Trần Thị Hương
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Tóm tắt: Là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các tầng lớp phụ nữ, trong các nhiệm kỳ qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam luôn xác định công tác “Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” là một trong những nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của Hội. Các phong trào thi đua, cuộc vận động, chương trình, đề án của Hội đều hướng tới hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 2017-2022, các cấp Hội đã có nhiều đổi mới, sáng tạo, công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình, trọng tâm là cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” được triển khai đồng bộ, toàn diện, có kết quả thiết thực. Bài viết nêu lên những kết quả nổi bật của các cấp Hội LHPN Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh nhiệm kỳ 2017-2022. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những vấn đề cần quan tâm của Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 2022-2027 như: Xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; Vun đắp giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em trong gia đình, cộng đồng và xã hội; Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình…
Từ khóa: Phụ nữ; Hỗ trợ phụ nữ; Xây dựng gia đình; Hội Phụ nữ.
1. Đặt vấn đề
Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, gia đình luôn giữ vai trò là nền tảng, là tế bào của xã hội, là môi trường đầu tiên và quan trọng trong việc hình thành, giáo dục, nuôi dưỡng nhân cách, phẩm chất của mỗi người, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn nhân lực của quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình” (Hồ Chí Minh toàn tập, 1989).
Xác định vai trò quan trọng của gia đình, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm, ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, qua đó tác động tích cực tới đời sống gia đình, cộng đồng, trong đó có phụ nữ và trẻ em gái. Chỉ thị 49-CT/TW của Ban Bí thư về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi được ban hành năm 2014; ngày 28/6 Ngày Gia đình Việt Nam được tổ chức hàng năm trên phạm vi toàn quốc; Luật Bình đẳng giới; Luật phòng chống bạo lực gia đình; Chiến lược Phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030; Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020; và nhiều văn bản quan trọng khác...1. Nghị quyết của các kỳ Ðại hội Ðảng đều nhấn mạnh sự quan tâm đến gia đình, từ Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ VII xác định gia đình với tư cách là “tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, đến Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ XII, XIII luôn chú trọng “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”. Qua đó, các cấp, các các ngành, đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của gia đình đối với công cuộc xây dựng đất nước; quan tâm hơn đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng gia đình. Công tác xây dựng gia đình được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Điều kiện sống của các gia đình đã được cải thiện đáng kể, gia đình đã có những điều kiện cơ bản để thực hiện chức năng của mình, góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, gia đình Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức của quá trình phát triển và hội nhập, tác động đến hạnh phúc và sự bền vững của gia đình.
Là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các tầng lớp phụ nữ, trong các nhiệm kỳ qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn xác định công tác “Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” là một trong những nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của Hội. Các phong trào thi đua, cuộc vận động, chương trình, đề án của Hội đều hướng tới hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Đặc biệt trong nhiệm kỳ 2017-2022 các cấp Hội đã có nhiều đổi mới, sáng tạo, công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình, trọng tâm là cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” được triển khai đồng bộ, toàn diện, có kết quả thiết thực.
Bài viết này phân tích một số hoạt động thực tiễn của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thời gian từ 2017-2021 trong hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
2. Hội LHPN Việt Nam với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh
2.1. Triển khai thực hiện các phong trào thi đua, cuộc vận động, chương trình, đề án trọng tâm của Hội
Công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình được tập trung chỉ đạo, triển khai theo hướng vừa đề xuất tạo cơ chế, chính sách, mở rộng huy động nguồn lực xã hội, vừa truyền thông thay đổi hành vi. Các đề án2, nhất là Đề án 938 “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027” với các hình thức tuyên truyền, cung cấp kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, giáo dục tiền hôn nhân, nuôi dạy con, tuyên truyền chính sách dân số, tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc trẻ an toàn, về bảo vệ, giáo dục, chăm sóc trẻ em, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững… ngày càng thực chất.
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp Hội thông qua việc phân cấp và giao quyền cho Hội LHPN các cấp cụ thể hóa nội dung phong trào thi đua và cuộc vận động phù hợp với tình hình hội viên, phụ nữ và điều kiện, đặc thù của địa phương gắn với việc triển khai thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình hạnh phúc hàng năm. Cụ thể như phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”; “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”3. Đặc biệt, các tiêu chí của cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” đều hướng tới cấp hộ gia đình và trực tiếp góp phần thực hiện 11/19 tiêu chí nông thôn mới, có tác động tích cực trong việc hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Cấp trung ương tích cực đề xuất sửa đổi các thông tư, hướng dẫn thực hiện Chương trình; các cấp Hội địa phương chủ động đăng ký, đảm nhận các tiêu chí phù hợp với thực tế. Đáng chú ý, các tiêu chí “3 sạch” gắn với hàng ngàn công trình/ phần việc giữ gìn, bảo vệ môi trường do các chi/tổ Hội phụ nữ đảm nhiệm được triển khai linh hoạt, rộng khắp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và khẳng định vai trò của tổ chức Hội ở cơ sở. Đến nay các tỉnh, thành đều đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội về thực hiện Cuộc vận động.
Tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án về lĩnh vực gia đình nhằm tăng cường hiệu quả công tác gia đình, hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc: Dự án 3 - Đề án 279 “Hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững”; Đề án 404 “Đề án Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp, khu chế xuất đến 2020”; Đề án 938 “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027”; Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025”; Chương trình giáo dục đời sống gia đình, phòng chống bạo lực gia đình đến năm 2020. Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Chỉ thị 49-CT/TW của Ban Bí thư về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, v.v.
Tích cực phối hợp, đầu tư nghiên cứu, xây dựng các Đề án, góp phần cải thiện các vấn đề liên quan tới phụ nữ hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Từ năm 2017 Trung ương Hội đã đề xuất thành công được 04 Đề án: Đề án 938: “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027”; Tích cực phối hợp, đầu tư nghiên cứu, xây dựng các Đề án, góp phần cải thiện các vấn đề liên quan tới phụ nữ hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Từ năm 2017 Trung ương Hội đã đề xuất thành công được 04 Đề án: Đề án 938: “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027”; Đề án 939 “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025”; Đề án 1893: “Bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội LHPN các cấp và chi hội trưởng phụ nữ giai đoạn 2019-2025”; Dự án 8 thực hiện Bình đẳng giới và giải quyết một số vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
2.2. Đổi mới, tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc
Xác định vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho hội viên, phụ nữ, các thành viên trong gia đình và cộng đồng về lĩnh vực gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, trong những năm qua các cấp Hội đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt gắn nội dung tuyên truyền thông qua các phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”; “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” các nhiệm vụ trọng tâm, chương trình, đề án, Chỉ thị về công tác gia đình, v.v.
Hoạt động tuyên truyền được triển khai đến các tầng lớp phụ nữ và nhân dân về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến gia đình; các kiến thức, kỹ năng về giáo dục đời sống gia đình, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; bình đẳng giới, phòng chống bạo lực, tệ nạn xã hội; chăm sóc sức khỏe, nuôi dạy con; phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc... Các hoạt động truyền thông được tăng cường tổ chức vào các dịp kỷ niệm ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3), ngày Gia đình Việt Nam (28/6), ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10), ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (25/11), Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình với nhiều hoạt động sôi nổi, phong phú, đa dạng.
Điểm mới trong nội dung tuyên truyền vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình là các cấp Hội đã lựa chọn vấn đề ưu tiên gắn với phong trào thi đua, cuộc vận động và chủ đề hàng năm của Hội4, những vấn đề bức xúc, nổi cộm tại địa phương, với nội dung thiết thực, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của hội viên, phụ nữ và cộng đồng như: giáo dục, kiến thức kỹ năng làm cha mẹ; giáo dục trước hôn nhân; kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình; phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, phòng chống xâm hại, bảo vệ trẻ em, tư vấn học nghề và tạo việc làm… tổ chức các hội thảo khoa học, hội nghị, diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, tìm giải pháp hướng tới việc đảm bảo an toàn phụ nữ và trẻ em một cách hiệu quả5.
Từ các hoạt động này, nhận thức của cán bộ, hội viên và cộng đồng về vị trí, vai trò của gia đình, về kỹ năng sống, cách tổ chức cuộc sống gia đình và xây dựng mối quan hệ gia đình, bình đẳng giới trong gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, tăng cường hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình được nâng cao, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, phát triển bền vững, thực sự là tổ ấm của mỗi người6.
Hình thức tuyên truyền được các cấp Hội đầu tư, đổi mới theo hướng đa dạng, phong phú, tăng cường tính tương tác, cụ thể như truyền thông cộng đồng qua sinh hoạt chi/tổ hội, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, diễn đàn, hội thi, lễ mít tinh, phát động được các cấp Hội vận dụng sáng tạo để truyền tải các nội dung về gia đình một cách hiệu quả7, thu hút được đông đảo hội viên, phụ nữ và cộng đồng tham gia, đặc biệt là thu hút được nam giới, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng tuyên truyền viên ở cơ sở. Điểm mới trong công tác tuyên truyền cộng đồng như: tổ chức các chuỗi sự kiện quy mô lớn với sự tham gia của các đại sứ (những người nổi tiếng, người có tầm ảnh hưởng trong giới nữ, trong xã hội), phủ sóng toàn quốc để thu hút sự chú ý của đông đảo các tầng lớp phụ nữ và nhân dân. Một số sự kiện lớn, nổi bật có tính lan tỏa, tạo hiệu ứng xã hội mạnh như: Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”; Lễ phát động “Năm an toàn cho phụ nữ và trẻ em; Giao lưu truyền hình “Hạnh phúc gia đình Việt”; triển lãm, tọa đàm “Mẹ - bến đỗ an toàn và bình yên cho con”; “Giấc mơ gia đình”, “Màu hạnh phúc”…; Đẩy mạnh các hình thức truyền thông đa phương tiện thời công nghệ số...
Hội LHPN các cấp tăng cường phối hợp với với các ngành, đoàn thể khác để tuyên truyền rộng rãi, hiệu quả tới các tầng lớp phụ nữ, trong đó, nhiều chương trình đã hỗ trợ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc như: Chương trình phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về công tác gia đình; Chương trình phối hợp với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động trong nữ thanh niên giai đoạn 2018-2022; chương trình phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, Trường giáo dưỡng - Bộ Công an tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống đối với nữ phạm nhân; Chương trình phối hợp với Bộ Y tế về tuyên truyền, vận động, chăm sóc sức khỏe phụ nữ; Chương trình phối hợp với Bộ Tư pháp về đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2013-2017 và giai đoạn 2018-2022.
2.3. Xây dựng và nhân rộng các mô hình hỗ trợ phụ nữ
Các cấp Hội rất chú trọng đến hoạt động xây dựng, duy trì, nhân rộng các mô hình hỗ trợ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc hiệu quả. Điển hình là CLB xây dựng gia đình hạnh phúc, mô hình CLB xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch, mô hình địa chỉ tin cậy tại cộng đồng là mô hình phổ biến nhất ở các địa phương, có ý nghĩa tích cực, là cầu nối truyền tải thông tin, giao lưu, chia sẻ vấn đề về giáo dục gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con, kiến thức, kỹ năng phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Điểm mới trong nhiệm kỳ đã triển khai, nhân rộng mô hình Chi hội phụ nữ 5 không, 3 sạch xây dựng nông thôn mới” tại 46 tỉnh, thành với gần 3.500 Chi hội. Ngoài ra có một số mô hình cũng được các cấp Hội triển khai khá hiệu quả như Mô hình giáo dục kiến thức, kỹ năng làm cha mẹ với sự tham gia của các ông bố, bà mẹ có con dưới 16 tuổi. Tiêu biểu như CLB: “Người mẹ mẫu mực, bàn tay yêu thương của cha”, “Nhóm cha mẹ có con từ 0-8 tuổi”, “Cha mẹ nuôi dạy con tốt”, “Ông bố có con tuổi vị thành niên”… Mô hình dịch vụ gia đình đáp ứng phần nào nhu cầu của gia đình và phụ nữ, giúp chị em yên tâm lao động, sản xuất và giúp phụ nữ nông thôn có việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống gia đình8. Các mô hình cũng là kênh hiệu quả giúp các cấp Hội cũng nắm tâm tư, nguyện vọng của chị em phụ nữ để kịp thời chia sẻ, động viên, giúp đỡ về vật chất, tinh thần, tạo điều kiện cho chị em trong xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững. Các mô hình tư vấn, hỗ trợ hôn nhân, gia đình, an toàn cho phụ nữ và trẻ em được đẩy mạnh9, được triển khai rộng khắp 63 tỉnh, thành; mô hình là địa điểm tạm lánh để bảo vệ phụ nữ, trẻ em bị bạo lực, động viên về tinh thần, hướng dẫn chị em kiến thức, kỹ năng PCBLGĐ; tư vấn giải quyết các vấn đề liên quan đến hôn nhân, gia đình, bạo lực gia đình… góp phần giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình, ổn định an ninh trật tự xã hội.
Đặc biệt, mô hình Ngôi nhà bình yên của TW Hội đã trở thành mô hình điển hình trong hỗ trợ kịp thời, khẩn cấp và toàn diện cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, bị lạm dụng, xâm hại tình dục và mua bán người, giúp họ phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, tạo điều kiện để tái hòa nhập cộng đồng an toàn và bền vững thông qua các dịch vụ hỗ trợ về kiến thức, kỹ năng, pháp lý. Ngôi nhà bình yên cung cấp dịch vụ hỗ trợ miễn phí và toàn diện cho nạn nhân; tư vấn, hỗ trợ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích; hỗ trợ học văn hóa và học nghề, giới thiệu việc làm; hướng dẫn kỹ năng sống, giao tiếp ứng xử và ứng phó với bạo lực gia đình, mua bán người; hỗ trợ và theo dõi hồi gia10.
2.4. Phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
Các hoạt động hỗ trợ phụ nữ thoát nghèo, phát triển kinh tế được các cấp Hội quan tâm, đẩy mạnh, nhiều hoạt động thiết thực gắn với vận động phụ nữ thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương và các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới. Điểm mới, sáng tạo là các cấp Hội đã chuyển đổi phương thức hỗ trợ giảm nghèo theo hướng xây dựng các mô hình sinh kế tạo việc làm tại chỗ cho phụ nữ nghèo, chú trọng quan tâm phụ nữ nghèo dân tộc thiểu số, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ bị buôn bán trở về...; thành lập hợp tác xã/tổ hợp tác tại địa bàn các xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135, gắn với địa chỉ được hỗ trợ trong Chương trình đồng hành cùng phụ nữ biên cương bước đầu đã mang lại hiệu quả11. Hoạt động hỗ trợ cho hội viên phụ nữ nghèo được chuyển hướng từ cho không sang hỗ trợ có điều kiện, các hội viên được nhận hỗ trợ có cam kết thoát nghèo và tiếp tục hỗ trợ lại cho hội viên khác tương đương mức hỗ trợ được nhận ban đầu khi kinh tế phát triển. Phong trào vận động hội viên, phụ nữ xây dựng Mái ấm tình thương cho hội viên và phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tiếp tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của phụ nữ và nhân dân với tinh thần nhân ái, lá lành đùm lá rách12... Các hoạt động đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn có cuộc sống ổn định và ngày càng hạnh phúc hơn, tránh nguy cơ sa vào tệ nạn xã hội, trở thành nạn nhân bị mua bán hoặc rơi vào nhóm phụ nữ có mong muốn lấy chồng nước ngoài vì mục đích kinh tế13.
