PGS.TSKH. Lương Đình Hải
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Xem xét nguồn nhân lực chất lượng cao, hay nói đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết phải nói đến đội ngũ trí thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân là ba bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng phát triển của đất nước. Đội ngũ trí thức ở đây bao gồm cả lực lượng lao động có tay nghề cao - có người gọi là tầng lớp kỹ nghệ gia. Tầng lớp chính khách bao gồm cả các chính khách lẫn các nhà quản lý bậc trung và cao cấp, hay còn gọi là tầng lớp quản lý gia. Tầng lớp doanh nhân gồm các doanh nhân hạng vừa và lớn. Bộ ba tầng lớp này chính là nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội hiện đại. Một quốc gia hiện đại không thể phát triển được nếu thiếu một trong ba đỉnh của tam giác nhân lực này. Chỉ khi có được tam giác nhân lực này thì các nguồn lực khác mới được khai thác tốt, mới phát huy được vai trò của chúng, khả năng phát triển nhanh của đất nước mới trở thành khả thi[1].
Cho đến nay, khái niệm trí thức ở nước ta vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Cuộc thảo luận về trí thức diễn ra khá sôi nổi nhưng vẫn chưa thể kết thúc và cũng chưa thể đưa ra được một cách hiểu về trí thức Việt Nam có thể được chấp nhận rộng rãi. “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”[2].
“Trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn cao, có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời truyền bá và ứng dụng tri thức này vào thực tiễn, góp phần to lớn vào sự phát triển và trình độ văn minh của nhân loại”[3]. “Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hay sau đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức mà là thái độ trí thức đối với các vốn kiến thức ấy và, nhất là đối với các vấn đề của cuộc sống trước mặt đặt ra”[4].
Quan niệm về trí thức của các nhà tư tưởng, các học giả xưa nay đều có những nội dung hợp lý, phản ánh những đặc điểm căn bản, chung, phổ quát của tầng lớp xã hội này từ các góc nhìn khác nhau. Trí thức là những người lao động trí tuệ, sáng tạo, có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các tầng lớp khác, bằng lao động và các sản phẩm lao động có khả năng tạo ra sự thay đổi, phát triển của lĩnh vực chuyên môn của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trí thức là một tầng lớp mang tri thức, trí tuệ của xã hội, có tư duy độc lập, sáng tạo trong công việc chuyên môn, có thái độ độc lập dựa trên sự hiểu biết của họ đối với các vấn đề của tự nhiên, xã hội; Trí thức sáng tạo, phổ biến, truyền bá và chỉ ra cách vận dụng tri thức để thúc đẩy sự phát triển các mặt, lĩnh vực, phạm vi nhất định của xã hội.
Xét trên phương diện lịch sử, trí thức ra đời khi xã hội có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay. Tầng lớp lao động trí tuệ này chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định, khi có đủ điều kiện để tách lao động thành lao động nhận thức trở thành một dạng lao động độc lập ở một tầng lớp xã hội. Sự xuất hiện trí thức không gắn liền với sở hữu mà gắn với phân công lao động. Chính vì vậy, đặc trưng đầu tiên của trí thức là một tầng lớp xã hội. Trong các xã hội trước đây, tầng lớp này không sở hữu riêng tư liệu sản xuất. Nhưng họ là lực lượng chủ lực, tiên phong trong sáng tạo tri thức, họ sở hữu trí tuệ, tri thức. Trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ (KHCN) hiện nay thì trí tuệ, tri thức khoa học là công cụ lao động rất quan trọng, là lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy vai trò của trí thức đang thay đổi rất mạnh mẽ. Nền sản xuất và đời sống xã hội biến đổi theo xu hướng, quy mô, tốc độ nào phụ thuộc ngày càng nhiều vào các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ, do lực lượng chủ lực, tiên phong là trí thức tạo ra. Tuy vậy họ cũng không trở thành giai cấp độc lập, sở hữu các tư liệu sản xuất xã hội, dùng nó để thu lợi nhuận, giá trị thặng dư, để trở thành giai cấp thống trị.
Trí thức là những người lao động trí tuệ, sáng tạo, dựa trên nền tảng học vấn và kiến thức chuyên môn cao, có tính chuyên nghiệp. Đây chính là đặc trưng thứ hai của trí thức. Lao động trí óc có ở một số giai tầng xã hội khác nhau. Thực hiện việc lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội cũng bao chứa lao động trí óc, nhiều dạng hoạt động lao động khác trong xã hội hiện đại cũng không thể không có lao động trí óc. Nhưng với trí thức, nhất là trí thức trong thời đại cách mạng KHCN, lao động trí óc của họ là lao động trí óc chuyên nghiệp, gắn với sáng tạo, tích lũy, truyền bá tri thức. Do vậy, không thể xếp vào tầng lớp trí thức tất cả các quan lại có bằng cấp cao như một số người hiện nay quan niệm. Cũng không thể xem toàn bộ những người có bằng cấp cao sau đại học, hoặc từ đại học trở lên là trí thức. Họ lao động ở các lĩnh vực khác, không tạo ra sản phẩm trí tuệ, tri thức mà là các sản phẩm dưới các dạng thức khác (chỉ đạo, điều hành, quản lý, sản phẩm tiêu dùng cụ thể,…). Vấn đề là lao động trí óc tạo ra sản phẩm trí tuệ, bằng trí tuệ và lao động ấy là lao động chuyên nghiệp.
