trong Hồi ký Từ Đồng Quan đến Điện Biên của Đại tướng Lê Trọng Tấn viết: “Cho đến một hôm có một tiểu đoàn Vệ quốc ở Phú Thọ lên do anh Nguyễn Duy Phiên làm Tiểu đoàn trưởng. Cùng đi với anh có anh Dương Văn Ty (tức Nhạ), ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ cùng 10 cán bộ từ Việt Bắc và dưới xuôi lên. Gặp các anh mới hay cách mạng đã thành công trong cả nước. Chính quyền cách mạng đã thành lập xong từ trung ương tới xã. Đứng đầu chính quyền là cụ Hồ Chí Minh, một lãnh đạo tài ba... Lên được ít hôm, anh Ty tổ chức chính quyền tỉnh gồm có Chủ tịch Cầm Văn Dung nguyên Tri châu Mai Sơn, Phó Chủ tịch là anh Chu Văn Thịnh...” (51).
Từ tháng 9-1945, đồng chí Trần Quý Kiên là Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ phụ trách 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La và Lai Châu. Trong hồi ký Người cộng sản kiên trung của Trung tướng Trần Quyết đã viết: “… Lên đường đi Sơn La. Tới Suối Rút (Hòa Bình), tôi gặp đồng chí Dương Văn Ty, Xứ ủy viên phụ trách Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Anh đã là bạn tù với tôi khi còn ở căng Bá Vân (Thái Nguyên)... Khi tôi mới lên thì biết ở Sơn La có bốn loại cán bộ… Một số theo anh Dương Văn Ty lên từ đầu…” (52).
Tại Sơn La, đồng chí Điêu Chính Liêm đã tìm gặp đồng chí Cầm Văn Dung là Chủ tịch ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Sơn La và đồng chí Dương Văn Ty (tức Trần Quý Kiên) ủy viên Xứ uỷ Bắc Kỳ được Tổng bộ Việt Minh cử lên giúp hai tỉnh Sơn La, Lai Châu giành chính quyền cách mạng. Đồng chí Dương Văn Ty đã chuyển tới đồng chí Điêu Chính Liêm một số báo chí cách mạng, cờ đỏ sao vàng để làm tài liệu tuyên truyền cho nhân dân trong châu Quỳnh Nhai.
Ngày 17-10-1945, châu Quỳnh Nhai (Lai Châu) giành được chính quyền. Đây “là châu đầu tiên và duy nhất của tỉnh Lai Châu giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945” (53). Những nơi khác trong tỉnh Lai Châu phải tiến hành thương thuyết để giành chính quyền do lực lượng của taở đây rất thiếu thốn từ cán bộ đến trang bị vũ khí, lực lượng rất mỏng. Vì vậy, mà Trung ương phải tăng cường cán bộ cách mạng có kinh nghiệm cho các tỉnh Lai Châu và Sơn La. Ngoài đoàn của đồng chí Dương Văn Ty đã được cử lên từ trước, Trung ương đã cử hai đồng chí Lê Tuân và Bưu (tức Văn) làm phái viên thay mặt Chính phủ lên Lai Châu thương thuyết với Đèo Văn Mun (Tỉnh trưởng Lai Châu) để lập chính quyền tỉnh.
Cuộc thương thuyết chưa tiến hành được gì thì chúng vu cáo cho quân cách mạng Việt Minh giết lính Quốc dân Đảng và đòi bắt phái đoàn ta. Nghe tin các phái viên bị bắt, đồng chí Dương Văn Ty đã vận động được một số quần chúng nhân dân mít tinh đòi thả đại diện Chính phủ và Mặt trận Việt Minh. Đèo Văn Mun cho lính đến giải tán và bắt luôn cả đồng chí Dương Văn Ty. Sau khi bắt các phái viên Việt Minh, chúng vẫn sợ uy tín của Chính phủ và nhân dân ta, mặt khác nhờ sự dàn xếp của đồng chí Cầm Văn Dung và Đèo Văn Túm (em trai Tỉnh trưởng Đèo Văn Mun) nên sau đó chúng đã thả những người bị bắt. Cuộc thương thuyết giành chính quyền ở Lai Châu do đồng chí Dương Văn Ty đứng đầu với vai trò lãnh đạo cuộc thương thuyết dù đã cố gắng đấu tranh, thương thuyết nhưng không thành công.
