Triển vọng ASEAN và sự chi phối của các nước lớn - Những thách thức đối với Việt Nam

Triển vọng ASEAN và sự chi phối của các nước lớn - Những thách thức đối với Việt Nam

30/07/2015

 PGS. TSKH. Trần Khánh (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á) 

ThS. Hồ Thị Ái Phương (Đại học Duy Tân, Đà Nẵng)

 

Hiện nay, có 3 động lực hay nhân tố chính đang chi phối môi trường an ninh và hợp tác khu vực, đó là 1) Sự trỗi dậy của Trung Quốc và quyết tâm của họ trong việc thực hiện "giấc mộng Trung Hoa"; 2) Sự triển khai khá mạnh mẽ chiến lược "tái cân bằng" cả về quân sự và kinh tế của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á là trọng điểm chính; và 3) Nỗ lực mới của ASEAN trong hiện thực hóa cộng đồng của mình, trước hết là kinh tế và trong hình thành một cấu trúc an ninh mới với ASEAN làm trung tâm. Các 3 yếu tố trên đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự điều chỉnh nhận thức và  hành động chiến lược của các bên liên quan. Việt Nam đang nằm trong "vòng xoáy chiến lược" của các quá trình trên. Chính vì vậy, nhu cầu nhận diện tình hình và xu hướng tiến triển của khu vực để từ đó đưa ra dự báo, đề xuất chính sách, giải pháp cho Việt Nam trong ứng xử với ASEAN và các nước lớn, nhất là với Trung Quốc và Mỹ là hết sức cấp bách. Hơn nữa, trên đây là vấn đề của khoa học đang đặt ra.  

Trên đây là vấn đề lớn. Bài viết này chỉ khái quát về vị thế của ASEAN hiện nay và sự tác động của các nước lớn đối với triển vọng của tổ chức này trong những năm sắp tới và từ đó đưa ra một vài gợi ý chính sách cho Việt Nam.

1. Hành động chiến lược và vị thế của ASEAN hiện nay

1.1. ASEAN đang cố gắng hiện thực hóa cộng đồng khu vực vào cuối năm 2015

Về kinh tế, ASEAN từ năm 2010 đã hình thành nên một  Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) giữa các nước thành viên ban đầu và hiện nay (2014) đã hoàn thành được khoảng 80% cam kết xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Như vậy có thể tin rằng, đến cuối năm 2015, ASEAN sẽ có một Cộng đồng Kinh tế, cho dù một số nội dung về tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, luân chuyển vốn và lao động có thể phải tiếp tục hoàn thiện sau đó[1].

Về chính trị - an ninh, ASEAN đã tạo ra được một hệ thống các định chế mang tính chính trị - pháp lý nhằm thúc đẩy hợp tác nội khối, góp phần duy trì hòa bình và hóa giải xung đột khu vực, mà điển hình là Hiệp ước thân thiện và hợp tác –TAC, Hiến chương ASEAN- ASEAN Chart, Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN, v.v... Mặc dù việc hiện thực hóa Cộng đồng chính trị -An ninh ASEAN đang gặp một số thách thức, trở ngại khá lớn, nhất là sự chia rẽ của ASEAN trong vấn đề Biển Đông, chính sách "chia để trị" của các thế lực bên ngoài, nhưng các nước ASEAN đều muốn củng cố vài trò của tổ chức này[2].

Về văn hóa - xã hội, hiện nay có tới 90% các dòng hành động để hiện thực hóa Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). ASCC  đã được tiến hành với kết quả khá tốt, nhất là trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và gia tăng phúc lợi cho người dân. Mặc dù có gặp nhiều khó khăn, nhất là về nguồn tài chính, nhưng các hợp tác chuyên ngành văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, khoa học - kỹ thuật đang được xúc tiến khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, để có một ASEAN phát triển hài hòa, cởi mở, có một mức sống và phúc lợi xã hội cao, đùm bọc lẫn nhau và chia sẻ giá trị chung thì chắc là còn lâu bởi sự khác biệt trong ASEAN còn khá lớn[3].