Trí thức là những người mang trí tuệ xã hội, có tư duy độc lập và sáng tạo. Khác với các tầng lớp khác, họ lưu giữ một cách sống động, hiểu biết các kiến thức, đại biểu cho trí tuệ mà xã hội đã tạo ra được. Đây là đặc trưng thứ ba. Dân gian thường nói giới trí thức là đại diện cho trí khôn của xã hội là theo nghĩa này. Nhờ mang, giữ và hiểu biết các kiến thức tích lũy được của xã hội mà họ có tư duy độc lập, có nhận định, đánh giá riêng một cách có căn cứ, nên họ có khả năng sáng tạo ra tri thức mới một cách chủ động, nhanh chóng, chuyên nghiệp. Đây chính là thái độ tích cực của tầng lớp xã hội này đối với tri thức và các vấn đề được xã hội đặt ra. Bằng cách đó, họ thể hiện tính tích cực xã hội của mình không chỉ bằng việc tạo ra kiến thức mới, mà bằng cả ý thức trách nhiệm, bằng việc tạo ra tư duy, tư tưởng, củng cố và phát triển hệ giá trị xã hội - nền tảng tinh thần cho xã hội vận động và phát triển. Họ là tầng lớp trí tuệ của xã hội, lao động trí tuệ, nên phải có trách nhiệm xã hội, phải có sáng tạo như là điều kiện tất yếu. Sáng tạo có trong nhiều hình thái lao động, nhưng ở tầng lớp trí thức thì sáng tạo là sáng tạo trí tuệ, tạo ra tri thức, giá trị cho xã hội.
Trí thức chủ yếu là những người có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao. Đây là đặc trưng thứ tư, nhưng cần lưu ý thêm: có trình độ học vấn và chuyên môn cao trong xã hội, nhưng không phải cứ có bằng cấp cao thì là trí thức. Bằng cấp cao chỉ là một trong những biểu hiện, dù là biểu hiện đầu tiên. Không phải ai có bằng cấp cao sau đại học hay cử nhân đều được xem là trí thức. Ngược lại, không phải cứ không có bằng cấp cao thì không phải là trí thức. Có những người, do những điều kiện khác nhau, không có bằng cấp cao, nhưng lao động của họ là lao động trí óc, sáng tạo, chuyên nghiệp. Bởi thế, trong lịch sử có những người có bằng cấp cao, nhưng không được xã hội xem là trí thức, có những người không có bằng cấp cao vẫn được tôn vinh là trí thức. Nhưng, điều này thì ngày càng ít. Xã hội càng phát triển, khoa học, kỹ thuật và công nghệ càng phát triển với tốc độ vũ bão như hiện nay thì ngày càng hiếm khả năng không được đào tạo bài bản, hệ thống mà trở thành người có kiến thức sâu, rộng, chuyên nghiệp và trở thành trí thức được. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao phải gắn liền với tính sáng tạo, tính chuyên nghiệp trong lao động. Tính chuyên nghiệp càng làm cho trình độ học vấn và chuyên môn không ngừng được nâng cao.
Đặc trưng thứ năm, trí thức là những người sáng tạo, truyền bá và áp dụng tri thức vào thực tiễn. Trong thực chất, trí thức bao giờ cũng phải là những người nắm chắc, hiểu biết rõ ràng những kiến thức chuyên môn trong một lĩnh vực xác định. Họ nắm giữ, có vai trò chuyển giao kiến thức cho những nguời khác và thế hệ khác, họ chỉ ra cách lưu giữ, chuyển giao và phương thức vận dụng, phát triển các kiến thức ấy trong những điều kiện và phạm vi xác định. Trong thời đại cách mạng KHCN, việc sáng tạo ra kiến thức vẫn rất quan trọng như trước đây, nhưng việc chỉ ra và chuyển giao phương thức sử dụng kiến thức, sử dụng công nghệ trở nên có vai trò nổi bật trong nội dung cấu thành đặc trưng của giới trí thức hiện đại. Đây là một đặc trưng rất quan trọng, thể hiện lao động chuyên môn, trí tuệ sáng tạo, chuyên nghiệp. Thiếu nó, xã hội sẽ không phát triển nhanh được, thế hệ sau không thể tiếp thu các thành tựu trí tuệ của các thế hệ trước, không thể đứng trên vai thế hệ trước để phát triển.
Trong lịch sử dân tộc, trong tiềm thức và ý thức xã hội, trí thức nhiều lúc đã được đặt ở vị trí hàng đầu, vai trò quan trọng của trí thức đối với sự tồn vong hay hưng thịnh của đất nước được nói đến từ rất sớm: “nhất sĩ, nhì nông”, “sĩ, nông, công, thương”. Năm 1484, Thân Nhân Trung đã viết trên bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí”. Lê Quý Đôn cũng đã nhấn mạnh: “Phi trí tắc vong” - không có trí thức (hoặc không biết sử dụng trí thức), thì chắc chắn sẽ mất nước. Hồ Chủ tịch đã rất chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng trí thức, những người tài, đức. Sau khi nước nhà vừa giành được độc lập, Người đã viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”5.