Các hoạt động hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các nguồn vốn vay phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững được đẩy mạnh với nhiều loại hình. Các cấp Hội đang quản lý nhiều nguồn vốn với tổng dư nợ gần 100.000 tỷ14, trong đó, Hội luôn là đoàn thể đi đầu với 6 điểm nhất trong hoạt động ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội15. Hội cũng đã ký kết văn bản thỏa thuận với Ngân hàng Nhà nước về thực hiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho hội viên phụ nữ phát triển sinh kế và việc làm bền vững. Hoạt động tài chính vi mô được phát triển theo hướng tăng dần tính hiệu quả, hướng đến đăng ký theo luật định, tạo sự chủ động về nguồn lực tài chính của các cấp Hội giúp cho phụ nữ phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu chính đáng16. Bên cạnh đó, TW Hội không ngừng nâng cao hoạt động hiệu quả của Quỹ TYM17, Quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo và thí điểm hoạt động Quỹ bảo hiểm vi mô.
Hoạt động tiết kiệm được các cấp Hội chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả, tạo được phong trào tiết kiệm trong phụ nữ. Ngoài việc củng cố các mô hình tiết kiệm hiện có, đã xuất hiện nhiều mô hình, cách thức tổ chức thực hiện sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của hội viên, phụ nữ, nổi bật như “Tiết kiệm mua bảo hiểm y tế”, “Túi rác tiết kiệm”, “Tiền lẻ đẻ ra vàng”... Tính đến 31/12/2019 thành lập được 317.654 tổ, nhóm tiết kiệm tại 63 tỉnh, thành, thu hút hơn 11,6 triệu hội viên phụ nữ tham gia hoạt động tiết kiệm, huy động được 10,48 nghìn tỷ đồng, cho trên 1,2 triệu lượt phụ nữ vay, không chỉ giúp nhau vốn sản xuất, kinh doanh mà còn giúp nhau mua bảo hiểm y tế, xây dựng công trình vệ sinh, thực hiện hoạt động nhân đạo từ thiện...
Công tác tuyên truyền, tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nữ luôn được cấp Hội quan tâm. Điểm mới là Hội LHPN các cấp đã xây dựng các mô hình đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn, mô hình giúp phụ nữ nghèo gắn với mô hình kinh tế tập thể nhằm tạo việc làm bền vững và thu nhập ổn định cho chị em phụ nữ, đồng thời góp phần thực hiện các tiêu chí nông thôn mới. Kết quả từ năm 2017 đến tháng 12/2019 đã hỗ trợ thành lập và duy trì hoạt động 492 Hợp tác xã; duy trì, hỗ trợ thành lập 2.579 tổ hợp tác; 3.359 tổ liên kết; tổ chức đào tạo nghề, phối hợp đào tạo nghề cho hơn 1,4 triệu lao động nữ; tuyên truyền, tư vấn, giới thiệu việc làm cho hơn 3,3 triệu lượt lao động nữ.
Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp: Thông qua đề án Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025, Qua 4 năm triển khai, đã có hơn 8,2 triệu hội viên phụ nữ được truyền thông, hướng dẫn khởi nghiệp, phát triển kinh doanh, hơn 38 nghìn phụ nữ khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp; thành lập mới 845 doanh nghiệp, hơn 13,000 phụ nữ có ý tưởng được vay với số vốn là hơn 237 tỷ đồng. Đã có 13 tỉnh/thành có Quỹ hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, cả nước có 31 Hội doanh nhân nữ với gần 6.000 hội viên; 362 Câu lạc bộ nữ doanh nhân với nhiều hoạt động hỗ trợ, kết nối phát triển kinh tế vùng nông thôn; hỗ trợ, tư vấn cho trên 38 nghìn phụ nữ khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp; trên 25 nghìn doanh nghiệp nữ được tư vấn, đào tạo, kết nối vay với số vốn hơn 148 tỷ đồng. Có thể nói, những hoạt động đồng hành, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp của Hội đã góp phần không nhỏ giúp chị em nâng cao quyền năng kinh tế, phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển bền vững.
2.5. Phối hợp tham mưu đề xuất chính sách, đề án, chương trình về lĩnh vực gia đình
Các cấp Hội tích cực tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, đề án liên quan đến lĩnh vực gia đình, phụ nữ, trẻ em, nổi bật. Từ năm 2017 đến nay, các cấp Hội đã có 407 đề xuất chính sách, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch hoạt động. Trong đó, riêng cấp TW Hội đã đề xuất thành công 04 Đề án18; Phối hợp với các Bộ ngành liên quan tham gia Ban soạn thảo và tổ biên tập xây dựng các văn bản liên quan về lĩnh vực gia đình: Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030; Chương trình quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình trong tình hình; Đề án thành lập BCĐQG về dân số và phát triển; Tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống bạo lực gia đình... Tại các tỉnh/thành Hội đã tham mưu, đề xuất các đề án/chương trình như xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau biết chữ cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số; tuyên truyền, hỗ trợ phụ nữ vùng giáo, vùng biển phát triển kinh tế; hỗ trợ tầm soát, phát hiện sớm ung thư vú, ung thư cổ tử cung cho phụ nữ...
Hoạt động phản biện xã hội (PBXH) luôn được đầu tư và có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung phản biện dự thảo văn bản liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của hội viên, phụ nữ, gia đình. Đặc biệt, Hội đã tích cực tham gia PBXH Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)19. Trên cơ sở đó, một số ý kiến phản biện của Hội đã được Ban soạn thảo, cơ quan thẩm tra tiếp thu, chỉnh lý như vấn đề mở rộng phạm vi điều chỉnh đến lao động không có quan hệ lao động, bảo vệ thai sản, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, quấy rối tình dục, thu hẹp khoảng cách giới, linh hoạt đối với các nhóm lao động trong quy định tuổi nghỉ hưu. Hội tích cực tham gia, vận động lồng ghép giới vào Chương trình MTQG phát triển bền vững vùng DTTS&MN giai đoạn 2021-203020 và đã được tiếp thu vào Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2030” trong đó có đề ra mục tiêu thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em và Nghị quyết số 12/NQ-CP ngày 15/2/2020 của Chính phủ về triển khai thực hiện NQ số 88/2019/QH14 đã giao trách nhiệm cho Hội LHPN Việt Nam chủ trì phối hợp với Ủy ban Dân tộc, Bộ Y tế, các bộ ngành, địa phương liên quan xây dựng Dự án số 8: “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em”21.
Bên cạnh đó, các cấp Hội ngày càng phát huy vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trước thực trạng các vụ việc bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em diễn ra ngày càng phức tạp, Hội thành lập các tổ công tác, tổ tư vấn hỗ trợ/tham gia giải quyết các vụ việc, điểm nóng liên quan đến phụ nữ, trẻ em và tổ chức Hội LHPN Việt Nam ở cấp TW và tỉnh/thành; tạo mạng lưới tư vấn, hỗ trợ; tăng cường tham vấn chuyên gia; thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ trong công tác bảo vệ phụ nữ, trẻ em thông qua chủ động ký kết chương trình phối hợp với các ngành chức năng (Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam), đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng (Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao)22. Ban hành Quy định và hướng dẫn các cấp Hội tham gia giải quyết các vụ việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ và trẻ em23; TW Hội chú trọng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp trong tham mưu giải quyết vụ việc24; tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong can thiệp, xử lý những vụ việc xâm phạm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của phụ nữ (điển hình là kết quả vụ việc năm 2018 bảo vệ lao động nữ Việt Nam đang làm việc ở Ả rập Xê út bị ngược đãi, bạo hành, bóc lột, bị các công ty xuất khẩu lao động bỏ mặc25).
3. Những vấn đề cần quan tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2022-2027
3.1. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới
-
Khuyến khích các tầng lớp phụ nữ chủ động học tập, nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Tiếp tục tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham gia vào thị trường lao động mở, hướng đến những ngành nghề có trình độ kỹ thuật cao, thu nhập ổn định.
-
Giáo dục thẩm mĩ, kỹ năng sống, rèn luyện thể chất, nâng cao đời sống tinh thần, tiếp tục vận động mỗi phụ nữ lựa chọn một hình thức văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao phù hợp; vận động phụ nữ tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp. Nghiên cứu, vận động, đề xuất chính sách chi trả bảo hiểm y tế cho tầm soát một số bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ.
-
Kết nối, tư vấn, hỗ trợ giải quyết khó khăn và phát huy vai trò của một số nhóm phụ nữ đặc thù như bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ khuyết tật, cao tuổi, lao động nữ di cư. Phấn đấu ít nhất 80% phụ nữ khuyết tật được các cấp Hội hỗ trợ bằng các hình thức khác nhau. Tổ chức thực hiện tốt chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương” năm 2021-2025; dự án “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”, góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia “Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030”.
3.2. Vun đắp giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam; xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em trong gia đình, cộng đồng và xã hội
-
Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch, góp phần vun đắp giá trị tốt đẹp26 của gia đình Việt Nam” với các tiêu chí cụ thể, phù hợp, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh.
-
Nâng cao chất lượng thực hiện các tiêu chí liên quan đến gia đình và bình đẳng giới thuộc nhiệm vụ Hội LHPN Việt Nam đã được phân công trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2030; Nghiên cứu thí điểm thực hiện tiêu chí “5 có”27 tại các địa bàn xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và đô thị văn minh. Đề xuất nội dung giáo dục làm cha mẹ trong các chương trình/đề án liên quan của Chính phủ; xây dựng và triển khai Bộ tài liệu về giáo dục gia đình, về các giá trị của gia đình Việt Nam; đề xuất chính sách hoặc đề án hỗ trợ cha mẹ có con dưới 36 tháng tuổi gửi trẻ ở vùng có khu công nghiệp, khu chế xuất, đông lao động nữ di cư. Tham gia thực hiện có trách nhiệm Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030 của Chính phủ.
-
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ thông qua mở rộng các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; chủ động kết nối với các Trung tâm trợ giúp pháp lí, đường dây nóng, các văn phòng luật sư, mô hình hỗ trợ phụ nữ, trẻ em, Chi hội Bảo vệ quyền trẻ em tại địa phương... Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết đơn thư, kịp thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề bức xúc của phụ nữ; kiến nghị, xử lý nghiêm theo pháp luật các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em; đẩy mạnh thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành, đặc biệt là chương trình phối hợp giữa Hội với các cơ quan tố tụng trong phát hiện, lên tiếng, bảo vệ, kiến nghị, giải quyết các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em.
-
Tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và kỹ năng cho phụ nữ phòng chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội trong các ban chỉ đạo/ban chỉ huy phòng chống thiên tai các cấp, trọng tâm là “hậu cần tại chỗ” trong phương châm “4 tại chỗ”. Đẩy mạnh vai trò của tổ chức Hội trong tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường, tập trung hưởng ứng phong trào trồng 1 tỷ cây xanh của Chính phủ, phân loại rác thải tại nguồn và chống rác thải nhựa.
3.3. Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình
-
Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế hộ, kinh tế số và chủ động tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương, đất nước. Hỗ trợ phụ nữ sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, góp phần thực hiện chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm (OCOP) của Chính phủ. Chú trọng hỗ trợ thành lập, nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tác xã, tổ hợp tác do phụ nữ quản lý; tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực cho phụ nữ là chủ doanh nghiệp, quản lý HTX, chủ hộ kinh doanh; hỗ trợ phụ nữ kết nối, tiêu thụ sản phẩm qua các kênh phân phối phù hợp nhu cầu của thị trường. Đề xuất và thực hiện đề án hỗ trợ HTX do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ giai đoạn 2022-2030.
-
Liên kết với các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, trong đó, tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ tham gia thương mại điện tử. Phát huy vai trò, thế mạnh và tăng cường phối hợp giữa Hiệp hội, Hội, Câu lạc bộ nữ doanh nhân với tổ chức Hội các cấp trong hoạt động phát triển kinh tế.
-
Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025 (Đề án 939), mở rộng kết nối, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ.
-
Tuyên truyền vận động phụ nữ phát huy nội lực, hỗ trợ, giúp nhau giảm nghèo bền vững; tiếp tục thực hiện các mô hình tiết kiệm tín dụng, các mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện của phụ nữ và ưu tiên phát triển của địa phương, tập trung hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn.
-
Phối hợp, mở rộng liên kết đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm theo nhu cầu của thị trường lao động, tập trung hỗ trợ các nhóm lao động nữ chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trường trung cấp Lê Thị Riêng và chức năng dạy nghề của các Trung tâm Vì sự phát triển phụ nữ của Trung ương và một số tỉnh.
3.4. Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới - tạo nền tảng vững chắc để phụ nữ xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh
-
Thường xuyên cập nhật quy định pháp luật, chính sách hiện hành, đồng thời, phát hiện vấn đề từ thực tiễn, các vấn đề thiết thân của phụ nữ để xác định, lựa chọn các nội dung, vấn đề giám sát phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của từng nhóm phụ nữ, theo từng thời điểm, địa bàn, vùng miền; quan tâm đến các vấn đề mới, vấn đề bức thiết của phụ nữ.
Chú trọng phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội trong các đoàn giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước các cấp; các đoàn giám sát liên ngành việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới. Khuyến khích cán bộ, hội viên phụ nữ phát hiện, phản ánh các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, chính sách tại địa bàn dân cư.
-
Chủ động nghiên cứu, dự báo các vấn đề phát sinh trong thực tiễn để kịp thời đề xuất, góp ý, phản biện xã hội, tập trung vào những vấn đề an sinh xã hội cho các nhóm phụ nữ đặc thù, các vấn đề phụ nữ và gia đình trong bối cảnh Covid-19 và hội nhập, vấn đề lao động - việc làm...; phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn để làm bằng chứng, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngôn luận tạo sự ủng hộ của xã hội đối với các nội dung phản biện xã hội.
Cấp Trung ương và cấp tỉnh bám sát chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, chương trình hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân để đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cấp huyện và cấp xã căn cứ chương trình làm việc của cấp ủy và chính quyền địa phương để chủ động đề xuất, góp ý về những vấn đề liên quan đến phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới và tổ chức Hội.
Tài liệu trích dẫn
Hồ Chí Minh toàn tập - Tập III. 1989. Nxb. Sự thật, Hà Nội.
Ghi chú:
1/ Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30/5/2008 của TTg về việc tổ chức triển khai thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định số 08/2009/NĐ- P ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định số 02/2013/NĐ - CP ngày 03/01/2013 của CP Quy định về công tác gia đình. Nghị quyết số 81/NQ - CP ngày 04/12/2012 của CP ban hành Kế hoạch thực hiện Thông báo kết luận số 26 - TB/TW ngày 09/5/2011 của Ban Bí thư về việc sơ kết Chỉ thị số 49 - CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư (khóa IX) về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. QĐ số 72/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 của TTg về Ngày Gia đình Việt Nam. QĐ số 2589/QĐ-TTg ngày 26/12/2013 của TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hàng năm”. QĐ số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của TTg phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. QĐ số 21/2016/QĐ-TTg ngày 17/5/2016 của TTg về việc ban hành Quy chế phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình. Quyết định số 363/QĐ-TTg ngày 08/3/2016 của TTg Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 29/3/2017 của TTg về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình. QĐ số 4022/QĐ-BVHTTDL ngày 18/11/2017 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL ban hành Bộ chỉ số theo dõi và đánh giá thực hiện CTHĐ quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình. Kế hoạch số 1797/KH-BVHTTDL ngày 28/4/2017 của Bộ VHTTDL triển khai Chỉ thị của TTg về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình.
2/ Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027” (đề án 938), Dự án 3 của đề án “Phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020” (đề án 279), đề án “Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp, khu chế xuất đến 2020” (đề án 404).
3/ 5 không: không đói nghèo, không có người vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba trở lên (từ năm 2017 điều chỉnh thành Không vi phạm chính sách dân số) không có trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học; 3 sạch: Sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ.
4/ Năm 2017: Chủ đề thi đua “Đổi mới, sáng tạo trong triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu PNTQ lần thứ XII”. Năm 2018: Thực hiện chủ đề năm “Phụ nữ thực hiện an toàn thực phẩm” và đợt thi đua đặc biệt “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”. Năm 2019: Thực hiện chủ đề năm “An toàn cho phụ nữ và trẻ em”.
5/ Hội thảo khoa học quốc gia “Không gian an toàn cho phụ nữ và trẻ em - khuyến nghị chính sách”; Diễn đàn Phụ nữ Việt Nam - Hàn Quốc lần thứ 7 với chủ đề “An toàn cho phụ nữ và trẻ em - nỗ lực thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững”, toạ đàm “Lên tiếng để hành trình của con an toàn”; triển lãm “Mẹ - bến đỗ an toàn và bình yên cho con”; “Giấc mơ gia đình”, “An toàn cho phụ nữ cao tuổi”.
6/ Kết quả các cấp Hội tổ chức được: 709.533 cuộc truyền thông với 64.768.170 người tham dự; 675 cuộc Hội thi, mittinh, hội nghị, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề với 8.267.809 người tham gia; Tổ chức sinh hoạt chi/tổ hội..: 5.316.590 cuộc/29.146.740 người tham gia.
7/ Hàng năm, vào các dịp kỷ niệm ngày Quốc tế hạnh phúc, ngày Gia đình Việt Nam 28/6, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ 25/11, Tháng hành động Vì trẻ em… nhiều hoạt động truyền thông cộng đồng được tổ chức với các chủ đề về xây dựng gia đình hạnh phúc. Các cấp Hội đã tổ chức được 1.782.547 cuộc truyền thông tại cộng đồng với 272.653.988 lượt người tham dự; 100% các tỉnh/thành tổ chức các hoạt động hưởng ứng Năm Gia đình Việt Nam.
8/ Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành: 3.263 CLB nấu cỗ/1.5023 thành viên; 151 CLB đưa đón trẻ đi học/830 thành viên; 448 nhóm trẻ gia đình/2222 thành viên, 162 mô hình giúp việc gia đình/1263 thành viên.
9/ Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành có 35.285 mô hình Địa chỉ tin cậy tại cộng đồng.
10/ Tính đến năm 2019 đã hỗ trợ tham vấn trên 10.000 lượt, cho trên 7000 người; tiếp nhận và hỗ trợ gần 1.300 phụ nữ, trẻ em bị bạo lực gia đình, bị xâm hại tình dục, bị mua bán từ 35 tỉnh, thành phố và 16 dân tộc. Điểm mới từ năm 2017, mô hình phòng tham vấn thực hiện thí điểm Trung tâm cuộc gọi 1900969680 để dần thay thế đường dây nóng, sẵn sàng hỗ trợ 24/7. Trong giai đoạn 2015-2020, Phòng Tham vấn đã cung cấp dịch vụ tham vấn cho 4.566 người và 5.760 lượt về bình đẳng giới, quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ, trẻ em gái.
11/ Chương trình đồng hành cùng phụ nữ biên cương đã vận động được 74 tỷ hỗ trợ 110 xã biên giới đặc biệt khó khăn thuộc 26 tỉnh biên giới.
12/ 2010-2019: Các cấp Hội đã hỗ trợ xây mới và sửa chữa 30.230 Mái ấm tình thương.
13/ Kết quả: Bằng nhiều hình thức, trung bình hàng năm các cấp Hội đã giúp được trên 90.000 hộ thoát nghèo...
14/ Dự nợ Ngân hàng CSXH: 77.000 tỷ, Ngân hàng NN và PTNT: 19.800 tỷ, TYM: 1.600 tỷ; các chương trình, dự án TCVM gần 1.500 tỷ đồng (tính đến tháng 6/2019).
15/ Dư nợ cao nhất, nợ quá hạn thấp nhất, số tổ TKTD nhiều nhất, số dư tiết kiệm nhiều nhất, tỷ lệ thành viên tham gia tiết kiệm cao nhất, số tổ TKTD được xếp loại tốt nhiều nhất.
16/ Tính đến 31/7/2019, có 52/63 tỉnh/thành có chương trình, dự án tín dụng vi mô trong đó có 3 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép, 23 Quỹ xã hội và có 147 chương trình/dự án tín dụng vi mô.
17/ Tính đến hết tháng 12/2020, TYM có 21 chi nhánh, hoạt động tại 13 tỉnh/thành và 71 huyện/thị với 160.813 thành viên, chủ yếu là phụ nữ nghèo, cận nghèo, có hoàn cảnh khó khăn và thu nhập thấp khu vực nông thôn.
18/ Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017-2027” (gọi tắt là Đề án 938); Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” (gọi tắt là Đề án 939) và Đề án “Bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội LHPN các cấp và chi hội trưởng phụ nữ giai đoạn 2019-2025” (gọi tắt là Đề án 1893); Dự án 8 thực hiện Bình đẳng giới và giải quyết một số vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
19/ Ban hành 02 Kế hoạch phản biện xã hội và lấy ý kiến các tầng lớp phụ nữ; Đến ngày 29/7/2019, các cấp Hội đã lấy 1.030.191 ý kiến của các tầng lớp phụ nữ; Riêng TW Hội khảo sát 5 tỉnh, tổ chức 07 Hội thảo, tọa đàm; phối hợp với Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức “Hội nghị phản biện xã hội Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) dưới góc độ giới” với sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ cơ quan chủ trì soạn thảo, các Bộ ngành, tổ chức liên quan, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện doanh nghiệp và người lao động.
20/ Xây dựng Dự thảo Đề án, Dự thảo Chương trình MTQG phát triển tổng thể vùng DTTS; xây dựng tài liệu vận động chính sách “Để phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau” cung cấp cho các đại biểu Quốc hội (tại kỳ họp tháng 10/2020).
21/ Quy mô khái toán đề xuất ngân sách khoảng trên 3,300 tỷ/10 năm.
22/ Chương trình phối hợp số 11/CTPH-TWHLHPN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/02/2019 giữa TW Hội LHPN Việt Nam và Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về phối hợp trong công tác bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2019-2022; Chương trình phối hợp số 60/CTPH-BTP-HLHPNVN giữa Bộ Tư pháp và Hội LHPN Việt Nam ngày 05/01/2018 “Thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho phụ nữ; hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2018-2022”; Chương trình phối hợp số 377/CTPH-HLGVN-HLHPNVN giữa Hội Luật gia Việt Nam và Hội LHPN Việt Nam ngày 6/12/2018 “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng chính sách pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý và giám sát việc thi hành pháp luật, hòa giải ở cơ sở giai đoạn 2018-2022”.
23/ Ban hành kèm theo Quyết định số 1452/QĐ -ĐCT ngày 17/5/2018 của Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam.
24/ Thông qua việc hàng năm tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Hội theo phân cấp về kỹ năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề của phụ nữ; tập huấn quy trình lên tiếng các vụ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em; kỹ năng tuyên truyền, vận động; kỹ năng giám sát, phản biện; vận động, đề xuất chính sách.
25/ Cục Quản lý Lao động ngoài nước và Cục Lãnh sự xác minh, giải quyết công văn của Đoàn Chủ tịch TW Hội đề nghị xác minh vụ việc và giải quyết theo quy định của pháp luật theo quy định và phúc đáp kết quả giải quyết cho Hội.
26/ Có thể tập trung các giá trị: kinh tế (no ấm); văn hóa, đạo đức (hiếu thảo, gia phong nề nếp), giá trị con cái (sinh sản nuôi dưỡng).
27/ “5 Có” gồm: Có ngôi nhà an toàn; Có sinh kế bền vững; Có sức khỏe; Có kiến thức; Có nếp sống văn hóa.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 31, số 3, tr. 14-27, 2021.