1.2. ASEAN đang giữ vững vai trò chủ đạo trong hợp tác quốc tế và tạo dựng được một cấu trúc an ninh mới ở khu vực với ASEAN làm trung tâm

Trước hết là ASEAN tiếp tục mở rộng và củng cố quan hệ đối thoại chiến lược với các đối tác bên ngoài, nhất là với các nước, thực thể lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, EU và Nga. Điểm đáng chú ý là từ cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI, ASEAN đã cải thiện nhanh chóng và mở rộng quan hệ đối thoại chiến lược với Mỹ. Cùng với đó, ASEAN cũng chú trọng làm sâu sắc quan hệ hơn với Trung Quốc, nhất là trong quan hệ kinh tế.

Tiếp đến, ASEAN đang nỗ lực tạo dựng được một một cấu trúc an ninh mới ở khu vực lấy ASEAN làm trung tâm. Cùng với những định chế đã thiết lập từ hồi Chiến tranh Lạnh và trong thập niên 90 của thế kỷ XX (như “Tuyên bố về sự Hòa hợp ASEAN”,“Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á” (TAC), “Diễn đàn Khu vực” (ARF),“Hiệp ước Đông Nam Á không có Vũ khí Hạt nhân” (SEANWFZ), từ 2005, ASEAN đã chủ động lập nên "Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á" (EAS).  Đến năm 2010, tham gia vào EAS ngoài 10 nước ASEAN còn có 8 đối tác bên ngoài là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Mỹ và Nga.

 Bước tiếp, ASEAN vào năm 2010 đã tạo ra cơ chế Hội nghị Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +). Lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN và khu vực châu Á - Thái Bình Dương có 18 Bộ trưởng Quốc phòng các nước (gồm của 10 nước ASEAN và 8 nước đối tác là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Australia và New Zealand) ngồi lại bàn thảo về hợp tác quốc phòng an ninh.

Cùng với tiến trình trên, ASEAN thông qua ARF đẩy mạnh việc chuyển giai đoạn từ xây dựng lòng tin sang ngoại giao phòng ngừa trong giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên. Từ Hội nghị ARF lần thứ 17 tổ chức tại Hà Nội năm 2010, ASEAN đã mạnh dạn đưa các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp Biển Đông ra bàn luận và tiếp theo từ năm 2011 trở đi, vấn đề này được liên tục được nhắc đến tại các hội nghị tiếp theo của ASEAN và đã thông qua được nhiều văn kiện khá quan trọng như  "Bản hướng dẫn DOC" (2011), "Tài liệu Quan điểm của ASEAN về các thành tố cần có của COC" (2012), "Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông"  (2012),  "Tuyên bố 10 năm DOC" (2013), "Tuyên bố của Bộ trưởng các nước ASEAN về Biển Đông" (2014) v.v...

Cùng với đó, ASEAN đang thực hiện tương đối có hiệu quả nhiều cam kết ghi trong  Hiến chương ASEAN và trong Kế hoạch tổng thể APSC, trong đó có việc việc lập nên Viện Hòa bình và Hòa giải ASEANTuyên bố Nhân Quyền ASEAN

Tuy nhiên, sự vận hành và tính hiệu quả của các cơ chế hợp tác an ninh trên nói riêng, quá trình kiến tạo nên một cấu trúc an ninh mới ở khu vực với ASEAN làm trung tâm nói chung đang đứng trước những thách thức lớn bởi không chỉ tồn tại sự khác biệt về lợi ích, cách tiếp cận về an ninh, sự thiếu thống nhất và chiều sâu trong hợp tác và hội nhập ASEAN, mà còn bởi sự gia tăng cạnh tranh giành ưu thế kiểm soát địa chính trị của các nước lớn, trong đó có chính sách “chia để trị” của họ[4].

2. Tác động của các nước lớn đối với triển vọng của Cộng đồng ASEAN

ASEAN đang tiến tới một thị trường thống nhất, rộng lớn, có tiếng nói tập thể khá trọng lượng trong các vấn đề an ninh và hợp tác khu vực và là đối tác không thể thiếu trong chính sách khu vực của các nước lớn. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN và vị thế của tổ chức này  đối với từng nước ASEAN và trên trường quốc tế hiện nay cũng như trong tương lai không chỉ phụ thuộc vào ý chí, hành động chiến lược của mỗi nước thành viên, mà còn bị chi phối từ các nước lớn, nhất là từ cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc.

