TRẦN THỊ HÒE*
1. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
Thứ nhất, xây dựng Hiến pháp, pháp luật, chính sách về quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền con người (QCN), tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người đặt con người vào “vị trí trung tâm”, “mọi mục tiêu, động lực của sự phát triển là vì con người, do con người”, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con người đã trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách, pháp luật của nhà nước. Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ QCN, minh bạch hóa trách nhiệm nhà nước đã được thẩm thấu vào trong quy trình xây dựng luật pháp và chính sách về QCN, góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.
Xuất phát từ nghĩa vụ quan trọng và cơ bản “định ra các đạo luật” xác định QCN và quyền công dân, quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN. Chẳng hạn, từ khi đổi mới và hội nhập đến nay, Việt Nam đã hai lần sửa đổi Hiến pháp vào năm 1992 và năm 2013, đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Nhà nước Việt Nam trong tư duy pháp lý về QCN. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quyền con người được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, đó là “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Từ quy định có tính nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng chủ thể của QCN nói chung cũng như các quyền và tự do cơ bản của công dân nói riêng. Nếu như ở Hiến pháp năm 1992, khái niệm quyền con người chỉ chủ yếu dừng lại ở chủ thể là “công dân” thì ở Hiến pháp năm 2013, các chủ thể của QCN thuộc về tất cả mọi người chứ không chỉ là công dân. Việc ghi nhận này có ý nghĩa quan trọng trong việc nội luật hóa các Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển, đồng thời, quan trọng hơn là tránh được sự nhầm lẫn giữa QCN và quyền công dân thường mắc phải trong các Hiến pháp trước đó. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm một số quyền mới mang tính thực tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, thể hiện vai trò làm chủ thực chất của người dân như: quyền được giữ bí mật thông tin; quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và danh dự; quyền được sở hữu về thu nhập hợp pháp, về nhà ở; quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm; quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, sử dụng các giá trị văn hóa, quyền được sống trong môi trường trong lành,...
Việc ghi nhận các quyền mới của con người trong Hiến pháp năm 1992 và năm 2013 đã phản ánh xu thế hội nhập của đất nước, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm QCN ở Việt Nam. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thừa nhận QCN phổ biến được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, là sự năng động, nhạy bén của Nhà nước trong việc xử lý mối quan hệ biện chứng giữa QCN phổ biến với đặc thù về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của các quốc gia, giữa luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, Hiến pháp năm 1992 và sau này là Hiến pháp năm 2013 quy định về bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, trách nhiệm của Nhà nước là phải “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,...” (Điều 3, Hiến pháp năm 2013). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Vì vậy, nghĩa vụ của Nhà nước là: tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28); tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội (Điều 59),... Các quy định trên một lần nữa khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước không chỉ là ghi nhận QCN mà còn có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để bảo đảm QCN đã được ghi nhận.
Bên cạnh việc nâng cao số lượng và chất lượng QCN trong Hiến pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với các quy định cụ thể, dễ thực hiện, giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở các nguyên tắc chung nhằm giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhiều bộ luật được sửa đổi và ban hành mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật về Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Người cao tuổi,...
Những kết quả đạt được trong việc ban hành chính sách, pháp luật về QCN của Nhà nước ta những năm qua là một bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi trong nước cũng như đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN trong luật Nhân quyền quốc tế đã được quán triệt và trở thành nội dung quan trọng của văn bản pháp luật Việt Nam về QCN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động bảo vệ và thực thi QCN.
Thứ hai, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và chính sách bảo đảm quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc bảo đảm QCN trong hoạt động thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương các cấp đã áp dụng một số biện pháp chủ yếu sau:
- Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương về những vấn đề chung, có ý nghĩa chiến lược về bảo đảm QCN. Nổi bật nhất trong hoạt động này là Quyết định số 366/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/3/2011) Ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới.
Với mục tiêu tạo sự chuyển biến tích cực về bảo đảm QCN, Quyết định số 366/QĐ-TTg đã cụ thể hóa một bước quan trọng nghĩa vụ bảo đảm QCN đối với một số bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đóng vai trò kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực, tăng cường năng lực bảo đảm QCN trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện pháp luật của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm bảo đảm các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp như: quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tiếp cận giáo dục, y tế; các quyền về lao động, việc làm, an sinh xã hội;...
Đây là hoạt động có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gắn với quá trình cung cấp các biện pháp cụ thể và hành chính, kinh tế, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ xã hội cho việc bảo đảm QCN và ngăn chặn các hành vi vi phạm QCN theo pháp luật. Do vậy, nó thường có tác động nhanh và sâu sắc đến thực tiễn bảo đảm QCN của các cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương.
- Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển. Hoạt động này phản ánh những đổi mới trong tư duy phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều chương trình, chính sách phát triển của Việt Nam đã có những quy định tác động đến bảo đảm QCN như: Chương trình Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và 2011 - 2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, 2012 - 2015; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo (Chương trình 134); Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương trình xây dựng nông thôn mới,...
Nhìn tổng thể, những chương trình, chính sách nêu trên đã hỗ trợ tích cực cho người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận thuận lợi hơn với các dịch vụ về việc làm; đào tạo nghề; trợ giúp pháp lý; y tế, giáo dục, an sinh xã hội;... hạn chế gia tăng phân hóa giàu nghèo và góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển.
- Trực tiếp áp dụng các biện pháp mang tính sáng tạo, phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương nhằm nâng cao năng lực hưởng thụ các quyền của người dân, đặc biệt là của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Hoạt động này gắn với những sáng kiến đa dạng của các ngành, các địa phương như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN cho cán bộ, công chức, viên chức, các tầng lớp nhân dân; xây dựng các dịch vụ xã hội thân thiện, dễ tiếp cận; đào tạo nguồn nhân lực cho những vùng khó khăn; hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm dễ bị tổn thương trước những hiểm họa như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,...
Thứ ba, xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm quyền con người
Cùng với việc thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm QCN. Theo Hiến pháp năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp năm 2013, các thiết chế nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ, các cơ quan Tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát), các bộ, ngành có liên quan và chính quyền địa phương các cấp. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Hầu hết các cơ quan nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ, chuyên môn hóa, hoạt động hiệu quả theo cơ chế phân công và phối hợp trong ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân từ phía các cơ quan nhà nước.
Không chỉ hoàn thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, Nhà nước ta còn đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về QCN như: Ban chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên.
Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức của Ban chỉ đạo về Nhân quyền, Chính phủ, Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện Báo cáo Nhân quyền trong khuôn khổ Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc cũng như các hoạt động hợp tác quốc tế khác trên lĩnh vực.
Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước, Việt Nam đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi QCN trên các lĩnh vực: ban hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về QCN;…
Thứ tư, huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào quá trình bảo vệ, thúc đẩy quyền con người
Phù hợp với quy định về quyền lập hội trong Tuyên ngôn thế giới về QCN (1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966), Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới đã tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức này trong quá trình bảo vệ QCN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như công đoàn, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh; các cơ quan báo chí, truyền thông; các tổ chức xã hội, nghề nghiệp;... đã đóng vai trò ngày càng tích cực trong những hoạt động: giám sát và phản biện xã hội; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN; thúc đẩy bình đẳng giới; trợ giúp pháp lý, nâng cao năng lực cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; xóa đói giảm nghèo; tham gia các hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,… nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội.
Thứ năm, tuyên truyền, giáo dục về quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ sau khi có Chỉ thị 12-CT/TW (1992) của Ban Bí thư, hoạt động tuyên truyền, giáo dục QCN đã được tích cực triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn từ năm học 1998 - 1999, môn học Lý luận về QCN đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tiếp đó, nhiều chương trình nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền được triển khai thực hiện tại các trường chính trị, hành chính, Ban Chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ, các trường đại học, các viện nghiên cứu,... Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền, tập huấn về nhân quyền còn được thực hiện thông qua một số dự án hợp tác quốc tế của Quốc hội, Chính phủ; của các ngành, các cơ quan như: ngoại giao, tư pháp, công an, báo chí, tôn giáo, dân tộc và của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong những năm gần đây, hoạt động tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền liên tục được mở rộng, được lồng ghép vào nhiều môn học và một số chương trình đào tạo sau đại học. Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép đào tạo Thạc sĩ về QCN ở ba cơ sở đào tạo là: Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Khoa học Xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Những hoạt động tuyên truyền, giáo dục nêu trên đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức về QCN cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước; cán bộ thực thi pháp luật; sinh viên các trường đại học; thành viên một số tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp.
Thứ sáu, hợp tác và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quyền con người
Để phát huy tốt vai trò, nâng cao uy tín quốc tế và hội nhập vào đời sống chính trị - xã hội quốc tế, Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế chủ chốt về QCN. Từ những năm 1980, Nhà nước đã thực hiện tương đối đầy đủ và bảo đảm thời gian hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ các Báo cáo quốc gia của các Công ước Nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Trong việc thực hiện QCN theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR), Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, cũng như tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia khác về tình hình thực hiện QCN tại các chu kỳ này.