Đội ngũ trí thức nước ta, với tính cách là một bộ phận của nguồn nhân lực chất lượng cao, những thập kỷ qua đã có vai trò quan trọng và tích cực trong việc cung cấp những luận cứ khoa học để hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Điều này đã được khẳng định và đánh giá cao: Nhiều năm qua, đội ngũ trí thức đã góp phần tích cực vào việc xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới6. Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng sâu, rộng, nhanh, mạnh, bền vững, hàng loạt vấn đề thực tiễn đang đặt ra, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo để mở đường cho sự phát triển. Những nghiên cứu, kết luận, kiến nghị, tư vấn từ việc “tổng kiết thực tiễn và nghiên cứu lý luận”7 của đội ngũ trí thức đã và sẽ trở thành những căn cứ, luận chứng khoa học quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay đóng vai trò đặc biệt to lớn trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không ai ngoài trí thức có thể đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như tầng lớp trí thức, mặc dù trí thức không thể độc lập, tự thân có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được, mà phải phối hợp và cùng với các nhóm, tầng lớp, cộng đồng xã hội khác. Nhưng đây là lực lượng quan trọng nhất, tinh nhuệ và chủ lực, có vai trò to lớn nhất mà không ai có thể thay thế. Sự phát triển của cách mạng KHCN, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế càng mạnh mẽ thì nguồn nhân lực chất lượng cao càng là “nhân tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của mọi nền kinh tế; quyết định vận mệnh của các dân tộc và tương lai phát triển của nhân loại”8. “Mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có tri thức con người là không bao giờ cạn kiệt, bởi tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết”9. Quá trình CNH, HĐH rất cần số lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao không thể CNH, HĐH thành công. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yêu cầu cấp thiết. Không ai có thể, ngoài đội ngũ trí thức, có thể trang bị tri thức, nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực chất lượng cao, cả về phương diện chuyên môn, tính chuyên nghiệp, lẫn trình độ hiểu biết và năng lực tư duy, vốn văn hóa.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có vai trò quyết định trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN, giúp đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần quyết định thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để KHCN trở thành động lực phát triển đất nước cần phải có các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao KHCN của đội ngũ trí thức. Cuộc cách mạng KHCN trên thế giới phát triển như vũ bão đang biến kinh tế công nghiệp thành kinh tế tri thức, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Nó là cứu cánh, phương tiện, phương thức để các nước đang phát triển như nước ta, có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn, phát triển nhanh, mạnh, bền vững, đuổi kịp trình độ kinh tế - công nghệ của các nước phát triển cao trên thế giới. Cả quốc gia cũng như mỗi tỉnh, thành, do vậy, phải đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu KHCN phục vụ quá trình CNH, HĐH đất nước. Không ai khác ngoài đội ngũ trí thức đã và đang đóng vai trò là lực lượng tiên phong, chủ lực trong công tác này.
Đội ngũ trí thức hiện có vai trò không thể thay thế trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam khoa học, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”10. Không ai khác, trí thức có vai trò đặc biệt mà các lực lượng khác trong xã hội không thể thay thế, trong giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trí thức, bằng lao động của mình, là lực lượng xã hội thực hiện tốt nhất sự “kiểm duyệt”, nhận diện, phân định, định hướng, tiếp nhận những giá trị văn hóa tích cực, tiến bộ, phù hợp với truyền thống của dân tộc; gạt bỏ những yếu tố văn hóa lai căng, lạc hậu, có ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa và con người Việt Nam. Đội ngũ trí thức là lực lượng chính thực hiện các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa giữa các vùng miền trong nước, giữa nước ta với các vùng miền lãnh thổ và các nước trên thế giới, góp phần quảng bá các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam đến với bạn bè trong cả nước và quốc tế. Không ai khác, trí thức Việt Nam là lực lượng chủ lực và tiên phong trong việc xây dựng nền văn hóa bác học. Không một tầng lớp xã hội nào có thể làm được việc này ngoài đội ngũ trí thức. Nhưng, họ phải đủ mạnh, đủ tài, đủ tầm, đủ điều kiện và thời cơ mới có thể tạo dựng được một nền văn hóa bác học ngang tầm với sự đòi hỏi của đất nước. Không có được một nền văn hóa bác học đủ tầm cao, dân tộc không thể phát triển nhanh, mạnh được.