2.1. Tác động tích cực

Trước hết, sự trỗi dậy của Trung Quốc[5] và sự “xoay trục” chiến lược, can dự nhiều hơn của Mỹ vào các vấn đề của châu Á-Thái Bình Dương[6] nói chung, Đông Nam Á nói riêng đã và đang tạo ra cú hích mới cho ASEAN  theo đuổi chiến lược hướng ngoại, cân bằng ảnh hưởng trong quan hệ với các nước lớn, duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như là một động lực chủ chốt trong một cấu trúc khu vực mới đang định hình. Trung Quốc có một thị trường với hơn 1,4 tỷ người, đang phát triển mạnh là cơ hội để mở rộng hợp tác, tăng tính cạnh tranh của ASEAN. Việc Mỹ tăng cường can dự, hiện diện ở Đông Nam Á, bằng chiến lược “tái cân bằng” cả về quân sự và kinh tế đã và đang giúp ASEAN có điều kiện tốt hơn theo đuổi  “cân bằng chiến lược” trong quan hệ với các nước lớn, hạn chế  tham vọng "Giấc mơ Trung Hoa" của Trung Quốc.   

Tiếp đến, sự gia tăng hợp tác và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung đã và đang thúc đẩy liên kết nội khối, buộc ASEAN phải hoàn thành nhanh tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Mặc dù các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc có coi trọng và ủng hộ ASEAN xây dựng Cộng đồng ASEAN, nhưng vì mục tiêu và lợi ích địa chính trị của họ, họ đang và sẽ gia tăng chính sách “chia để trị”. Nếu ASEAN không củng cố sự thống nhất và thúc đẩy hội nhập khu vực thì có thể bị suy yếu và phân rã.

Cùng với quá trình trên, sức ép cạnh tranh và hợp tác cùng có lợi đã thôi thúc nhiều nước ASEAN thúc đẩy nhanh hơn tiến trình dân chủ hóa xã hội.

Một tác động mang tính bao trùm là làm tăng vị thế của ASEAN như một chủ thể có quyền lực trong kiến tạo cấu trúc an ninh mới và định hình trật tự quyền lực ở khu vực, đồng thời quá trình trên đang làm tăng nguồn “tài nguyên địa chính trị”, sức mặc cả của ASEAN và các nước thành viên trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế, nhất là trong quan hệ với các nước lớn[7].

2.2. Những thách thức mới đối với an ninh và phát triển của ASEAN  

Trước hết, thách thức bắt nguồn từ toan tính lợi ích chiến lược của các nước lớn, nhất là từ tham vọng “Giấc mơ Trung Hoa” của Trung Quốc và quyết tâm duy trì vị thế nội trội, “Siêu cường duy nhất” của người Mỹ. Mặc dù các nước lớn đều coi trọng ASEAN xây dựng AC, chấp nhận ASEAN đóng vai trò trung tâm trong các diễn đàn khu vực, nhưng vì mục tiêu và lợi ích chiến lược lâu dài, các nước lớn này thường tìm cách phân hoá và gây sức ép với ASEAN và các nước thành viên trên một số vấn đề có lợi ích chiến lược, nhằm phục vụ chính sách khu vực của họ và tranh giành ảnh hưởng giữa họ với nhau. Trong lúc ASEAN còn tồn tại nhiều khác biệt, thì mọi sự tác động, lôi kéo từ bên ngoài có khả năng làm mất đoàn kết, ly tâm trong Hiệp hội. Vì lợi ích cục bộ, trước mắt, một số nước thành viên có thể “đi đêm”, “đi riêng lẻ” với các nước lớn. Điều này được chứng minh khá rõ trong vấn đề Biển Đông.

Tiếp đến, sự gia tăng cạnh tranh chiến lược  giữa các nước lớn, nhất là cặp Mỹ-Trung, sau đó là Trung-Nhật  đang làm cho các mâu thuẫn, xung đột địa chính trị của khu vực tăng nhanh, nhất là ở những khu vực nhạy cảm  như ở Biển Đông, hay Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công v.v... Kéo theo nó là làm tăng chạy đua vũ trang. Xu hướng trên không chỉ làm cho nhiều nước ASEAN phải tăng chi phí quốc phòng, làm ảnh hưởng đến phát triển và hội nhập kinh tế, mà còn tạo điều kiện cho các nước can thiệp nhiều hơn vào khu vực, gia tăng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng có lợi cho họ nhằm thực hiện mục tiêu địa chính trị của mình. Điều này đã và đang tác động mạnh mẽ đến tính tương đối độc lập và trung lập của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn, cụ thể là đến chiến lược cân bằng ảnh hưởng mà ASEAN đang theo đuổi[8].