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trả lời và giải quyết kháng thư của Liên hợp quốc. Trong việc thực thi nghĩa vụ thực hiện các Thủ tục đặc biệt (Special Procedures - SP) cho đến nay, Việt Nam đã đón các chuyên gia về các vấn đề người thiểu số; đói nghèo cùng cực và nhân quyền; tác động của nợ nước ngoài đối với nhân quyền, quyền được chăm sóc y tế; Báo cáo viên đặc biệt về quyền văn hóa và tôn giáo. Việt Nam đăng cai tổ chức nhiều hội thảo quốc tế về QCN như: Hội thảo về Công ước quốc tế chống tra tấn và đối xử vô nhân đạo (tháng 12/2003); Hội thảo Việt Nam - EU về Án tử hình (tháng 11/2004), Hội thảo về QCN lần thứ 6 (tháng 12/2004),... Tại các hội thảo này, Việt Nam đã tạo cơ hội để các đại biểu quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Việt Nam về QCN. Đây thực sự là diễn đàn trao đổi cởi mở, thẳng thắn, công khai nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực vào việc thành lập Ủy ban Liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tháng 11/2012). Qua đó thể hiện cam kết và quyết tâm cao của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thúc đẩy các QCN cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về QCN.
2. Những thách thức, khó khăn của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Thành tựu của thời kỳ hội nhập quốc tế đã giúp chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân; tuy nhiên, đây là quá trình có nhiều thách thức và khó khăn đan xen:
- Nhận thức về QCN của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn bất cập, chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu bảo đảm QCN trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Mặc dù các hình thức tuyên truyền, giáo dục về QCN ở nước ta đã phát triển mạnh trong một số năm qua, song chúng chưa thực sự phổ biến và dễ tiếp cận đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hơn nữa, QCN có nội dung rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề nhạy cảm như: dân chủ, tôn giáo, dân tộc, tư pháp, tiếp cận thông tin,... cho nên việc nắm vững các quan điểm của Đảng, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng như các trình tự, thủ tục bảo đảm QCN là công việc không đơn giản, đòi hỏi có thời gian và những đổi mới mạnh mẽ trong tuyên truyền, giáo dục về QCN ở nước ta.
- Hệ thống pháp luật về QCN ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số yếu tố bất hợp lý, mâu thuẫn, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh sự phức tạp, chồng chéo, pháp luật Việt Nam vẫn chưa thể chế hóa kịp thời một số quyền hợp hiến, tạo nên hiện tượng gọi là quyền “treo”, ít có hiệu lực thực tế, như: quyền lập hội, biểu tình, tiếp cận thông tin. Quy trình xây dựng pháp luật còn lạc hậu, chưa coi trọng sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền với nguyên tắc cơ bản là công dân có quyền tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Trong một số lĩnh vực, pháp luật còn có những quy định gây trở ngại cho việc bảo vệ các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp, như quyền có luật sư, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ. Ngoài ra là tình trạng kém hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; bảo vệ các quyền về kinh tế, xã hội của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp;...
- Hoạt động giám sát việc bảo đảm QCN còn có biểu hiện hình thức, thiếu hiệu quả trong việc phát hiện, khắc phục kịp thời những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện QCN theo quy định của pháp luật. Một trong những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là Việt Nam đang thiếu một cơ quan quốc gia có địa vị pháp lý đầy đủ, hoạt động chuyên trách, đủ khả năng chủ trì, phối hợp, giám sát, hướng dẫn các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội trong việc bảo đảm các QCN.
- Sự hình thành những yêu cầu mới, đa dạng về QCN trong bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Một mặt hiện nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn đang phát triển, có mức thu nhập trung bình, cùng với sự tăng lên của nguồn lực kinh tế và trình độ dân trí trong xã hội sẽ xuất hiện yêu cầu cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền đã được pháp luật quốc tế công nhận. Các hình thức lao động, sản xuất, kinh doanh; sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm QCN. Do những thay đổi đó nên trong các hoạt động xã hội, bên cạnh những quyền căn bản (quyền sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe,...) cũng xuất hiện những đòi hỏi cho các quyền mới, như quyền về môi trường trong lành, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền sở hữu tư nhân, quyền của giới tính “thứ ba”, quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều,...