Trí thức nước ta có vai trò to lớn trong việc nâng cao dân trí, định hướng giá trị, giải đáp nhiều vấn đề của xã hội đang phát triển đặt ra một cách khoa học, đúng đắn, góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội. Không chỉ trí thức nước ta hiện nay mà việc nâng cao dân trí trong mọi giai đoạn đều do trí thức thực hiện, thậm chí khởi xướng các phong trào nâng cao dân trí dưới các hình thức khác nhau. Đây là một trong những sứ mệnh cao cả và là đóng góp quan trọng của trí thức đối với dân tộc. Trong thời đại ngày nay, vai trò này càng trở nên có ý nghĩa to lớn hơn. Cùng với việc nâng cao dân trí, những vấn đề do sự phát triển xã hội đặt ra trên các phương diện khác nhau từ kinh tế đến tư tưởng, từ đối nội đến đối ngoại, từ các vấn đề văn hóa đến những vấn đề của quản lý xã hội,… trí thức đều có vai trò to lớn, giúp xã hội nhận thức vấn đề rõ ràng hơn, đầy đủ, đúng đắn hơn, tìm ra các giải pháp giải quyết khoa học và thích hợp hơn, định hướng dư luận và hình thành ý thức xã hội đúng đắn, kịp thời, thông qua đó giúp xã hội định hướng nhận thức và định hướng giá trị đúng đắn, làm cho xã hội ổn định và phát triển đúng hướng, đúng quy luật khách quan.
Trí thức đương đại không chỉ có những vai trò trên đây mà còn có các vai trò khác, thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, từ chính trị đến ngoại giao, từ giáo dục, đào tạo đến văn hóa, tư tưởng,… Xã hội càng phát triển thì vai trò của trí thức càng gia tăng, ảnh hưởng của nó trong xã hội càng lớn.
Hiện nay, dù rằng trên phạm vi cả nước, đội ngũ trí thức đã đào tạo được một số lượng khá lớn nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhưng trước yêu cầu phát triển của đất nước, nguồn nhân lực chất lượng cao còn rất thiếu và yếu so với nhu cầu phát triển xã hội. Hệ thống giáo dục, dạy nghề còn lạc hậu, nhất là ở bậc đại học và sau đại học còn bất cập, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao, dẫn đến tình trạng sản phẩm đào tạo vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu, vừa không đồng bộ, không sát với nhu cầu xã hội. Tính chuyên nghiệp, trình độ và năng lực tư duy, vốn văn hóa của nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi mới của sự phát triển của các địa phương và cả nước, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách lãnh đạo, quản lý, chưa thể hiện và phát huy được tính tích cực, sáng tạo của chính lực lượng này.
Số lượng và chất lượng hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao KHCN chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Đội ngũ trí thức hiện nay chủ yếu tập trung ở các trường đại học, học viện, viện/trung tâm nghiên cứu, bệnh viện, Bên cạnh đó, một số có học vị, học hàm làm công tác quản lý trong các cơ quan và các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội. Số người trực tiếp làm nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao KHCN ít, tỉ lệ rất thấp. Tâm lý và cơ chế không lôi cuốn được trí thức đi vào lĩnh vực này. Do vậy, tác động của KHCN đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước còn thấp, yếu, thiếu.
Những đóng góp trong việc nghiên cứu, sáng tạo, vận dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật và KHCN cũng như đóng góp của khoa học xã hội trong việc xây dựng các luận cứ khoa học và tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước dù to lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Sự lạc hậu của lý luận, của khoa học so với thực tiễn chưa được khắc phục, nhiều vấn đề của thực tiễn chưa được khoa học giải quyết kịp thời. Rõ ràng vai trò của trí thức còn bị hạn chế ngay trong lĩnh vực phát triển khoa học và công nghệ.
Các nghiên cứu sáng tạo và phát triển các sản phẩm văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Số lượng, chất lượng các công trình nghiên cứu, sáng tạo văn hóa còn khiêm tốn, chưa có những sản phẩm sáng tạo văn hóa xứng tầm. Trên phạm vi quốc gia, các giá trị văn hóa đang khủng hoảng, biến động dữ dội, nhưng chậm được khắc phục. Văn hóa chưa thực sự là động lực, nền tảng, bệ giảm xóc cho sự phát triển của các địa phương và cả nước. Cần có nhiều sản phẩm sáng tạo văn hóa thì trên cơ sở đó mới có thể có được nền văn hóa bác học nói trên.
Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cũng chưa đáp ứng được yêu cầu biến các giá trị đó thành động lực phát triển kinh tế, xã hội và con người. Những lệch lạc trong hoạt động này diễn ra trong thời gian qua trên phạm vi cả nước chậm được khắc phục cũng thể hiện sự thụ động, chậm chạp, thậm chí là yếu kém của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực này. Việc giao lưu, hợp tác về văn hóa giữa các địa phương, vùng miền và quốc tế cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nói chung của đất nước.
Những hạn chế, bất cập khái quát nói trên cho thấy số lượng, chất lượng của đội ngũ trí thức còn thiếu, yếu, còn chưa đủ sức mạnh, hoặc chưa phát huy được và chưa thể hiện được tính độc lập, chủ động của trí thức trong các lĩnh vực hoạt động của mình. Vai trò, sức mạnh và cả đóng góp của trí thức trong các lĩnh vực và cho sự phát triển của đất nước nói chung còn nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng đó. Dưới đây là một vài nguyên nhân chính.