3. Tác động đến Việt Nam

Bởi nằm ở vị trí địa chiến lược, nơi còn tồn tại và đan xen nhiều mâu thuẫn của thời đại nên Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của các quá trình trên. Trung Quốc muốn sử dụng các mối quan hệ láng giềng truyền thống và sự ràng buộc về ý thức hệ chính trị - tư tưởng giai cấp cũng như sức mạnh kinh tế đang lên của họ (bằng thương mại và viện trợ phát triển) và cả áp lực về quân sự để níu kéo Việt Nam, mở rộng nhanh hơn tầm ảnh hưởng của họ xuống Đông Nam Á. Mỹ cũng muốn khai thác vị thế đang lên của Việt Nam để mở rộng lợi ích chiến lược của họ ở khu vực đang bị Trung Quốc thách thức. ASEAN muốn nhanh chóng có một cộng đồng để tăng tính đề kháng, bảo vệ và phát triển lợi ích của họ trước sức ép cạnh tranh và chèn ép từ bên ngoài. Cả 3 nhân tố này đang tác động đa chiều, ngày càng lớn, tạo ra cả cơ hội và thách thức đan xen đối với Việt Nam, nhất là đối với an ninh và thịnh vượng.

3.1. Tác động tích cực

Trước hết, sự gia tăng can dự, hợp tác và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là cặp Mỹ - Trung và việc ASEAN đang nỗ lực để hiện thực hóa cộng đồng của mình đang tạo ra cơ hội thuận lợi hơn cho Việt Nam trong việc theo đuổi chính sách “đa cửa”, “đa đối tác”, "cân bằng chiến lược" trong quan hệ với các nước lớn nhằm khai thác tối đa nguồn tài nguyên địa chính trị cho thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, hội nhập có hiệu quả vào hệ thống toàn cầu và tăng sức đề kháng dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, an ninh kinh tế và đặc biệt là để nâng quan hệ với các nước lớn (nhất là Mỹ và Nhật Bản), các nước láng giềng trong ASEAN lên tầm cao mới.

Về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, các nước lớn, nhất là Mỹ, Nhật Bản và các nước tư bản phát triển khác có ưu thế về thị trường, vốn đầu tư, công nghệ và chất xám cao trong đào tạo nguồn lực, có cơ chế và quan hệ hợp tác bạn hàng và đồng minh chiến lược khá rộng khắp trên thế giới, nên sự gia tăng nhân tố của họ ở Đông Nam Á cũng như thúc đẩy quan hệ với Việt Nam có lợi cho Việt Nam trong việc cung cấp các phương tiện, nguồn lực cho tái cấu trúc, đổi mới và phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam. Điều này góp phần quan trọng giảm thiểu mặt trái trong phát triển thương mại với Trung Quốc và một số nước khác.

Còn sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhất là thương mại đang thúc đẩy các quan hệ bạn hàng với Việt Nam. Điều này đã và đang tạo ra những cạnh tranh mới trong thu hút đầu tư vào Việt Nam từ phía các nước khác. Điều này cũng buộc Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế và gia tăng hội nhập khu vực và toàn cầu.

Về đảm bảo chủ quyền lãnh thổ và đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống, thì tác động của nhân tố các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc đối với Việt Nam cũng rất lớn. Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng áp lực, cứng rắn áp đặt chủ quyền của họ ở Biển Đông, thì sự gia tăng can dự của Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Nga, cả về quân sự, ngoại giao và pháp lý liên quan đến vùng biển này sẽ góp phần hạn chế hành động leo thang của Trung Quốc. Điều này có lợi cho Việt Nam trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là tranh thủ sự ủng hộ từ phía Mỹ và các nước khác. 

Mỹ có nhiều kinh nghiệm, khả năng vật lực, phương tiện cũng như cơ chế để đối phó với những thảm họa thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Còn Trung Quốc đang trỗi dậy, có tranh chấp mạnh mẽ về chủ quyền biển đảo với nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam thì hợp tác của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, nhất là về các vấn đề an ninh phi truyền thống là cần thiết.