4. Kết luận
Đồng chí Trần Quý Kiên (Đinh Xuân Nhạ) người chiến sĩ cộng sản kiên trung, tiêu biểu thời kỳ xây dựng Đảng. Từ năm 1930-1945, trong suốt chặng đường cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kể từ khi được kết nạp Đảng vào tháng 5 - 1930, đồng chí đã giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, đã nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam, trải qua tù đày khắc nghiệt, tra tấn dã man của nhiều ngục tù đế quốc. Đồng chí bị thực dân Pháp liệt vào phần tử nguy hiểm nên đã bị giam giữ ở nhiều nhà tù khác nhau từ Hỏa Lò, Sơn La (3 lần), nhà lao Hải Phòng, nhà lao Bắc Giang, căng Bá Vân (Thái Nguyên), Nghĩa Lộ (Yên Bái)... Năm 1936, sau khi ra tù, đồng chí đã tham gia cùng với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng như Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Minh… tái lập lại Xứ uỷ Bắc Kỳ trên cơ sở ủy ban sáng kiến (cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ). Sau đó, đồng chí đã tham gia tái lập hàng loạt Đảng bộ các tỉnh, thành như: Thành ủy Hà Nội, Hải Phòng, Đảng bộ tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Phú Thọ… Đến năm 1938 trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, rồi Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ cho đến khi bị bắt và bị thực dân Pháp đưa lên giam giữ ở nhà tù Sơn La.
Sau năm 1945, đồng chí Trần Quý Kiên trải qua nhiều chức vụ cao của Đảng và Nhà nước, như: Phó Văn phòng Thủ tướng, Bí thư Đảng ủy Dân chính đảng Trung ương, Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn Bộ Thủy lợi, Thứ trưởng Bộ Thủy Lợi (54)… Hoạt động và cống hiến của đồng chí Trần Quý Kiên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân rất to lớn. Với những cống hiến xuất sắc, đồng chí Trần Quý Kiên đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương cao quý: Huân chương kháng chiến hạng nhất (1961), Huân chương Lao động hạng nhất (1965), Huân chương Hồ Chí Minh (truy tặng, 2003), Huân chương Sao vàng (truy tặng, 2018). Tên của đồng chí Trần Quý Kiên còn được đặt tên đường, phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác.
________________
Ghi chú:
* Viện Sử học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
________________
CHÚ THÍCH
(1). Theo Lý lịch tự thuật của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, được lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, khai tên thật là Đinh Xuân Nhạ, bí danh là Trần Quý Kiên, thời kỳ 1945-1946, khi là phái viên của Chính phủ tại Sơn La, Lai Châu đồng chí Trần Quý Kiên lấy tên là Dương Văn Ty.
(2) Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.7.
(3). Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr.47, 54.
(4) Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.7.
(5) Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr.57.
(6). Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng, Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), Nxb Chính trị quốc gia, 1994, tr.85.
(7). Trần Bảo, Hạt cát (hồi ký), Nxb. Lao động, 1970, tr.156-157.
(8). Trần Bảo, Hạt cát (hồi ký), Sđd, tr.194.
(9). Trần Bảo, Hạt cát (hồi ký), Sđd, tr.201.
(10). Đặng Văn Thái (chủ biên), Lê Duẩn tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2007. Hồi ký của đồng chí Trần Bảo viết là nhà tù Côn Đảo đã chật người, Trần Bảo, Hạt cát (hồi ký), Sđd, tr.203.
(11). Đặng Văn Thái (chủ biên), Lê Duẩn tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2007.
(12). Trần Huy Liệu, Dưới hầm Sơn La, in trong: Hồi ký Trần Huy Liệu, Nxb. Khoa học xã hội, 1991, tr.253.
(13). Hồ sơ cá nhân của đồng chí Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) của nhà tù Sơn La, lưu tại Bảo tàng Sơn La.
(14). Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Hồ sơ 71940, Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
(15). Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sơn La, Chi bộ nhà tù Sơn La - giá trị Lịch sử và hiện thực, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.163.
(16). Lược dịch Báo cáo của Mật thám Pháp, Tài liệu lưu tại nhà tù Sơn La.
(17). Đặng Việt Châu, Trường học cuộc đời (Hồi ký), Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996, tr.247.
(18). Có ý kiến cho rằng từ năm 1935 đã có Chi bộ Nhà tù Sơn La, và dẫn theo căn cứ trong Hồi ký Trường học cuộc đời của đồng chí Đặng Việt Châu, đã có nhắc đến Chi bộ nhà tù Sơn La: “một ủy ban thống nhất tù chính trị gọi là Hội đồng thống nhất được thành lập. Hội đồng này họp hàng tuần, một đại diện Quốc dân Đảng và một đại diện Cộng sản luân phiên làm đồng Chủ tịch, có chung một Tổng Thư ký. Hội đồng có điều lệ hoạt động, quyền hạn và trách nhiệm hẳn hoi, có các ban, các tổ phụ trách công tác chuyên môn. Đây là một hình thức tổ chức Mặt trận sáng tạo ra trong hoàn cảnh nhà tù Sơn La. Chi bộ chủ trương không hoạt động công khai, không ra sách báo như ở Hỏa Lò, Hà Nội”, theo Hồi ký Trường học cuộc đời, Sđd, tr.252. Đa số các ý kiến cho rằng Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập vào tháng 12-1939, xem: Nhiều tác giả, Chi bộ Nhà tù Sơn La giá trị lịch sử và hiện thực (Kỷ yếu Hội thảo 80 năm Chi bộ Nhà tù Sơn La, 12/1939-12/2019), Nxb. Chính trị Quốc gia, 2020.
(19). Đặng Việt Châu, Trường học cuộc đời, Sđd, tr.276.
(20). Phạm Hồng Chương (chủ biên), Trường Chinh tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2007.
(21). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.6.
(22). Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Sđd, tr.62.
(23). Lê Thanh Nghị, Trọn một cuộc đời (hồi ký), Nxb. Sự Thật, 1989, tr.102-103.
(24). Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Sđd, tr.62.
(25). Trần Minh Trưởng (Chủ biên), Nguyễn Văn Cừ tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.103.
(26). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.6.
(27). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.300.
(28). Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sơn La, Chi bộ nhà tù Sơn La - giá trị lịch sử và hiện thực, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2020, tr.299.
(29). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.6.
(30). Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Sđd, tr.63.
(31). Nguyên văn viết là Đinh Văn Nhạ. Trong thời gian ở Hải Phòng, đồng chí Đinh Xuân Nhạ được bầu làm ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ chính thức (kiện toàn tháng 9-1937); ủy viên Liên Xứ ủy Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ (thành lập tháng 11-1937).
(32). Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập I (1925-1955), Nxb Hải Phòng, 1991, tr.137.
(33). Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Sđd, tr.70. Có nhiều ý kiến và tài liệu chép khác nhau về thời điểm đồng chí Trần Quý Kiên bắt đầu làm Bí thư Thành ủy Hà Nội trong thời gian năm 1938.
(34). Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.172.
(35). Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.36.
(36). Đồng chí Phan Trọng Tuệ là Bí thư Chi bộ đầu tiên của Chi bộ Đa Phúc, dẫn theo Phan Trọng Tuệ, vị tướng - Bộ trưởng đức độ, tài năng, Nxb.Giao thông vận tải, 2005, tr.8.
(37). Tỉnh ủy Hà Tây, Lịch sử Đảng bộ Hà Tây, xuất bản năm 1992, tr.90. Ban Chấp hành Đảng bộ quận Hà Đông, Lịch sử Đảng bộ Quận Hà Đông (1926 - 2010), Nxb. Hà Nội, 2014, tr.55.
(38). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.6.
(39). Dẫn theo Nguyễn Xuân Thắng, Đồng chí Lương Khánh Thiện với cách mạng Việt Nam và quê hương Hà Nam, in trong: Nguyễn Xuân Thắng, Tư tưởng, lý luận với đổi mới và phát triển đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tr.394.
(40). Tỉnh ủy Bắc Giang, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập I (1926-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003, tr.78.
(41). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.7.
(42). Hồi ký của đồng chí Lê Thành viết về Nhà tù Sơn La lưu tại Bảo tàng tỉnh Sơn La. Đồng chí Lê Thành, nguyên ủy viên Trung ương Đảng - Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương.
(43). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.424.
(44). Lý lịch viết tay của đồng chí Trần Quý Kiên tại Ban Tổ chức Trung ương ngày 15-8-1952, tr.7.
(45). Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác, Sđd, tr.210-211.
(46). Tỉnh ủy Ninh Bình, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, tập I (1930-1975), xuất bản 1996, tr.79. Tỉnh ủy lâm thời gồm 6 đồng chí là: Nguyễn Văn Mộc, Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Văn ất, Phạm Văn Hồng, Phan Long, Đặng Văn Vệ.
(47). Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác (Hồi ức), Sđd, tr.216.
(48). Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác (Hồi ức), Sđd, tr.217.
(49). Đoàn cán do đồng chí Dương Văn Ty (tức Trần Quý Kiên) dẫn đầu và 11 cán bộ là: Vũ Ngọc Thành, Lê Vạn Thắng, Nguyễn Văn Tính, Lê Văn Dương, Trần Tích, Lê Việt Trung, Bùi Thọ Chuyên, Lãng, Bùi Hữu Định, Thủy, Thành, dẫn theo Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La, Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sơn La xuất bản, 2014, tr.36.
(50). Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La, tập I (1939-1954), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.103-104. Xem thêm: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Mộc Châu, Lịch sử Đảng bộ huyện Mộc Châu, tập 1 (1945-2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.42.
(51). Đại tướng Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, Nxb. Quân đội nhân dân, 1994, tr.43-44.
(52). Trung tướng Trần Quyết - người cộng sản trung kiên (hồi ký), Nxb. Văn hóa Thông tin, 2011, tr.306, 308.
(53). Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu, tập I (1945-1975), Sđd, tr.57.
(54). Đồng chí Trần Quý Kiên mất ngày 9-8-1965 (một số tư liệu chép nhầm là năm 1966) tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô, hưởng thọ 54 tuổi. Báo Nhân dân, số 4146, thứ Ba, ngày 10-8.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 9 (545), 2021, từ trang 67-79.