Nguyên nhân trước tiên là hạn chế trong nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ trí thức trong xã hội đương đại, nhất là trong điều kiện cách mạng KHCN hiện nay. Nhận thức của xã hội nói chung, của một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp về vai trò đội ngũ trí thức chưa đúng và cả chưa trúng. Một số cán bộ đảng, chính quyền chưa coi trọng nguồn nhân lực có trình độ cao, xem công tác trí thức chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan ở trung ương, không phải của cơ sở. Thậm chí, có người, có lúc nhận thức sai lầm rằng: trí thức là tất cả những người có bằng cấp cao, do đó công tác trí thức là đưa cán bộ đi đào tạo để có bằng cấp cao hơn,... Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời về công tác trí thức, không quan tâm xây dựng kế hoạch tổng thể, chiến lược đồng bộ, sát hợp, khoa học, có tầm chiến lược về công tác trí thức; chưa tạo điều kiện, môi trường thuận lợi và không khích lệ được đội ngũ trí thức tham gia nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, đào tạo về KHCN.
Thứ hai, một số cơ chế, chính sách và phương thức quản lý đội ngũ trí thức và hoạt động của họ còn có những bất cập, hạn chế, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi, thậm chí cản trở lao động sáng tạo và cống hiến của đội ngũ trí thức. Các cơ chế, chính sách nặng về hành chính, bị hành chính hóa, không phù hợp với đặc điểm và tính đặc thù của lao động trí óc, lao động sáng tạo,… chính sách phát triển khoa học, đầu tư nghiên cứu chưa tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích giới trí thức tham gia sáng tạo, có quá nhiều thủ tục hành chính rườm rà dẫn đến tình trạng kìm hãm sự phát triển. Trong thực tế, hoạt động KHCN đã bị hành chính hóa từ lâu và rất nặng nề. Có lẽ rất khó và rất lâu nữa để có thể khắc phục được tình trạng này nếu không có sự quyết tâm, quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Các cơ chế, chính sách như: phát hiện, tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh,... có nhiều bất cập nên chưa thể xây dựng được đội ngũ trí thức mạnh, chưa phát huy tối đa chất xám, sự sáng tạo của trí thức11. Đây là nguyên nhân rất căn bản hạn chế việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức hiện nay.
Thứ ba, môi trường, điều kiện làm việc của trí thức chưa thực sự đảm bảo để phát huy năng lực lao động sáng tạo của họ. Môi trường hoạt động của trí thức ở cấp vĩ mô còn nhiều hạn chế, ở các địa phương càng như vậy. Có hiện tượng cứ bằng cấp cao là phân công làm bất cứ việc gì cần, cũng có tình trạng xem trí thức là đáng nghi ngại, không phân công các công việc quan trọng, đúng sở trường, năng lực của họ, không tạo điều kiện cho họ làm việc. Những điều kiện làm việc như: phòng thí nghiệm, máy móc, các trang thiết bị, thư viện, thông tin, dữ liệu,... phục vụ nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao KHCN chưa được trang bị kịp thời, chưa đầy đủ, còn lạc hậu và thiếu đồng bộ. Kết quả khảo sát ở một thành phố lớn về vấn đề này cho thấy: có 88,3% cho là điều kiện làm việc thiếu thốn, lạc hậu12. Đang tồn tại không ít hiện tượng kiểu xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, do vướng mắc về cơ chế đầu tư nên dẫn đến việc vừa “đầu tư xong thì trang thiết bị đã lạc hậu rồi13. Môi trường dân chủ, tự do sáng tạo, công bằng trong học thuật, nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội vẫn còn nhiều bất cập kéo dài chưa được khắc phục.
Thứ tư, phải thẳng thắn thừa nhận rằng một bộ phận trí thức có năng lực hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó do nhiều lý do khác nhau, như phẩm chất cá nhân, điều kiện đào tạo, làm việc, chế độ đãi ngộ. Chất lượng trí thức còn nhiều biểu hiện hạn chế. Sự hạn chế đó trước hết biểu hiện ở sự chủ động, tích cực, ở năng lực lao động sáng tạo, năng lực ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển đất nước nói chung. Số lượng chuyên gia đầu ngành rất thiếu, đội ngũ kế cận còn hụt hẫng, tình trạng thiếu các chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành kéo dài khiến cho năng lực sáng tạo, chất lượng các công trình, đề tài, sản phẩm lao động của trí thức chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tình trạng nguồn lực trí thức trực tiếp làm nghiên cứu, phát triển và chuyển giao KHCN, đặc biệt là công nghệ cao, chưa đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu đã tồn tại quá lâu, nên nhiều vấn đề KHCN đang được đặt ra bức thiết mà không được giải quyết kịp thời, khiến cho xã hội bức xúc. Điều này làm ảnh hưởng khá lớn đến việc nhận thức, đánh giá, sử dụng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong đời sống xã hội. Một bộ phận trí thức lại bị hạn chế trong làm việc tập thể, có biểu hiện cục bộ, độc quyền khoa học. Một bộ phận khác, thiếu ý chí phấn đấu, ít cố gắng vươn lên về chuyên môn, thậm chí cơ hội chủ nghĩa, thích làm quan, ngại làm việc KHCN. Cũng có bộ phận trí thức thiếu ý thức trách nhiệm, chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực, yếu kém đạo đức nghề nghiệp, chạy theo lợi ích trước mắt,… Tình trạng đó đã làm cho hình ảnh người trí thức bị méo mó, xã hội nhận thức lệch lạc về họ, bức xúc với họ và đánh giá sai về họ. Đây chính là hiện tượng nguồn nhân lực trình độ cao mà chất lượng chưa cao, cần sớm được khắc phục.