Về vị thế địa chiến lược, và nguồn “tài nguyên địa chính trị”, thì sự gia tăng nhân tố các nước lớn và việc củng cố vị thế của ASEAN đang và sẽ giúp Việt Nam có thêm  phương tiện “mặc cả”, khả năng khai thác, sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là từ các nước lớn và sức mạnh tập thể của ASEAN để cân bằng chiến lược trong quan hệ quốc tế, nhất là với cặp quan hệ Mỹ - Trung, từ đó góp phần củng cố nền độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc, phát triển và hội nhập quốc tế, làm tăng nhanh vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

3.2 Những thách thức đang tạo ra

Bởi nằm ở vị trí địa chiến lược và sự tồn tại của những mâu thuẫn, xung đột do lịch sử để lại, nên Việt Nam cũng là nước chịu nhiều thách thức nhất từ các quá trình trên. Trước hết là về an ninh, việc Trung Quốc đang ráo riết thực hiện "Giấc mộng Trung Hoa", nhất là hành động quyết đoán áp đặt chủ quyền của họ ở Biển Đông đang đe dọa đến không gian sinh tồn của Việt Nam. Còn Mỹ nước không từ bỏ âm mưu xóa bỏ chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì mục tiêu chiến lược rộng lớn hơn, nhất là trong kìm chế Trung Quốc, Mỹ có thể ‘lơi là”, tạm gác về vấn đề dân chủ, nhân quyền để tiếp tục phát triển quan hệ với Việt Nam. 

Về phát triển kinh tế và vị thế, Trung Quốc đang là thách thức lớn đối với cạnh tranh hàng xuất hóa và chiếm lĩnh thị trường của Việt Nam. Do cơ cấu ngành hàng tương đối giống nhau và khả năng cạnh tranh của Việt Nam còn thấp nên hàng hóa của Trung Quốc có thể bóp chết nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam. Việt Nam có thể trở thành “thuộc địa”, thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và cung cấp nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Hơn nữa, Trung Quốc có thể sử dụng quan hệ kinh tế (xuất khẩu, viện trợ kinh tế và đầu tư) để tạo sức ép kinh tế, chính trị và ngược lại. Sự gia tăng quan hệ của Trung Quốc với Lào và Campuchia cũng đang tạo ra những thách thức lớn đối với hợp tác kinh doanh cũng như duy trì lợi ích của Việt Nam tại hai nước láng giềng này. Trong khi đó, Mỹ tuy muốn Việt Nam có vị thế cao hơn ở Đông Nam Á, nhưng muốn Việt Nam từ bỏ mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thêm vào đó, cả Mỹ, Trung Quốc và nhiều nước lớn khác vì lợi ích lớn hơn, họ có thể “đi đêm”, mặc cả với nhau, làm tổn hại đến an ninh và phát triển của Việt Nam.

Ngoài ra, sự gia tăng sức ép của các nước lớn, trước hết là Trung Quốc và Mỹ cũng tạo ra nhiều điều khó xử trong quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là trong quan hệ với Nga và Nhật Bản. Lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích ý thức hệ giai cấp không phải lúc nào cũng song hành đi đôi với nhau. Tham vọng kiểm soát địa chính trị của các nước lớn, nhất là của Mỹ và Trung Quốc cũng mâu thuẫn với lợi ích của các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam. Nếu Việt Nam không biết xử lý tốt các mối quan hệ đó có thể bị kẹt ở giữa, có khi phải hứng chịu nhiều “làn đạn” từ các đối thủ cạnh tranh hay trở thành “bia đỡ đạn” của đối thủ kia. Đối với Việt Nam, thì sự cạnh tranh giành ưu thế địa chính trị giữa Mỹ và Trung không chỉ bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc nước lớn, mà còn bị tác động bởi đấu tranh ý thức hệ chính trị - tư tưởng giai cấp. Điều này lại càng làm tăng tính phức tạp, sự nhạy cảm trong quan hệ ứng xử của Việt Nam với các nước lớn, nhất là với Trung Quốc và Mỹ.

Còn sự ra đời của Cộng đồng ASEAN cũng tạo ra một số thách thức. Có lẽ thách thức lớn nhất xuất phát từ chất lượng nguồn nhân lực và khả năng quản trị còn nhiều yếu kém của Việt Nam.