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân hóa - phân tầng xã hội không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và hội nhập quốc tế. Sự phân hóa - phân tầng xã hội đã và sẽ dẫn đến sự đa dạng hóa mạnh mẽ hơn các nhu cầu về QCN giữa các giai tầng xã hội. Nhà nước vừa phải có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về QCN cho các nhóm dân cư tại các khu đô thị, vừa phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo đảm các quyền rất thiết yếu, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm dễ bị tổn thương. Sự đa dạng đó đã và sẽ tạo ra những thách thức mới đối với chính sách, pháp luật không chỉ trên lĩnh vực nhân quyền.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Để khắc phục những thách thức đang đặt ra, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả nghĩa vụ bảo đảm QCN của các cơ quan nhà nước Việt Nam hiện nay, cần chú trọng thực hiện một số phương hướng cơ bản sau:
Một là, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QCN. Quá trình này cần chú ý:
- Thể chế hóa các QCN, quyền công dân đã được chế định trong Hiến pháp năm 2013 thành các tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, nhất quán về cách hiểu và cách thực hiện. Không để tình trạng quyền bị “treo”. Sớm có hướng dẫn thống nhất về phương thức hạn chế quyền phù hợp với quy định của Điều 14(2) Hiến pháp năm 2013.
- Xây dựng khuôn khổ pháp luật về dân chủ, pháp quyền, quản trị xã hội cho việc bảo đảm QCN. Thí dụ xây dựng và triển khai thực hiện các luật về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa như: Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Lập hội, Luật Biểu tình, Luật Tiếp cận thông tin,...; thể chế hóa việc tổ chức, vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế (cơ chế tổ chức, hoạt động của Hội đồng bầu cử và kiểm toán quốc gia, cơ chế bảo hiến,...); thể chế hóa trách nhiệm quản trị quốc gia của Nhà nước (xây dựng luật giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, quản lý an ninh quốc gia,...). Trên cơ sở đó, Nhà nước Việt Nam mới tạo ra một khuôn khổ pháp luật đủ mạnh để bảo đảm quyền cho mọi người, mọi nhóm xã hội trên thực tế.
Hai là, tiếp tục chú trọng xây dựng, củng cố các thiết chế nhà nước trong bảo vệ, giám sát việc thực hiện QCN. Hiện nay cần quan tâm củng cố, hoàn thiện cơ chế khắc phục và bồi thường thiệt hại do vi phạm QCN gây ra; cơ chế phát hiện và ngăn chặn vi phạm QCN trên các lĩnh vực; cơ chế bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tiếp đó, cần xúc tiến thiết lập cơ quan chuyên trách nhân quyền quốc gia bên cạnh các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Muốn vậy cần đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn diện, khoa học một số phương án cho việc hình thành cơ quan này phù hợp với chuẩn mực quốc tế, với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Bốn phương án để lựa chọn có thể là: 1) Thanh tra Quốc hội (ombusman) hay Hội đồng Nhân quyền của Quốc hội với tính cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo; 2) Ủy ban về Quyền con người trực thuộc Chính phủ; 3) Hội bảo vệ Quyền con người Việt Nam với tính cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 4) Viện Nghiên cứu Quyền con người quốc gia.
Ba là, coi trọng áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên QCN trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội. Việc sử dụng phương pháp này cần tập trung xây dựng các biện pháp nâng cao năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong bảo đảm các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm người nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nhiễm HIV/AIDS,...
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục về QCN. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp giáo dục nhân quyền cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cán bộ thực thi pháp luật và sinh viên các trường đại học. Tiếp đó cần thể chế hóa vững chắc việc đưa giáo dục QCN vào các trường chính trị, hành chính, các trường đại học, các trường của các tổ chức đoàn thể. Giáo dục phải hướng đến nâng cao nhận thức, tôn trọng và tuân thủ các QCN trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, của các cán bộ công chức, viên chức; các tổ chức kinh tế, xã hội; các chương trình và chính sách phát triển.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thực thi pháp luật, năng lực bảo vệ và giám sát việc bảo đảm QCN. Hiện nay cần quan tâm nâng cao chất lượng các Báo cáo theo cơ chế của Công ước và cơ chế của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc; chủ động hơn về chiến lược trong quá trình tham gia vào một số cơ chế, thủ tục nhân quyền của Liên hợp quốc, khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đối thoại về QCN, phát triển các hình thức hợp tác quốc tế đa dạng về giáo dục nhân quyền.
___________________________________________________________
Ghi chú:
(*) ThS.; Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
2. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946,1959,1980,1992) và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.