Nhằm phát huy tốt hơn vai trò đội ngũ trí thức đã có, phát triển hơn nữa tầng lớp trí thức trong thập kỷ tới, để tiến hành CNH,HĐH đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, xây dựng nền kinh tế tri thức, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trong những năm tới, theo chúng tôi, tất yếu phải tích cực, quyết tâm thực hiện các việc sau đây:
Trước hết, nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vai trò của đội ngũ trí thức. Có một số cán bộ, đảng viên, ở một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, và một bộ phận nhân dân vẫn có nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức, không tin tưởng trí thức, ít quan tâm đến công tác trí thức. Một số người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp chỉ tính toán thuần túy ở khía cạnh lợi nhuận bằng tiền; chưa thấy hết được giá trị của các phát minh, sáng chế của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của đất nước và doanh nghiệp, do đó ít quan tâm; đầu tư cho phát triển KHCN quá khiêm tốn hoặc không đủ mức cần thiết. Tình trạng đó tạo ra sự bị động, lúng túng, không thống nhất và không nhất quán trong việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách và trong quản lý, điều hành để phát huy vai trò đội ngũ trí thức ở nhiều cấp, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp.
Bằng nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, tổ chức hội thi, hội thảo,… nhằm nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về vai trò đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, trọng tâm vẫn là công tác tuyên truyền, giáo dục. Nâng cao nhận thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát huy có hiệu quả vai trò đội ngũ trí thức. Bản thân đội ngũ trí thức cũng phải được nâng cao nhận thức về chính bản thân mình. Nếu bản thân đội ngũ trí thức, như đã phân tích, không tự ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với xã hội thì sẽ rơi vào trạng thái thụ động, trông chờ, ỷ lại sự trợ giúp bên ngoài, không thể vượt qua khó khăn, cản trở, không phát huy được sức mạnh trí tuệ nội lực để phát triển xã hội. Khắc phục tình trạng nguồn nhân lực trình độ cao mà chất lượng không cao, trước hết phải đổi mới nhận thức của chính đội ngũ trí thức, của đội ngũ lãnh đạo, quản lý và sau đó là của xã hội.
Thứ hai, phải xây dựng môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Môi trường và điều kiện thuận lợi sẽ là bệ đỡ, chất xúc tác cho đội ngũ trí thức phát huy cao nhất năng lực sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động. Trái lại, môi trường kém, không thuận lợi sẽ gây cản trở, kìm hãm năng lực sáng tạo. Môi trường và điều kiện hoạt động gồm nhiều nội dung khác nhau, nhưng trước hết là không khí dân chủ, tự do sáng tạo, công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo, trong triển khai ứng dụng khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội, là sự cởi mở, sẵn sàng trao đổi, lắng nghe của các cấp lãnh đạo, nhất là người đứng đầu với trí thức, là sự đoàn kết, sự hợp tác trong hoạt động của trí thức, là sự đầy đủ, hiện đại về cơ sở vật chất, trang thiết bị, là sự thông thoáng, đơn giản của các thủ tục hành chính,… Tạo lập môi trường dân chủ, tự do sáng tạo, công bằng trong hoạt động của đội ngũ trí thức là điều kiện tiên quyết để có một nền KHCN phát triển, tiềm lực KHCN mạnh. Do đặc thù lao động của trí thức, nên khi nào, ở đâu hạn chế sự tự do lưu thông dữ liệu, thông tin và tri thức, thì khi đó, chỗ ấy càng chậm tiến vào mô hình kinh tế mới14.
Thứ ba, phải đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa công tác cải cách hành chính trong hoạt động KHCN, nghiêm chỉnh thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Quy trình hành chính là một nội dung của môi trường hoạt động KHCN, nhưng trong điều kiện hiện nay, nó trở thành một nội dung đặc biệt quan trọng, có vai trò to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất, sự sáng tạo của trí thức. Như đã phân tích, ở tất cả các cấp, ngành, địa phương hiện đang có nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, nhiều cửa, nhiều dấu, nhiều chữ ký, nhiều hồ sơ giấy tờ, nhưng không thúc đẩy sự phát triển của KHCN, văn hóa nói chung, không phát huy được vai trò trí thức và lôi cuốn họ vào hoạt động KHCN, thậm chí cản trở không ít đến hoạt động của đội ngũ trí thức. Quyền sở hữu trí tuệ không được đảm bảo công bằng, các sản phẩm sáng tạo văn hóa, khoa học vừa ra đời đã bị sao chép thì càng đầu tư chất xám càng bị thiệt hại. Cải cách hành chính là nhiệm vụ rất quan trọng trước mắt, nhưng cũng phải thường xuyên, liên tục; nghiêm chỉnh thực thi quyền sở hữu trí tuệ là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, chiến lược. Kết hợp đồng bộ cả hai sẽ góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động của giới trí thức, có thể thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, KHCN.