4. Thay lời kết luận: Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam

4.1.  Trong quan hệ với các nước lớn, thực thể lớn

- Trước hết là với Mỹ: Sự gia tăng nhân tố Mỹ đang tạo ra nhiều cơ hội hơn là thách thức đối với Việt Nam, nhất là trong phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng và nâng cao vị thế của Việt Nam trong ASEAN. Chính vì những lý do trên, Việt Nam trong thập niên tới nên nâng tầm quan hệ với Mỹ từ quan hệ đối tác toàn diện lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hay sâu rộng, trong đó tập trung vào khía cạnh kinh tế và an ninh, như hợp tác an ninh biển và chống biến đổi khí hậu.

- Còn đối với Trung Quốc: Trung Quốc tiếp tục thi hành chính sách vừa tranh thủ, hợp tác, vừa gây sức ép với Việt Nam. Trung Quốc ít dựa trên ý thức hệ giai cấp để xử lý các mối quan hệ với Việt Nam mà chủ yếu xuất phát từ lợi ích dân tộc. Vì vậy, Việt Nam cần khai thác tối đa khía cạnh đối tác để đẩy lùi và hóa giải mặt đối tượng. Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục hợp tác với Trung Quốc trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, hoá giải những mâu thuẫn để duy trì môi trường hoà bình và củng cố tình hữu nghị, quan hệ láng giềng.

- Trong quan hệ với Nhật Bản, Việt Nam nên  thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản, trong đó cần tranh thủ cơ hội mới đang diễn ra để thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản và mở rộng hợp tác an ninh biển với nước này.  

- Đối với Liên bang Nga, thì cần nhận thức rằng, khó khăn hiện nay của Nga là tạm thời và Việt Nam cần củng cố lòng tin chiến lược và thúc đẩy quan hệ quân sự - quốc phòng, khai thác lợi thế thị trường và thu hút đầu tư từ nước này.

- Trong quan hệ với Ấn Độ, Việt Nam cần coi Ấn Độ như một đối tác chính trong hợp tác an ninh - quốc phòng, nhất là trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Ngoài việc tìm kiếm, khai thác thị trường Ấn Độ, cần tăng cường hợp tác an ninh - quốc phòng với nước này, trong đó có cả tập trận chung, trao đổi chuyên gia, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường nền ngoại giao nhân dân.

Ngoài các đối tác trên, cần khai thác nhân tố EU, Hàn Quốc, Australia v.v... để làm tăng thế mặc cả, khả năng đề kháng của Việt Nam trước xu hướng cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung đang gia tăng.        

4.2. Trong quan hệ với ASEAN và các nước thành viên

- Với ASEAN: Nếu không có ASEAN, Việt Nam sẽ khó khăn hơn nhiều trong quan hệ với các nước lớn, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Chính vì vậy, Việt Nam cần coi  việc hiện thực hóa và củng cố Cộng đồng ASEAN là một trong những nhiệm vụ quan trọng, một trong những trụ chính của chính sách đối ngoại.

Để thực hiện những định hướng trên, 1) Cần chủ động đề xuất các giải pháp, đưa ra các sáng kiến nhằm bổ sung, hoàn thiện mô hình AC sau năm 2015 theo hướng định chế, ràng buộc về mặt pháp luật và chế tài xử lý các trường hợp vi phạm; 2) Sử dụng tối đa các diễn đàn của ASEAN, cả chính thức và phi chính thức để đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo và an ninh quốc gia.

- Đối với các nước ASEAN: Việt Nam nên chú trọng hơn đến đối tác Indonesia, Philippin và Mianma, nên mở rộng hợp tác về an ninh biển, kể cả tập trận chung với các nước này. Cùng với đó, tiếp tục củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và quan hệ hữu nghị, hợp tác với Campuchia. Cần có các dự án, chương trình nghiên cứu, hợp tác cụ thể hơn đối với các nước, nhóm nước trong ASEAN, không chạy tràn lan, tập trung vào trọng tâm, trọng điểm. Nên đề xuất xây dựng một cơ chế hợp tác giữa Việt Nam, Lào, Campuchia và Mianma. Ngoài ra cũng cần hợp tác chặt chẽ hơn với Philippin và Malaysia trong hồ sơ về Biển Đông.

