Tăng trưởng xanh đang được định hình là một mô hình tăng trưởng bền vững và phù hợp với Việt Nam, giúp Việt Nam có thể tái cơ cấu kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng. Trong thực hiện tăng trưởng xanh, cần phải có cơ cấu năng lượng mà ở đó tỉ phần của năng lượng tái tạo dần dần tăng lên trong tổng cung năng lượng sơ cấp.
Các dự án khai thác năng lượng tái tạo để phát điện đang có xu hướng tăng nhanh trên thế giới. Tuy nhiên, việc phát triển các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam đang còn gặp nhiều khó khăn trong đó quan trọng bậc nhất là các điểm nghẽn về thể chế và tiếp cận nguồn vốn cho các dự án năng lượng tái tạo.
Theo dự báo, tăng trưởng năng lượng của Việt Nam giai đoạn tới sẽ đạt mức 6,5- 7% trong thời gian tới. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiếp tục cao sẽ tạo sức ép cho tăng nguồn cung năng lượng. Để đảm bảo cung ứng điện tới năm 2030, Việt Nam dự kiến phải nhập khẩu khoảng 1,2 triệu tấn LNG, 35,1 triệu tấn than vào năm 2025 và tăng dần tới 8,5 triệu tấn LNG và 45 triệu tấn than vào năm 2030. Đây là những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh cung cấp điện. Nhu cầu vốn đấu tư hàng năm cho chương trình phát triển nguồn và lưới điện lên tới khoảng 13 tỷ USD/năm giai đoạn 2021-2030, đó là một con số khá lớn.
Thời gian qua phát triển các dự án năng lượng tái tạo cũng còn gặp một số hạn chế. Hạ tầng lưới điện truyền tải không theo kịp tiến độ của các dự án năng lượng tái tạo, dẫn đến các dự án điện gió, điện mặt trời quy mô nối lưới ở một số địa phương như Ninh Thuận, Bình Thuận đã không giải tỏa hết 100% công suất ở một số thời điểm nhất định. Đối với điện mặt trời, dù rất tiềm năng và dễ làm nhưng cũng chưa đạt như kỳ vọng vì chi phí đầu tư ban đầu còn khá cao, chưa có sự tham gia hỗ trợ mạnh mẽ từ các tổ chức tài chính.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết: Biến đổi khí hậu là một xu hướng ngày càng gia tăng và thể hiện rõ ràng hơn. Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất. Chính vì vậy, năm 2015 cộng đồng quốc tế trong đó có Việt Nam đã cùng ký thỏa thuận Pari về biến đổi khí hậu trong đó đặt mục tiêu kiểm soát phát thải khí nhà kính để cho nhiệt độ không tăng hơn 2oC và cố gắng kiểm soát trong vòng 1,5oC. Thỏa thuận này đang đặt ra sức ép đối với tất cả các quốc gia ký kết phải tăng cường sử dụng hiệu quả tài nguyên và năng lượng, tăng cường bảo vệ môi trường,giảm phát thải khí nhà kính và tiến tới trung tính về oxit carbon (CO2).
Xu hướng thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh thông qua đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu năng lượng theo hướng xanh, sạch hơn. Đây là một xu hướng mạnh mẽ, trở thành một xu hướng không thể đảo ngược. Một vài con số cho thấy điều đó như: (i) Tỷ trọng năng lượng tái tạo ở Liên minh Châu Âu năm 2019 đã tạo ra 34,6% tổng điện năng của EU; (ii) Ở Nhật, năng lượng tái tạo năm 2020 chiếm 21% tổng năng lượng quốc gia, dự báo đến năm 2030 tăng lên 24%; (iii) Hàn Quốc: năm 2019 năng lượng tái tạo chiếm 11% tổng năng lượng quốc gia, đến năm 2030 tăng lên 30% và 35% vào năm 2040.
Việt Nam đã và đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, bắt đầu thực hiện tăng trưởng xanh.
Về năng lượng Việt Nam đã có Nghị quyết số 55/BCH-TW của Bộ Chính trị ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đã có nhiều đột phá trong phát triển năng lượng quốc gia: Ưu tiên phát triển năng lượng xanh và bền vững; khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng. Nghị quyết đã đưa ra những mục tiêu cụ thể: trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175 – 195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320 – 350 triệu TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125 – 130 GW, sản lượng điện đạt khoảng 550 – 600 tỉ KWh. Đáng chú ý, tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 – 20% vào năm 2030; 25 – 30% vào năm 2045. Đồng thời, giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.
|
|
PGS.TS. Bùi Quang Tuấn khẳng định, cùng với đà tăng trưởng của Việt Nam, nhu cầu năng lượng của Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng nhanh, có thể đến 10-11%/năm. Tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 đạt 2,91%, ở mức thấp nhất trong vòng 35 năm qua kể từ sau Đổi mới (1986 - 2020). Tuy nhiên, Việt Nam đang là nước tăng trưởng vào nhóm khá trên thế giới. Nhất là trong đại dịch Covid-19, tăng trưởng Việt Nam đạt mức 2,91% và là một trong các nền kinh tế có tăng trưởng dương. Đây là một kết quả hết sức tích cực trong bối cảnh gần như mọi hoạt động của thế giới đang bị đứt gãy.
Đánh giá về những kết quả đã đạt được và những khó khăn thách thức trong phát triển năng lượng tái tạo, ông Đỗ Đức Quân - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho biết, Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định, văn bản nhằm phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. Trong đó, Bộ Công Thương đã tham mưu, trình Thủ tướng ban hành các cơ chế khuyến khích phát triển điện gió, điện sinh khối, điện từ chất thải rắn và điện mặt trời.
|
|
Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển vừa qua còn có nhiều bất cập như giá bán điện cố định không kịp thời bám sát giá thiết bị chính trên thị trường dẫn đến việc phát triển lúc nóng lúc lạnh; việc phát triển lưới điện phân phối truyền tải không đồng bộ với sự phát triển của các nguồn điện năng lượng tái tạo dẫn đến quá tải lưới truyền tải và giảm công suất phát của một số nhà máy điện năng lượng tái tạo…“Tính đến hết tháng 10/2020, trên hệ thống điện quốc gia có tổng cộng 106 nhà máy điện mặt trời vận hành với tổng công suất khoảng 6.000MW. Hiện cũng có khoảng 11 nhà máy điện gió đang hoạt động với tổng công suất khoảng 500MW và 325MW điện sinh khối, điện chất thải rắn gần 10MW…”.
Cũng theo Phó cục trưởng Cục điện lực Năng lượng tái tạo, để có thể phát triển mạnh mẽ, trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tập trung vào chính sách, chuyển sang đấu thầu cạnh tranh tạo công bằng minh bạch cho các nhà đầu tư; tăng cường hạ tầng truyền tải, hệ thống lưu trữ, điều độ vận hành hệ thống điện…
Đại diện doanh nghiệp năng lượng, ông Nguyễn Quang Huân - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam cho biết, hiện tại việc tiếp cận nguồn vốn từ các nguồn tài chính để đầu tư các dự án năng lượng tái tạo còn nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó có vấn đề về thủ tục pháp lý. Tại Việt Nam có hơn 30 loại giấy tờ cần phải chuẩn bị, nếu là nhà đầu tư trong nước sẽ mất khoảng một năm, nếu là nhà đầu tư nước ngoài thì phải mất khoảng 2-3 năm do không thông thạo thị trường.
Bên cạnh đó, việc huy động vốn đầu tư từ các ngân hàng tương đối khó khăn trong khi năng lực tài chính của các nhà đầu tư năng lượng tái tạo trong nước còn hạn chế. Từ những khó khăn trên, ông Huân đề nghị Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước, Tập đoàn Điện lực Việt Nam quan tâm, có những hướng dẫn để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn.
Ở góc độ ngân hàng thương mại, cấp vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, đại diện Ngân hàng VietinBank cho biết, mặc dù đứng trước nhiều cơ hội đầu tư tài chính cho sự phát triển bền vững nhưng đây cũng là lĩnh vực đầu tư mới, hành lang pháp lý liên quan cũng được được cơ quan chức năng ban hành và hoàn thiện nên việc cấp tín dụng đối với các dự án năng lượng tái tạo còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Trong đó, vướng mắc về năng lực, kinh nghiệm của chủ đầu tư là yếu tố đầu tiên bởi nhiều chủ đầu tư thiếu năng lực, kinh nghiệm. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư hiện đã giảm so với trước đây nhưng vẫn yêu cầu nguồn vốn tương đối lớn trong khi thời gian xây dựng và lắp đặt ngắn… Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác liên quan đến việc tính toán, dự báo sản lượng điện khi lập dự án, tiến độ hoàn thành dự án, việc vận hành dự án, việc đấu nối, truyền tải điện…
|
|
Nói về những khó khăn trong huy động nguồn vốn cho năng lượng tái tạo, bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: Đầu tư lĩnh vực năng lượng tái tạo có thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro. Việc thẩm định các dự án năng lượng tái tạo do phải tuân thủ quy hoạch ngành có tính chất kỹ thuật, công nghệ cao, năng lực yếu kém của một số chủ đầu tư, nguồn vốn của các ngân hàng thương mại chủ yếu là ngắn hạn, dự án gặp khó khăn về hạ tầng, đấu nối truyền tải điện dẫn đến không đủ khả năng giải phóng công suất phát điện, chính sách phát điện chưa ổn định...
Từ những khó khăn, vướng mắc trên, đại diện VietinBank kiến nghị cần hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với định hướng phát triển ngành điện, ban hành các hướng dẫn cụ thể, thông tin hỗ trợ về thủ tục đầu tư, quy trình thực hiện dự án… Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế đặc thù để khơi thông nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại; nghiên cứu cho phép ngân hàng thương mại được sử dụng trái phiếu/khoản cấp tín dụng cho ngành năng lượng làm tài sản đảm bảo để tái cấp vốn với lãi suất ưu đãi từ ngân hàng nhà nước…
Hội thảo nhận được 07 tham luận và nhiều ý kiến thảo luận của các đại biểu tập trung đề cập những hạn chế và bất cập hiện nay từ cả góc độ các nhà quản lý lẫn các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại, đề xuất những cơ chế chính sách thông thoáng để có thể giải quyết được bài toán chính sách chưa hoàn thiện và bài toán tiếp cận vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, góp phần thiết thực cho việc thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam trong thời gian tới.
PV.