Thứ tư, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật đầy đủ, hiện đại, thích hợp với yêu cầu nghiên cứu, triển khai KHCN, phát triển văn hóa, khoa học. Đây là một nội dung căn bản của môi trường, điều kiện có vai trò đặc biệt trong bối cảnh cách mạng KHCN hiện nay. Cơ sở vật chất là tiền đề không thể thiếu cho hoạt động của giới trí thức. Ngày nay, hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật không chỉ giản đơn là sách vở, thư viện, phòng thí nghiệm mà nội dung của nó phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào từng lĩnh vực, ngành, nghề, vấn đề nghiên cứu, sáng tạo. Không có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương thích thì đội ngũ trí thức không thể nghiên cứu, sáng tạo tri thức, văn hóa, hay ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ KHCN, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đây là điều rất khó khăn với đất nước nói chung, các địa phương nói riêng trong điều kiện kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, điều này không thể không thực hiện, do đó cần lựa chọn tập trung, không dàn trải, đầu tư dứt điểm, đồng bộ, từng bước xây dựng nền tảng cơ sở vật chất hiện đại cho các hoạt động khoa học, công nghệ và văn hóa.
Thứ năm, trước mắt phải sớm đổi mới một số chính sách đối với trí thức cho phù hợp hơn với bối cảnh, tình hình mới của đất nước cả từ góc độ lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần. Nếu như những lợi ích vật chất và tinh thần được đáp ứng kịp thời thì đó sẽ là động lực kích thích sự sáng tạo, cống hiến của trí thức. Việc hành chính hóa các hoạt động của trí thức đã làm sai lệch chế độ, chính sách đối với trí thức. Đổi mới các chính sách đối với trí thức là một trong những giải pháp quan trọng để phát huy vai trò đội ngũ trí thức nước ta nói chung và đội ngũ trí thức các địa phương nói riêng. Đòi hỏi về đổi mới chính sách này là phải đảm bảo công bằng, bình đẳng, minh bạch, phù hợp. Chính sách tiền lương đối với trí thức đã có những cải tiến, thay đổi, song vẫn tồn tại nhiều bất cập, chưa đảm bảo để tái sản xuất sức lao động. Chưa tính tới mức lương còn thua kém nhiều nước trong khu vực, tiền lương đối với trí thức hiện không còn là động lực cho lao động sáng tạo và cống hiến. Kinh nghiệm của Xin-ga-po là trả lương cao cho người lao động để tạo động lực tăng năng suất, chất lượng, ý thức, trách nhiệm của người lao động. “Sự trả công thỏa đáng là nhân tố quan trọng đối với chuẩn mực liêm khiết của hàng ngũ những nhà lãnh đạo chính trị và viên chức cao cấp”15. Cần phải đổi mới để chính sách tiền lương hợp lý hơn, tránh sự chênh lệch quá lớn giữa các khu vực công và khu vực tư, khu vực trong nước với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giữa các ngành, lĩnh vực. Tiền lương thấp, không đảm bảo đủ tái sản xuất sức lao động nên các tổ chức hoạt động khoa học rất khó khăn trong tuyển dụng nhân lực, khó có nguồn có chất lượng tốt để đào tạo thành nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là một thực tế ở các tổ chức nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao KHCN và các sản phẩm sáng tạo khác.
Thứ sáu, trong chính sách, quản lý và điều hành phải thay đổi tư duy về bằng cấp, không nên tuyệt đối hóa tiêu chí bằng cấp, nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa thâm niên công tác, hoặc đặc thù ngành, nghề để thực hiện chính sách đối với trí thức, mà phải chú ý đến sự công bằng, năng suất và hiệu quả đóng góp, tính chất sáng tạo của lao động trí thức. Đồng thời cần phải đảm bảo mức sống có thể tái sản xuất sức lao động, có tích lũy cho tương lai của lao động trí óc, bảo đảm bình đẳng, khách quan, công bằng. Cùng với đổi mới chính sách tiền lương cũng phải đổi mới các chế độ chính sách khác như: thù lao giảng dạy, nhuận bút, viết sách, đào tạo,… Trong lĩnh vực này cũng đang còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập, cho nên không khuyến khích được trí thức lao động, cống hiến nhiều hơn. Các địa phương, bộ, ngành, tổ chức, thời gian qua đã có những hình thức chi trả thù lao ngoài lương để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho trí thức. Điều này là rất cần thiết, cần được nghiên cứu tổng kết thực tiễn để có chính sách tốt hơn. Đổi mới các chính sách này sẽ gây tác động tích cực đến lao động của trí thức. Thời gian gần đây đã xuất hiện tình trạng đang ngày càng xấu là giới trí thức không định hướng cho con cái họ đi theo con đường của họ, vì bản thân họ cảm thấy cuộc sống của họ bấp bênh, bất công, lao động không được đánh giá đúng mức, thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn. Đây là điều báo hiệu sự không ổn định cho tương lai đất nước.
Ở tầm vĩ mô và vi mô đều phải có các chính sách hỗ trợ về nhà ở cho trí thức. Điều này các địa phương có thể làm được, có nơi làm tốt trong thời gian qua. Hiện nay, với mức lương và mức giá sinh hoạt thực tế thì trí thức rất khó đảm bảo cuộc sống ở mức bình thường, nhất là những trí thức trẻ. Chính Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Nguyễn Trần Nam, cũng đã nói rằng lương Bộ trưởng cũng phải mất 40 năm mới có thể mua được nhà ở tại các thành phố. Không “an cư” thì sao trí thức có thể “lạc nghiệp”.
Thứ bảy, nhanh chóng đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức. Cách thức đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức hiện nay vừa lãng phí, vừa không phát huy được sức mạnh của họ, vừa gây ra sự thán oán, kêu ca, phi lý, bất công,… Địa phương cũng như trung ương luôn cần có một số lượng trí thức hợp lý là một đòi hỏi mang tính tiền đề để phát huy vai trò của trí thức. Dù đang thiếu về số lượng nhưng chất lượng còn quan trọng hơn, thậm chí là đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay. Vai trò của trí thức phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị. “Đây là yếu tố cơ bản quy định sức mạnh và hiệu quả phát huy vai trò của đội ngũ trí thức”16. Hiện nay, chất lượng cần được đặt lên hàng đầu trong tương quan với số lượng. Sau đó và cùng với việc nâng cao chất lượng thì hoàn thiện cơ cấu hợp lý, phù hợp sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ.
Hiện tại, chất lượng của trí thức lẫn cơ cấu của đội ngũ đều bất cập. Do vậy đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức là yêu cầu cấp thiết. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn cho đội ngũ trí thức, nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức hiện có, mới có thể xây dựng đội ngũ trí thức đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, thúc đẩy sự phát triển của địa phương và quốc gia. Đổi mới chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, xác định các kế hoạch, mục đích cụ thể, từng giai đoạn một cách khoa học, phù hợp, hiệu quả là việc không nên chậm trễ. Cần đặc biệt chú ý đến những lĩnh vực mà quốc gia và các địa phương đang thiếu, mất cân đối, cần chú ý đến cơ cấu, đặc biệt là độ tuổi, để khắc phục tình trạng “lão hóa” trong trí thức hiện nay. Để có thể cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho xã hội, từ đó mới có thể có đội ngũ trí thức nói riêng, nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung thì tất yếu phải đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học.
Công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định việc phát huy vai trò của trí thức nước ta. Nếu công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng khách quan, chính xác, công bằng và minh bạch thì mới lựa chọn được người tài giỏi, phát huy được năng lực, phẩm chất, sự cống hiến của từng cá nhân cũng như của cả đội ngũ. Tình trạng “lãng phí chất xám”, tuyển dụng, bố trí, sử dụng không đúng sẽ làm thui chột khả năng sáng tạo của trí thức, thậm chí làm mất luôn nguồn lực trí thức của xã hội. Do vậy, việc nhanh chóng đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức là đòi hỏi có tính chất căn bản vừa có ý nghĩa chiến lược, lại vừa có ý nghĩa cấp thiết hiện nay, đó cũng là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển đất nước.
Có rất nhiều vấn đề mà thực tế đang đặt ra cho việc quy hoạch, phát huy và phát triển đội ngũ trí thức. Nhưng trên đây là bảy vấn đề mà chúng tôi cho là căn bản nhất, bức thiết nhất hiện nay, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, kịp thời, quyết tâm và nhất quán, mới hi vọng có thể có chuyển biến tích cực trong hoạt động của tầng lớp trí thức hiện nay cả trên phạm vi địa phương lẫn quốc gia. Thực hiện sớm, đồng bộ, hiệu quả các đề xuất trên đây chính là thực hiện đường lối Đại hội lần thứ XII của Đảng: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”17.
[1] Lương Đình Hải (2012), “Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 3, Tr. 3 - 10.
[3] Ngô Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 16.
5 Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 451.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 83.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 82.
8http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/24849202-mot-so-van-de-ve-phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-o-nuoc-ta-hien-nay.html.
9Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, Tr. 8.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.55.
11 Ví dụ, những năm qua, mỗi đề tài cấp Nhà nước khi triển khai, chủ nhiệm và thủ trưởng cơ quan chủ trì mỗi người phải ký ít nhất 1.200 chữ ký, giám đốc sở phải ký ít nhất 100 chữ ký; Cán bộ nghiên cứu khoa học không có thâm niên, thang lương hành chính, không được nâng lương khi nâng học hàm, học vị,...
12 Hoàng Anh Tuấn (2004), “Thực trạng sử dụng đội ngũ khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân và các giải pháp phát huy hiệu quả”, Đề tài cấp Thành phố, do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh chủ chủ trì, Tr. 36.
13http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/phong-thi-nghiem-trong-diem-dau-tu-xong-thiet-bi-da-lac-hau-990381.htm.
14 Alvin Toffler (2006), Thăng trầm quyền lực (Khổng Đức dịch), Nxb. Thanh niên, Tr. 391.
15 http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/509/language/vi/Kinh-nghi-m-c-i-cach-chinh-sach-ti-n-l-ng-d-i-v-i-cong-ch-c-c-a-Singapore.aspx.
16 Ngô Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.191.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Con người số 4 (85), 2016, trang 17-29.