4.3. Đối với vấn đề Biển Đông và hợp tác phát triển bền vững Tiểu vùng sông Mê Công

- Về  vấn đề Biển Đông: Ngoài việc thúc đẩy tiến trình COC, Việt Nam cần đưa ra sáng kiến mới lập một “Ủy hội hợp tác phát triển bền vững ở Biển Đông” giống như “Ủy hội sông Mê Công”  Bên cạnh đó ASEAN cũng nên lập nên cơ chế “Cảnh sát Biển chung của  các nước ASEAN có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông”, sau đó là “Cảnh sát biển ASEAN”, sau đó cùng với Trung Quốc lập nên cơ chế “Cảnh sát Biển ASEAN - Trung Quốc” trên Biển Đông. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên mạnh dạn đề xuất lập nên “Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á” như theo gợi ý của Giáo sự Carlyle A. Thayer.

Cùng với những điều trên, Việt Nam nên đề xuất với ASEAN thông qua một văn bản có tính ràng buộc, yêu cầu nước Chủ tịch luân phiên ASEAN hàng năm đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự chính thức của các cuộc hội nghị. Để thúc đẩy quá trình này, ASEAN nên thành lập “Phân Viện Hòa giải tranh chấp biển Đông Nam Á” thuộc “Viện Hòa bình và Hòa giải ASEAN" mà ASEAN đã lập nên từ năm 2012.

Ngoài ra Việt Nam nên khuyến khích và có ưu đãi đối với các tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ, Ấn Độ, Nga, Canada, Australia, Nhật, Hàn Quốc, v v... khai thác dầu khí, mở các dịch vụ biển, kể cả cho phép họ đưa lực lượng bảo vệ của họ đến Biển Đông. Cùng với đó, Việt Nam cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể đưa vấn đề Biển Đông ra tòa án quốc tế[9].

- Về hợp tác phát triển bền vững ở hạ nguồn sông Mê Công, Việt Nam không thể tự mình ngăn cản hay hạn chế các nước khác xây dựng các đập thủy điện trên dòng sông Mê Công, nhưng cần đấu tranh công khai và mạnh mẽ về việc tuân thủ những cam kết trong "Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững sông Mê Công", đồng thời cần tận dụng tối đa các sáng kiến của Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, EU v.v... để phát triển bền vững ở khu vực này[10].

 

 


CHÚ THÍCH

[1] Xem thêm: Hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN và tác động đến Việt Nam (Nguyễn Văn Hà cb). Hà Nội: Nxb. KHXH, 2013, 227 tr.

[2] Xem thêm: Hiện thực hóa Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN: Vấn đề và triển vọng (Trần Khánh cb.). Hà Nội: Nxb. KHXH, 2013,  232 tr.

[3] Xem thêm: Xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN (Nguyễn Đức Ninh cb.). Hà Nội: Nxb. KHXH, 2013, 302 tr.

[4] Xem thêm: Trần Khánh. Vai trò của ASEAN trong kiến tạo cấu trúc an ninh mới ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương//Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 1, 2013.

[5] Xem thêm: Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng. Xu hướng gia tăng hợp tác kinh tế và chiến lược của Trung Quốc với Đông Nam Á trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI//Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 4, 2014.

[6] Xem thêm: Trần Khánh. Xu hướng tái cân bằng chiến lược về kinh tế và ngoại giao của Mỹ ở Đông Nam Á từ cuối thập niên đầu thế kỷ XXI//Châu Mỹ Ngày nay, Số 3, 2014; Xu hướng tái cân bằng chiến lược về quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á từ cuối thập niên đầu thế kỷ XXI//Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, Số 3, 2014.

[7] Xem thêm: Hợp tác và cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ở Đông Nam Á ba thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh (Trần Khánh cb.). Hà Nội: Nxb. Thế Giới, 2014, tr. 267-274.

[8] Như trên, tr. 277-280; Đồng thời xem: Trần Khánh-Trần Lê Minh Trang. Sự nổi lên của các vấn đề an ninh và tác động của chúng đến môi trường hợp tác và cạnh tranh ở Đông Nam Á trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI//Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 5, 2011;

[9] Xem thêm: Tran Khanh. The East Sea Disputes: Realities and Solutions//International Studies, No. 30, June 2014.

[10] Trần Khánh. Thúc đẩy hợp tác an ninh và phát triển giữa ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia trong bối cảnh mới//Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 9, 2014.  

 

Nguồn:   Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (2015), số 4 (181), tr. 3-10.                                  

Các tin đã đưa ngày: