Chính phủ kiến tạo trong hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp cận từ FTA Việt Nam - EU*

Chính phủ kiến tạo trong hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp cận từ FTA Việt Nam - EU*

26/02/2020

PGS. TS. Nguyễn An Hà, Viện Nghiên cứu châu Âu,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 

Như Nghị quyết Đại hội 12 Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định  “Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế. Việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành Cộng đồng ASEAN trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức[1].

Rõ ràng giai đoạn tới đây, các Hiệp định tự do thế hệ mới sẽ là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Việt Nam đang triển khai các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới như FTA với Liên minh châu Âu EU và FTA với Liên minh kinh tế Á – Âu gồm Nga và các nước Belorus, Cazacstan, Armenia, TPP với các nước châu Á - TBD,. Việt Nam cũng đang chủ động tích cực trong việc hội nhập với Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC và Khu vực thương mại tự do RCEP với Trung Quốc. Bối cảnh phát triển mới cũng đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho quá trình hội nhập, trong đó việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đang được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu, một nội dung quan trọng trong thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội 12,  hướng tới một “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân”, tạo dựng một khung khổ thẻ chế cho nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập hiệu quả với khu vực và thế giới. Cần khẳng định thêm đây cũng là những nhiệm vụ mà chúng ta phải nỗ lực thực hiện theo cam kết với WTO cũng như để triển khai FTA với EU vào năm 2018.

Trên cơ sở các nghiên cứu về Liên minh châu Âu liên quan tới đề tài cấp nhà nước  "Cục diện kinh tế thế giới hiện nay và tác động đến Việt Nam" mã số ĐTĐL-XH.17/15, bài báo  này trình bày một số điều chỉnh chính sách FTA của EU, đánh giá, dự báo những tác động có thể từ Hiệp định tự do hóa thương mại Việt Nam EU từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với nhà nước nhằm kiến tạo các điều kiện, thực thi cam kết để hội nhập hiệu quả với EU và các nước thành viên.   

1. Điều chỉnh chính sách FTA của Liên minh châu Âu

Với Việt Nam Liên minh châu Âu cũng là đối tác quan trọng hàng đầu. Việt Nam hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi, phù hợp với các động lực của EU và là một trong những lựa chọn hàng đầu của EU trong điều chỉnh chiến lược, triển khai các FTA song phương thế hệ mới[2]. Đó là quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU liên tục phát triển tốt đẹp trong hơn 25 năm qua. Hai bên đã kí kết Hiệp định khung Hợp tác đối tác PCA, và một loạt các cường quốc chủ chốt trong khu vực đều là đối tác chiến lược của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng, thương mại hàng hóa tăng hơn 4 lần, thương mại dịch vụ tăng hơn 2 lần. EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, là nhà viện trợ ODA lớn nhất, là nhà đầu tư hàng đầu, có mặt trong mọi lĩnh vực kinh tế quan trọng của Việt Nam[3].

Liên minh châu Âu chịu tác động nặng nề của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, với các hậu quả tăng trưởng thấp, thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách và nợ công cao. Trong bối cảnh như vậy, EU thực hiện những điều chỉnh mạnh mẽ trong chiến lược phát triển, trong đó có chinh sách kinh tế đối ngoại cũng như các hiệp định thương mại tự do FTA với các đối tác. Những nội dung chính trong Chiến lược phát triển tới 2020 được EU không chỉ tập trung vào việc vượt qua khủng hoảng, hỗ trợ nền kinh tế hồi phục, mà còn nhằm khắc phục những chỗ yếu kém trong mô hình phát triển hiện tại, đồng thời kiến tạo một điều kiện phát triển thông minh, bền vững và bao trùm. Ba ưu tiên chiến lược trọng điểm phát triển là:

- Phát triển thông minh: phát triển nền kinh tế dựa trên kiến thức và sáng tạo:

- Phát triển bền vững: nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hướng tới một nền kinh tế xanh và có tính cạnh tranh đồng thời ứng phó với biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường:

- Phát triển bao trùm: thiết lập một nền kinh tế với tỉ lệ lao động cao, thu nhập tốt, tạo ra sự gắn kết về kinh tế, xã hội và lãnh thổ[4]..

Chiến lược kinh tế đối ngoại, một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển cũng được Ủy ban Châu Âu phác thảo tới năm 2020 trong đó nhấn mạnh việc tiếp tục kí kết những đàm phán thương mại song phương và đa phương, đặc biệt với các nền kinh tế tiềm năng nhất, cũng như sự thúc đẩy các thỏa thuận kinh tế hiện tại, tập trung vào rào cản phi thuế quan với thương mại; Chú trọng thúc đẩy thương mại cho các lĩnh vực tiềm năng của EU như sản phẩm và công nghệ xanh, sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, hướng tới phát triển bền vững.

EU coi chính sách kinh tế đối ngoại và các hiệp định thương mại tự do đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh mô hình phát triển. EU có nhiều điều chỉnh từ mức độ ưu tiên theo khu vực địa lý dịch chuyển dần từ châu Phi sang châu Á, tới cách thức đàm phán, và triển khai kí kết chú trọng tới song phương, và đặc biệt là các nội dung của FTA nhằm tạo điều kiện để EU tận dụng khả năng cạnh tranh, bám sát vào các mục tiêu phát triển, hướng tới đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư liên quan tới dịch vụ, một lĩnh vực mà EU có nhiều ưu thế.

Sau giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 trở lại đây, cùng với việc điều chỉnh chiến lược tăng trưởng, có thể thấy sự điều chỉnh chính sách FTA của EU khá rõ nét. 

Thứ nhất, về mục tiêu, EU tập trung chủ yếu cho lợi ích kinh tế trong các FTA, bám sát các nội dung của chiến lược tăng trưởng thông minh, tăng trưởng bao trùm và tăng trưởng bền vững của mình.

Thứ hai, một điểm nhấn quan trọng trong điều chỉnh FTA của EU là thay đổi cơ cấu thương mại đầu tư chuyển dịch sang lĩnh vực dịch vụ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như phù hợp với bối cảnh mới và chiến lược tăng trưởng thông minh và bao trùm của EU. EU chủ trương hướng tới thúc đẩy hơn nữa thương mại dịch vụ với bên ngoài và tự do hóa thương mại dịch vụ sẽ là trọng tâm trong các FTA thế hệ mới của EU.

Thứ ba, EU có những thay đổi về cơ cấu địa lý trong chính sách FTA, chuyển hướng mạnh sang châu Á. Châu Á đang nổi lên như một động lực quan trọng của kinh tế toàn cầu và cũng chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược FTA của EU hiện nay. Trong đó, việc mở rộng quan hệ đầu tư và thương mại giữa EU với châu Á được coi là một ưu tiên quan trọng của EU. Các tiêu chí cụ thể được EU tập trung trên cả hai góc độ là mức độ tăng trưởng của thị trường và quy mô của thị trường đối tác. Ngoài ra, các tiêu chí về mức độ bảo hộ thị trường, rào cản thuế quan, phi thuế quan, vấn đề quyền sở hữu trí tuệ… ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các nhà xuất khẩu của EU cũng được xem xét khi triển khai các FTA.

Thứ tư, EU chuyển từ các FTA đa phương sang FTA song phương. Quá trình đàm phán và triển khai FTA của EU với các nước ASEAN thể hiện rất rõ  điều chỉnh linh hoạt này của EU. Những nỗ lực đàm phán để hướng tới FTA EU - ASEAN những năm đầu thế kỉ 21 đều không tiến triển, buộc EU phải điều chỉnh hướng sang các FTA song phương với các nước thành viên ASEAN. Tháng 3/2010 EU đã chính thức khởi động đàm phán Hiệp định Tự do hóa thương mại FTA với Singapore, tháng 9/2010, EU cũng đã chính thức khởi động đàm phán với Malaysia, tiếp đó  EU cũng triển khai đàm phán FTA với Việt Nam và Thái Lan từ năm 2012.

2. Dự báo một số tác động của FTA Việt Nam EU tới Việt Nam

Thứ nhất, Hiệp định này sẽ mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức.Khi triển khai Hiệp định FTA với EU ước tính GDP của Việt Nam có thể tăng trên 15%, tiền lương thực tế của lao động có chuyên môn tăng khoảng 12%, của lao động không có chuyên môn tăng khoảng 13% và kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 35%. Ngoài ra trong tương lai gần khi Việt Nam tiến tới “bẫy thu nhập trung bình”, FTA cũng là một công cụ quan trọng  hỗ trợ cho Việt Nam thoát khỏi bẫy này[5].

Tiếp đó việc tận dụng FTA với EU tăng cường thu hút FDI, chuyển hướng mạnh sang công nghệ cao và dịch vụ thân thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu của EU trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang manh nha sẽ giúp Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, “vượt lên” giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc cũng như hội nhập hiệu quả vào Cộng đồng kinh tế ASEAN[6].

Một số tác động tới các lĩnh vực cụ thể như:

Đối với thương mại hàng hóa, FTA VN – EU sẽ tạo cơ hội để ngành dệt may tái cấu trúc và tăng cường chủ động về nguồn nguyên liệu để thu hút đầu tư và nâng cao giá trị gia tăng. Ngành giầy dép Việt Nam là ngành sẽ được hưởng lợi nhiều nhất sau khi FTA được kí kết vì EU đang là thị trường nhập khẩu lớn nhất của ngành này.

    Ngoài ra FTA EU - VN sẽ mang lại những cơ hội cho ngành chế biến gỗ, một ngành đang có mức độ tăng trưởng rất nhanh,  như: sẽ được hưởng thuế suất 0% cho ít nhất 90 sản phẩm gỗ XK từ Việt Nam; đồng thời sẽ được giảm giá máy móc thiết bị chế biến gỗ nhập khẩu từ các nước đối tác EU. Với ngành dệt may, sẽ phải đối mặt với những thách thức như: Xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, dẫn tới phụ thuộc vào nguyên phụ nhập khẩu. Chẳng hạn bông phải nhập đến 99%, nguyên liệu xơ nhập 50% từ các nước, chưa kể các loại phụ liệu mà đa số đến từ Trung Quốc. Trong khi đó một trong những điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan là phải chứng minh nguyên, phụ liệu có xuất xứ từ Việt Nam.

Đối với  thương mại dịch vụ, các cơ hội đưa lại là:  Chính sách cho khu vực dịch vụ sẽ minh bạch hơn; Gia tăng đầu tư của EU vào lĩnh vực dịch của Việt Nam; Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia thị trường dịch vụ của EU một cách bình đẳng hơn; Phát triển dịch vụ sẽ giúp cho Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao hơn, hội nhập hiệu quả hơn vào khu vực, đồng thời rút gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.  Thách thức từ FTA VN – EU trong lĩnh vực dịch vụ cũng chính là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam còn thấp, pháp luật chưa hoàn thiện.  

Đối với hợp tác đầu tư, cơ hội chính là khi FTA EU – VN có hiệu lực, thúc đẩy, gia tăng đầu tư của các nước EU  vào Việt Nam, đặc biệt trong một số lĩnh vực Việt Nam mong muốn như phát triển các ngành công nghệ cao, nâng cao trình độ của các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, tạo khả năng cho Việt Nam tham gia tốt hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; Liên  quan  đến  đầu  tư  trong  các  lĩnh  vực  dịch  vụ:  FTA Việt Nam - EU  tăng FDI từ các nước EU về nhiều ngành dịch vụ mà Việt Nam đang rất cần như: dịch vụ tài chính- ngân hàng- bảo hiểm, năng lượng, viễn thông, cảng biển và vận tải biển …; Liên quan đến môi  trường kinh doanh: Những  thay đổi “ngang”  trong pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh (pháp luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường)… theo các yêu cầu trong FTA với EU sẽ giúp cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam, từ đó tăng sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư; Liên quan đến phát triển lan tỏa, xét từ khía cạnh tăng cường đầu tư thì Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều từ FTA với EU.

Với mục tiêu phát triển bền vững, FTA EU – VN khi được triển khai sẽ tác động tới phát triển bền vững ở Việt Nam trên một số khía cạnh sau: Việt Nam áp dụng các  cam kết về môi  trường  trong FTA;  các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ thay đổi nhận thức về vấn đề môi  trường, biến đổi khí hậu   cũng  như  chiến  lược  kinh  doanh  liên  quan đến những vấn  đề này; Các doanh nghiệp Việt Nam có  thể  tiếp cận công nghệ,  máy móc thiết bị nhập khẩu từ EU với giá rẻ hơn, thân  thiện với môi  trường  theo  tiêu  chuẩn mà EU đang áp dụng.

Tuy nhiên còn hàng loạt các thách thức đặt ra, trước hết là hoàn thiện nền kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, khắc phục các nút thắt về hạ tầng thể chế nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc DNNN, tái cấu trúc đầu tư công và hệ thống ngân hàng tài chính ...Cơ hội càng lớn, thách thức càng nhiều, đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của nhà nước, doanh nghiệp, của bộ ngành, địa phương và phải có hệ thống những giải pháp từ vĩ mô tới vi mô, vừa đồng bộ trong một thể thống nhất gắn với chiến lược phát triển lâu dài của đất nước, vừa chi tiết, cụ thể, linh hoạt trong từng thời kì và phụ thuộc vào đặc thù của địa phương, lĩnh vực và qui mô doanh nghiệp.

3. Phát huy vai trò của Chính phủ kiến tạo để triển khai hiệu quả FTA Việt Nam - EU:

Trong triển vọng FTA VN – EU sắp sửa được phê chuẩn và có hiệu lực vào năm 2018, Việt Nam cần tăng tốc chuẩn bị tốt các điều kiện như hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập hiệu quả, Chính phủ „kiến tạo“ cần tập trung ưu tiên:  

Thứ nhất, Việt Nam cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo các chuẩn mực quốc tế.

Đây là điều kiện tiên quyết để kí kết và triển khai FTA EU – VN. Đến nay, sau một chặng đường tương đối dài, với những nỗ lực không ngừng của Chính phủ trong việc điều chỉnh và hoàn thiện các chính sách pháp luật, thúc đẩy các giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng  và định hướng phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên còn tồn tại nhiều bất cập và cho đến nay EU chưa xác nhận Việt Nam có một nền kinh tế thị trường đầy đủ.  

Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện tốt nhất để phát huy tính hiệu quả của Hiệp định FTA,  chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau:

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống luật pháp.

Cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam cho phù hợp luật chơi quốc tế và thể chế kinh tế thị trường. Bao gồm các bộ luật chủ yếu như: Luật Chính quyền địa phương; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý vốn Nhà nước; Luật Chống độc quyền; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Ngân sách, Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Đầu tư (sửa đổi); Luật Cạnh tranh (sửa đổi)… Việc sửa đổi các bộ luật đã nêu ở trên cần để đảm bảo nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thực thi vai trò can thiệp và điều tiết của chính phủ mà không cản trở, bóp méo sự phát triển của thị trường.

Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản, quy phạm pháp luật phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết, chuẩn mực trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, tạo sự phù hợp giữa pháp luật trong nước và quốc tế, đảm bảo thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong hội nhập. Khẩn trương rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành luật để loại bỏ những văn bản chồng chéo, trùng lắp, trái ngược nhau, không phù hợp với thực tế và thiếu tính khả thi, đồng thời nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật để có thể có hiệu lực tương đối ổn định trong một thời gian nhất định.

Hoàn thiện và đồng bộ hóa các thị trường trong nước:

Thể chế kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường. Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả. Chính phủ cần chỉ đạo rà soát, đánh giá mức độ cạnh tranh trong từng ngành sản xuất, dịch vụ, loại bỏ sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ  SHTT và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và lợi dụng vị thế thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh.

Nhà nước chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang thực hiện chức năng kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công.

Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoàn thiện tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng tại các khu vực kinh tế trọng điểm trong cả nước.

Tận dụng được tối ưu những tác động tích cực từ Hiệp định thương mại FTA EU- Việt Nam, Chính phủ với vai trò quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế mỗi một vùng miền cần nhanh chóng rà soát và xây dựng định hướng, các chương trình phát triển mục tiêu kinh tế xã hội và môi trường trong đó có tính đến các tác động và thách thức đặt ra của các hiệp định FTA nói chung và FTA với EU nói riêng. Cụ thể, tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn gắn với các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, cần dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, trong đó cần phát huy sức mạnh nhóm ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế cạnh tranh trước các doanh nghiệp châu Âu như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải, cảng kho bãi, khoa học công nghệ, giáo dục và y tế. Theo đó, các nhóm chính sách  cụ thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là:

Xây dựng và hoàn thiện hơn chức năng quản lý kinh tế của nhà nước thông qua việc lập kế hoạch phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường. Trong đó xác định rõ vai trò của nhà nước trong công tác kế hoạch và quy hoạch; Thực thi các chính sách hỗ trợ theo nguyên tắc, sử dụng các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị trường theo định hướng của nhà nước; Coi thị trường là tác nhân chính phân bổ nguồn lực, tác động và định hướng đầu tư của doanh nghiệp, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các công cụ hỗ trợ thị trường.

Sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế. Trong đó hoàn thiện các chính sách về thuế, phí, đất đai, đầu tư công, cung ứng dịch vụ công nhằm khuyến khích có điều kiện, thúc đẩy các doanh nghiệp tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những ''cụm liên kết sản xuất”, góp phần giúp chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phát triển công nghiệp phụ trợ. Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các DNNN để tập trung nguồn lực, vốn vào các ngành nghề có lợi thế.

Chuyển từ cơ cấu kinh tế địa phương sang cơ cấu kinh tế vùng: Chính phủ cần xác định thế mạnh mỗi vùng khu vực để có một chính sách hợp lý trong việc thực thi phát triển cơ cấu vùng, qua đó tập trung được nguồn lực sản xuất quốc gia, đầu tư công.

Chuyển dịch cơ cấu cần triển khai một cách đồng bộ trong một chỉnh thể thống nhất, vừa gắn kết về qui mô giữa trung ương và địa phương, giữa các tỉnh với vùng, giữa các vùng với toàn quốc và đặt trong hội nhập khu vực và quốc tế bao gồm hội nhập ASEAN cũng như thực thi hàng loạt các FTA với Trung Quốc, Mỹ, Nga v.v...

Chính phủ cần chú ý đến tính đồng bộ của các chính sách như chính sách đầu tư, chính sách đào tạo nguồn nhân lực phải đồng bộ với chính sách phát triển ngành theo kịp tốc độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư công vào các lĩnh vực, chương trình, dự án, vùng, ngành đã được xác định đồng thời thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết hợp hợp tác công tư PPP.

Thứ ba, Chính phủ cần phải định hướng xây dựng ngành kinh tế mũi nhọn nhằm tận dụng cơ hội  của FTA với EU.

Tại Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của việc xác định “nền kinh tế mũi nhọn” đã được thể hiện qua quyết định số 55/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 – 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Theo đó, công nghiệp mũi nhọn được định nghĩa là các ngành công nghiệp tạo ra động lực và dẫn dắt các ngành kinh tế khác phát triển; là ngành tạo ra vị trí, thương hiệu đặc trưng cho sản phẩm quốc gia. Theo mục tiêu ban đầu đặt ra các ngành này bao gồm điện tử, ôtô, xe gắn máy, đóng tàu, chế biến thực phẩm, thép, hoá dầu, giày da và may mặc, phần mềm, thiết bị hạ tầng thân thiện với môi trường sinh thái, thiết bị máy móc cỡ nặng và máy nông nghiệp.

Tuy nhiên, những với những kết quả đạt được trong thời gian qua đã cho thấy các công nghiệp mũi nhọn của chúng ta vẫn chưa đạt được các mục tiêu đã đề ra. Những ngành công nghiệp hoàng hôn tốn năng lượng, tàn phá môi trường, giá trị gia tăng thấp  như đóng tàu, luyện kim đã thất bại, với sự sụp đổ của Vinashine, công nghiệp hóa dầu có nhiều nguy cơ  thất bại cho thấy cần định vị lại các ngành kinh tế mũi nhọn trong công nghiệp. Đồng thời với tư duy rút gắn “công nghiệp hóa”, gắn “công nghiệp hóa” với “hiện đại hóa”, cần chuyển dịch cơ cấu mạnh hơn sang dịch vụ, thay thế công nghiệp hoàn hôn bằng các lĩnh vực có hàm lượng dịch vụ cao và phù hợp với một nước nông nghiệp đó là du lịch và nông nghiệp công nghệ cao.

Một số kiến nghị cụ thể:

- Có các chương trình tổng thể để phát triền du lịch, từ hạ tầng, nguồn nhân lực, tới bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, tới gìn giữ truyền thống văn hóa, tâm linh, gắn kết du lịch với phát triển bền vững về môi trường và xã hội.

- Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa các giải pháp cụ thể để phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn như quảng bá hình ảnh, nâng cao năng lực cho đội ngũ du lịch, phát huy bảo tồn các di sản, phát triển du lịch biển, du lịch văn hóa…

- Thúc đẩy hội nhập khu vực và quốc tế trong du lịch, khuyến khích hợp tác với các nước thành viên EU, với ưu thế là nước triển khai FTA sớm hơn với EU, Việt Nam sẽ tạo ra được những lợi thế lớn hơn so với các quốc gia trong khu vực trong việc thu hút khách du lịch từ châu Âu.

- Chú trọng phát triển các ngành nông nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, gìn giữ bản sắc văn hóa và truyền thống làng nghề, gắn với các loại hình du lịch nhằm thay đổi dần các ngành công nghiệp hoàng hôn cũng như khai thác tài nguyên khoáng sản.

Thứ tư, Chính phủ đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo hộ quyền SHTT mà Việt nam đã cam kết trong hiệp định.

Đối với lĩnh vực hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp và thủy sản.

Cần chủ động tích cực tận dụng những cơ hội mà Hiệp định mang lại là sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Viêt Nam như  giày dép, thủy sản, đồ gỗ… sang thị trường EU và ngược lại, các hàng hóa thiết bị máy móc, hóa chất, dược phẩm của EU cũng có cơ hội xuất khẩu vào thị trường Việt Nam.

Để hàng hóa nông nghiệp của Việt Nam có khả năng cạnh tranh được với các nước khác tại thị trường EU, cũng như đứng vững trước áp lực cạnh tranh về giá, về chất lượng của các mặt hàng nông sản từ EU tại thị trường trong nước thì các nhóm giải pháp phát triển chuỗi giá trị nông sản cần phải được thực thi và áp dụng, trong đó chính sách về việc cung ứng giống,  kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc, bảo quản, chế biến sau thu hoạch cần phải được thiết lập ngay.

Trong  giai đoạn sắp tới được xem là thời kỳ chuyển đổi mà chúng ta có thể thực thi cơ chế thuế để bảo hộ các sản phẩm nông nghiệp trong nước, Chính phủ cần có các chương trình đào tạo, phổ biến kỹ năng sản xuất nông nghiệp cho người dân, thực hiện các chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cho cả người dân và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp trong vấn đề sử dụng và áp dụng các quy chuẩn về chăn giết mổ động vật.

Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ và đầu tư

Đây được xem là lĩnh vực tương đối phức tạp đối với các cơ quan quản lý khi phải giám sát cũng như thực thi các nhóm giải pháp cho những loại hình cụ thể như: (1) Cung cấp qua biên giới,  (2). Tiêu dùng ngoài lãnh thổ (người sử dụng dịch vụ mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó), (3). Hiện diện thương mại (người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước đó) và (4). Hiện diện thể nhân: người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó.

Trong khi đó, đây được xem là lĩnh vực trọng yếu của kinh tế EU khi mà lĩnh vực này chiếm đến ¾ trong cơ cấu GDP, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng về kinh tế cũng như khả năng cạnh tranh trên toàn cầu toàn của . Với thế mạnh và tính chuyên nghiệp trong các dịch vụ như kế toán, kiểm toán, truyền  thông và vận tải, EU đã và đang chiếm lĩnh hầu hết các thị trường trong và ngoài khu vực thông qua các hiệp định thương mại FTA. Để quản lý và thúc đẩy các hoạt động dịch vụ khi FTA giữa hai bên có hiệu lực, Chính phủ  nên  thực thi các nhóm giải pháp sau:

- Nhanh chóng hoàn thiện biểu thuế quan chung về dịch vụ cho 150 phân ngành đang được thực thi tại Việt Nam theo các cam kết về tự do hóa thương mại dịch vụ EVFTA.

- Thực thi minh bạch hóa chính sách tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ theo các yêu cầu của GATS.

 - Nâng cao năng lực cho các Bộ ngành, cơ quan chính phủ, phụ trách về các lĩnh vực dịch vụ. Thiết lập các cơ chế chính sách điều phối từ  đó thúc đẩy,  sự gắn kết giữa các ngành dịch vụ với nhau.

- Thực thi xóa bỏ vị trí độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, thực thi đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài.

- Xóa bỏ các loại hình trợ cấp của chính phủ đối với các doanh nghiệp nhà nước theo các cam kết của WTO và cam kết trong FTA, đặc biệt là trợ cấp chéo trong một số ngành dịch vụ viễn thông, vận tải, ngân hàng…

- Thúc đẩy nhóm giải pháp tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng, giải quyết vấn đề nợ xấu, nâng cao khả năng cạnh tranh ứng phó trước làn sóng thôn tính của các ngân hàng châu Âu nói riêng các tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nói chung.

Về  sở hữu trí tuệ

Đây là lĩnh vực mà EU hết sức quan tâm trong đàm phán và triển khai FTA với Việt Nam và các đối tác. Mặc dù, Việt Nam hiện đang là thành viên của Hiệp định TRIPS việc thực thi kém hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ trong thời gian qua tại Việt Nam được xem là nguyên nhân khiến cho các công ty nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp châu Âu không chuyển nhượng hoặc chuyển giao các quyền tài sản hoặc các bí quyết về công nghệ tiên tiến.

Một số giải pháp Chính phủ và các bộ ngành cần triển khai nhằm tăng cường hiệu lực của luật bảo hộ quyền SHTT như sau:

- Chính phủ giao cho các đơn vị liên quan ra soát và đánh giá tính khả thi của các văn bản luật, nghị định, các thông tư hướng dẫn triển khai đăng ký, bảo hộ sản phẩm, đăng ký nhãn hiệu…

- Nâng cao năng lực cho cán bộ thẩm định của Cục SHTT để đảm bảo quá trình thẩm định và đánh giá các trường hợp vi phạm được nhanh chóng và chính xác. Hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của tòa án đối với các trường hợp vi phạm quyền SHTT trong thời gian qua vẫn chưa thực sự có hiệu quả, chính vì vậy, giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ thẩm phán cần phải được triển khai.

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ hải quan tại khu vực biên giới, thiết lập hệ thống truy xuất thông tin về các nhãn hiệu, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…để có thể nhanh chóng giải quyết, bắt giữ các hàng hóa nhập khẩu vi phạm quyền SHTT.

- Xây dựng cơ chế phối hợp  giữa cơ quan thực thi quyền SHTT và cơ quan quản lý,  giữa các Ban ngành trung ương với các cơ quan địa phương, giữa tòa án với Hải quan, Quản lý thị trường, công an kinh tế và thanh tra Bộ KHCN.

Về  TBT, SPS, phòng vệ thương mại

Việc triển khai thực thi giữa hai bên về các điều khoản về TBT, SPS, phòng vệ thương mại…. sẽ vẫn được coi là những rào cản mà hàng hóa xuất khẩu Việt Nam hay nhập khẩu từ EU phải đối mặt.

Từ nghiên cứu kinh nghiệm các FTA mà EU ký kết gần đây có thể thấy vấn đề liên quan đến TBT chỉ chủ yếu gồm những nội dung liên quan đến thủ tục (theo hướng tăng cường các thủ tục ràng buộc các chính phủ khi ban hành hay thực thi những quy định TBT, SPS, phòng vệ thương mại) chứ không quy định cụ thể về các tiêu chuẩn/yêu cầu xác định cho từng loại hàng hóa, do vậy:

- Chính phủ cần thiết lập Ủy ban phụ trách và giải quyết các vấn đề liên quan đến hàng rào thương mại TBT, là cầu nối giữa doanh nghiệp trong nước với các cơ quan hữu quan châu Âu trong vấn đề điều tra, áp dụng các điều khoản áp dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT), vệ sinh dịch tễ (SPS), phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ) trong triển khai FTA với EU[7].

- Hiện đại hóa thủ tục hải quan, minh bạch, áp dụng công nghệ thông tin, các thủ tục liên quan tới chứng nhận xuất sứ, chỉ dẫn địa lý, SPS, cần có hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thứ năm, Chính phủ cần phải tập trung nguồn lực, cơ chế chính sách nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ

Phân tích và đánh giá cũng dự đoán về triển vọng trong quan hệ hợp tác thương mại EU- Việt Nam trong thời gian tới khi hiệp định FTA có hiệu lực, chúng tôi nhận thấy các mặt hàng chủ lực của Việt Nam là điện tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô tô, xe máy sẽ tiếp tục chi phối đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn nhận về nội tại các ngành công nghiệp chủ chốt trên có thể dễ dàng nhận thấy hầu như các ngành này đều chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm. Để tạo nên sản phẩm, các doanh nghiệp đều phải nhập nguyên vật liệu từ các quốc gia khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore… Mặc dù EU đã đơn giản hóa các qui định về xuất xứ sản phẩm trong hiệp định FTA với Việt Nam, chấp nhận các nguyên vật liệu nhập khẩu từ các quốc gia khác trong khu vực cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, song sự bị động về nguyên vật liệu nhập khẩu, khả năng quản lý về chất lượng nguyên phụ liệu còn hạn chế dẫn đến chất lượng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam không cao, sản xuất còn manh mún, chi phí sản xuất cao.

Mặt khác, việc thiếu hụt ngành công nghiệp phụ trợ, sự yếu kém của các doanh nghiệp nội trong việc gia công sản xuất các linh kiện, thiết bị máy móc, sự thiếu chuyên nghiệp trong quản lý… được xem là những trở ngại đối với hầu hết các doanh nghiệp FDI khi triển khai đâu tư sản xuất tại Việt Nam. Hơn nữa đây cũng là lĩnh vực mà chúng ta phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc, làm thâm hụt cán cân thương mại cũng như nhiều tác động tiêu cực khác tới an ninh chủ quyền quốc gia.

Để có thể phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, Chính phủ cần tập trung:

- Thiết lập chiến lược dài hạn để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, trong đó tập trung giải  quyết bốn yếu tố quan trọng là nguồn nhân lực, công nghệ, tài chính và hệ thống phân phối.

- Xây dựng và hoàn thiện các chính sách quy định về kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành nghề, quy định về hải quan, về chính sách thuế...

- Cần xây dựng Luật phát triển công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử… để đưa ra các biện pháp tổng hợp, có hệ thống và quy trình cụ thể như phát triển kỹ thuật, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính, bảo đảm vị trí, khai thác thị trường…

- Chính phủ cần có các ưu đãi về tài chính, về đất đai hạ tầng, về đầu tư, về nguồn nhân lực, các chính sách khuyến khích thành lập các DN sản xuất công ngiệp hỗ trợ,  xây dựng các quỹ đặc thù riêng cho công nghiệp hỗ trợ, hình thành tổ chức đầu mối để thực hiện sự quản lý Nhà nước dẫn dắt liên kết các DN làm công nghiệp hỗ trợ, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung ứng, xây dựng ban hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về công nghiệp hỗ trợ...

- Nhân lực là vấn đề sống còn cho phát triển bất cứ một ngành nào, vì vậy để phát triển công nghiệp phụ trợ, cần phải xây dựng được một đội ngũ kỹ sư chuyên sâu, có trình độ cao, có khả năng nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất nguyên phụ liệu, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, tay nghề cao để đưa công nghiệp phụ trợ phát triển.

- Về vốn, có thể sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để xây dựng một quỹ tài chính đảm bảo cho việc phát triển công nghiệp phụ trợ của những ngành đã được chỉ định. Việc chỉ định các ngành cần phát triển là việc chỉ rõ các phạm vi ưu tiên để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Minh bạch được khâu này cũng sẽ giúp các DN thu hút đầu tư. Hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ các ngành bằng các đòn bẩy về tín dụng, thuế, hạ tầng, khuyên khích liên doanh, thu hút FDI nước ngoài.

- Việc tăng nhu cầu nội địa là một trong những việc quan trọng nhất nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, để đảm bảo có thể thu được lợi nhuận cao nhất cũng như xây dựng được một thị trường nội địa phát triển thì cần quan tâm đến hệ thống phân phối. Hệ thống phân phối có thể cung cấp đầy đủ, dễ dàng những nhu cầu về linh kiện cho những DN có nhu cầu sẽ góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ.

 

 


* Báo cáo này trình bày một số kết quả nghiên cứu liên quan tới đề tài cấp nhà nước  "Cục diện kinh tế thế giới hiện nay và tác động đến Việt Nam" mã số ĐTĐL-XH.17/15

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 267.

[2] Cho đến nay EU mới kí kết FTA với các nước Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam ở châu Á

[3] Xem thêm Nguyễn An Hà, Điều chỉnh chính sách FTA của EU và đối sách của Việt Nam, NXB KHXH 2015.

[4] European Commission (2012), Europe 2020: Europe’s growth strategy.

http://ec.europa.eu/europe2020/pdf/europe_2020_explained.pdf

[5] Sách trắng “Các vấn đề thương mại/đầu tư và kiến nghị” 2014 của Eurocham Việt Nam

[6] Xem thêm các BCTQ của đề tài liên quan

[7] Kinh  nghiệm từ FTA Hàn Quốc EU

 

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu. Số 9, 2016.

Các tin đã đưa ngày: