Viện Kinh tế Việt Nam
  • VASS-70 năm (1953-2023)

Viện Kinh tế Việt Nam

12/06/2023

 

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta rất chú ý tới việc nghiên cứu kinh tế. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề nghiên cứu tình hình kinh tế và tìm kiếm những biện pháp xử lý các vấn đề cấp bách của đời sống. Công việc này trước tiên được giao cho Bộ Kinh tế. Sau đó, Chính phủ thành lập Uỷ ban Kiến thiết Quốc gia, với nhiệm vụ nghiên cứu tình hình kinh tế trong nước và giúp Chính phủ hoạch định những biện pháp, giải quyết các vấn đề trước mắt và lâu dài của công cuộc kháng chiến kiến quốc.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong điều kiện thời chiến, khó khăn thiếu thốn, Chính phủ đã thành lập Ban Kinh tế Chính phủ tại căn cứ địa Việt Bắc (năm 1948), nhằm giúp Chính phủ nghiên cứu các vấn đề kinh tế thời chiến và đề xuất các biện pháp kiến quốc. Ban Kinh tế do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng ban, Thứ trưởng Bộ Kinh tế Bùi Công Trừng làm Phó Ban thường trực, ủy viên là bộ trưởng các bộ có liên quan đến các ngành kinh tế. Ban Kinh tế cũng đã ra tờ tạp chí gọi là Tập san Kinh tế.

Sau hòa bình lập lại, Ban Kinh tế Chính phủ trở về Thủ đô tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Khi có chủ trương thành lập Viện Kinh tế học, thì hơn 10 cán bộ của Ban Kinh tế Chính phủ được chuyển về xây dựng Viện Kinh tế học, trong đó nhà kinh tế học lão thành Bùi Công Trừng được cử làm Viện trưởng. Như vậy có thể nói, Ban Kinh tế Chính phủ trước đây là tiền thân của Viện Kinh tế học (Viện Kinh tế Việt Nam ngày nay).

Viện Kinh tế học thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước (tiền thân của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam ngày nay), được thành lập ngày 06/02/1960, theo Quyết định 037-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ngày 15/01/2004, Viện Kinh tế học được đổi tên thành Viện Kinh tế Việt Nam thuộc Viện KHXH Việt Nam theo Nghị định số 26/2004/NĐ - CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ. Sự ra đời của Viện Kinh tế học là một sự kiện quan trọng đối với giới nghiên cứu lý luận Kinh tế Việt Nam. Nó đáp ứng đòi hỏi thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân ta.

Nhiệm vụ chủ yếu của Viện Kinh tế Việt Nam được Đảng và Nhà nước giao khi mới thành lập là "Căn cứ vào đường lối của Đảng và Chính phủ, tiến hành nghiên cứu các mặt công tác kinh tế nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần vào cuộc đấu tranh cho hòa bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới"(1).

Trong hơn 50 năm qua, các thế hệ cán bộ, viên chức Viện Kinh tế Việt Nam đã không ngừng phấn đấu, vượt qua những khó khăn để triển khai nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn phát triển nền kinh tế Việt Nam và thế giới, trên cơ sở đó cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Song song với nhiệm vụ nghiên cứu, Viện đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển bản thân ngành khoa học kinh tế của đất nước qua việc đào tạo và cung cấp cho đất  nước nhiều nhà khoa học có uy tín, cũng như phổ biến những tri thức cơ bản về khoa học kinh tế thông qua việc đăng tải kết quả nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành hay xuất bản các loại ấn phẩm khác.

Có thể chia quá trình xây dựng và phát triển của Viện Kinh tế Việt Nam thành 4 giai đoạn chính:

1. Giai đoạn 1960 - 1975.

2. Giai đoạn 1976 - 1985.

3. Giai đoạn 1986 - 2005.

4. Giai đoạn 2006 - nay.

Sau đây xin được điểm lại một cách tổng quát những thành tựu nổi bật trong mọi mặt hoạt động của Viện Kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.

II. NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

           1. Giai đoạn 1960 - 1975

Đây là giai đoạn có những nét đặc thù quan trọng, quy định nhiệm vụ cũng như cách thức thực hiện nhiệm vụ mà Viện đảm nhiệm, đó là:

- Viện mới thành lập, với các điều kiện hoạt động ban đầu từ nhân lực cho đến cơ sở vật chất - kỹ thuật đều rất thiếu thốn và thấp kém, việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học nói chung còn hạn chế.

- Đất nước bị chia cắt trong tình trạng chiến tranh, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn hạn chế.

Để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong điều kiện cán bộ ít, lực lượng mỏng, tri thức còn yếu và thiếu, Viện Kinh tế Việt Nam đã tổ chức học lý luận gắn với nghiên cứu thực tiễn để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ nhằm từng bước lý giải, làm rõ nội dung khoa học của các phạm trù và quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, của công cuộc cải tạo và xây dựng nền kinh tế XHCN ở miền Bắc.

Cùng với việc thường xuyên tổ chức các lớp học nhằm nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, Viện tổ chức nhiều đợt khảo sát thực tiễn trên khắp các vùng của đất nước, các lĩnh vực của nền kinh tế để tìm hiểu và lý giải những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn trong những năm tháng đầu tiên của sự phát triển là cơ sở quan trọng cho sự ra đời nhiều công trình nghiên cứu, trong đó không ít công trình được công bố trên các tạp chí, chủ yếu là Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, và một số sách khoa học có giá trị tham khảo cao, bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.

Về mặt nội dung khoa học, theo yêu cầu của cuộc sống và để trả lời các vấn đề mà Đảng và Nhà nước đặt ra, các công trình nghiên cứu của Viện Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này tập trung vào làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, giới thiệu lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống và mang tính phổ cập; cung cấp các tri thức kinh tế học chuyên ngành (kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp, v.v...) cho các đối tượng quan tâm.

Thứ hai, làm rõ căn cứ lý luận của các quá trình phát triển kinh tế ở miền Bắc trong giai đoạn này. Hướng nghiên cứu bao trùm là các vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt Nam. Theo hướng này, một số chủ đề nghiên cứu được thực hiện là:

+ Những vấn đề lý luận của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Kinh nghiệm của các nước XHCN anh em và việc vận dụng kinh nghiệm đó vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

+ Quá trình cải tạo XHCN, bao gồm vấn đề cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa, cải tạo công - thương nghiệp đối với tư bản tư nhân.

+ Quá trình hợp tác hóa và phát triển kinh tế nông nghiệp.

+ Quá trình công nghiệp hóa XHCN.

Có thể nói những công trình nghiên cứu mà Viện Kinh tế Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này, tuy là sản phẩm của giai đoạn "vừa học, vừa làm", song đã có những đóng góp đáng kể trong việc cung cấp tri thức kinh tế cho xã hội cũng như các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến là :

+ Về những vấn đề lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ, Viện trưởng Bùi Công Trừng đã biên soạn và cho xuất bản cuốn sách Miền Bắc Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961. Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của Việt Nam bàn một cách toàn diện về con đường quá độ của miền Bắc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.

+ Loạt bài viết về Bước đi của công nghiệp hóa đăng trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế (NCKT) của GS. Trần Phương đã phân tích những điều kiện kinh tế khách quan của công nghiệp hóa, làm rõ những đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và trên cơ sở đó xác định bước đi của quá trình này. Nhiều luận điểm, ý tưởng được nêu trong công trình nghiên cứu này như công nghiệp hóa từ nông nghiệp đã in dấu ấn rõ nét trong đường lối phát triển kinh tế nói chung, chiến lược công nghiệp hóa nói riêng của Đảng ta trong thập niên 1970.

Một số công trình nghiên cứu của giai đoạn này còn vượt qua được thiên kiến nặng nề đối với phát triển kinh tế tư nhân và cơ chế kinh tế thị trường. Những kiến giải mới có tính phát hiện về những bất hợp lý trong cơ chế giá, trong chính sách thu mua lương thực, thực phẩm lúc đó. Điều đó đặt nền móng cho một truyền thống nghiên cứu của Viện còn tiếp tục được duy trì và phát triển cho đến ngày nay: Sáng tạo bắt nguồn từ thực tiễn để trở lại phục vụ thực tiễn.

Có thể nói, những công trình do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản trong giai đoạn 1960 - 1975 đến nay vẫn là những công trình cơ bản hàng đầu ở Việt Nam có chất lượng lý luận khoa học cao và nội dung thực tiễn sâu sắc, góp phần tạo lập nền tảng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ ba, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện Kinh tế Việt Nam là nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, để từ đó rút ra những bài học lý luận và thực tiễn cho hiện tại. Trong thời gian này, Viện Kinh tế Việt Nam đã biên soạn và xuất bản một số cuốn sách như: Kinh tế Việt Nam 1945 - 1960. Nxb Sự thật, 1960; Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954) do Phó Viện trưởng Nguyễn Ngọc Minh làm chủ biên. Nxb Khoa học, 1966; Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam do GS. Viện trưởng Trần Phương biên soạn. Nxb Sự thật, 1968; Kinh tế Việt Nam thời nguyên thủy, do đồng chí Đặng Phong chủ biên. Nxb Khoa học xã hội, 1970.

Thứ tư, để góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Viện đã tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình kinh tế miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngụy, về nội dung và ý nghĩa của viện trợ Mỹ ở miền Nam, nền kinh tế Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam.

Viện Kinh tế Việt Nam đã định kỳ cung cấp tài liệu Tình hình kinh tế miền Nam dưới hình thức tài liệu mật cho các ban, ngành của Đảng, Chính phủ, quân đội. Viện đã góp phần làm rõ những giới hạn về tiền bạc, con người, về sức chịu đựng của ngân sách, của nền kinh tế Mỹ và chế độ nguỵ quyền Sài Gòn lúc đó.

Một loạt bài viết về sự khủng hoảng kinh tế - tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu là bài Sự vùng dậy của vàng của GS. Trần Phương, đã phân tích sự khủng hoảng của đồng bảng Anh, đồng đôla Mỹ và hệ quả của chúng đến nền kinh tế Mỹ, gây nên những tác động bất lợi đối với Mỹ trong việc tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh Việt Nam.

Đặc biệt, cuốn sách Chiến tranh Việt Nam và kinh tế Mỹ của GS. Đào Văn Tập đã phân tích một cách khoa học, đầy sức thuyết phục về khả năng chịu đựng có hạn của nền kinh tế Mỹ khi tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa, lâu dài, tốn kém chống nhân dân Việt Nam. Những luận điểm và kết luận của công trình nghiên cứu này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng chiến lược đối ngoại của Đảng, củng cố lòng tin của quân và dân ta vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Cuốn sách này đã được dịch ra tiếng Anh và  được bạn bè thế giới đánh giá cao.

Có thể khẳng định trong giai đoạn từ năm 1960 đến giữa thập kỷ 70, cán bộ của Viện Kinh tế Việt Nam đã có nhiều đóng góp được thừa nhận trên hai phương diện:

- Góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như thực tiễn nội dung, tính chất, con đường, bước đi, giải pháp tiến hành công cuộc xây dựng CNXH nói chung và nền kinh tế XHCN ở miền Bắc nói riêng.

- Cung cấp cho các cơ quan của Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân những thông tin cập nhật đáng tin cậy về nền kinh tế miền Nam dưới thời Mỹ - Ngụy, về những giới hạn chịu đựng của nền kinh tế Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ tiến hành chống lại nhân dân Việt Nam.

2. Giai đoạn 1976 - 1985

 Đây là giai đoạn nước Việt Nam thống nhất, hòa bình, cả nước cùng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nghiên cứu của Viện Kinh tế Việt Nam cũng có những thay đổi.

Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng mà Viện Kinh tế Việt Nam được Đảng và Nhà nước giao là nghiên cứu những vấn đề thống nhất kinh tế hai miền Nam - Bắc (ví dụ thống nhất hệ thống lưu thông phân phối, thống nhất đồng tiền, v.v...), chống lạm phát, khắc phục những khó khăn to lớn của nền kinh tế vừa thoát ra khỏi chiến tranh, giải quyết các vấn đề giá cả, tiền lương, v.v...

Viện cũng được giao tham gia nghiên cứu các vấn đề cải tạo nông nghiệp, cải tạo công - thương nghiệp tư bản tư nhân ở miền Nam. Một tập thể các cán bộ cốt cán của Viện được huy động trực tiếp tham gia vào các quá trình cải tạo này, từ đó rút kinh nghiệm và đúc kết lý luận. Nhiều ý kiến đóng góp của tập thể cán bộ Viện được thừa nhận là thiết thực, có ý nghĩa to lớn trong công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam.

 Cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta có những biến chuyển mạnh theo xu hướng mở rộng việc áp dụng các quan hệ hàng hóa - tiền tệ và thị trường, thu hẹp phạm vi tác động của các quan hệ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Đây là thời kỳ mà các cuộc hội thảo khoa học ở nước ta về các vấn đề giá - lương - tiền, về lưu thông - phân phối, về tăng quyền tự chủ hơn cho các xí nghiệp quốc doanh thông qua việc thực hiện chế độ "kế hoạch 3 phần", về vấn đề khoán sản phẩm diễn ra hết sức sôi nổi.

Viện Kinh tế Việt Nam đóng vai trò là đầu mối khoa học để tổ chức thảo luận, xây dựng các báo cáo đề xuất và kiến nghị về các vấn đề quan trọng này. Chẳng hạn như đề xuất của Viện về việc nâng giá thu mua nông sản cho nông dân đã từng bước được Đảng và Chính phủ chấp nhận. Điều đó đã góp phần cải thiện đời sống cho nông dân, khuyến khích họ tích cực hơn trong sản xuất nông nghiệp. Viện đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ nghiên cứu mô hình Long An và hiện tượng khoán chui trong nông nghiệp ở Hải Phòng để cùng một số cơ quan khác góp phần làm rõ những luận cứ khoa học của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) và Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, ban hành năm 1981.

Trong những năm 1982 - 1985, Viện Kinh tế Việt Nam được giao chủ trì Chương trình nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với sự tham gia của nhiều cán bộ nghiên cứu và quản lý ở các bộ, ngành, địa phương. Trên cơ sở phân tích những khuyết điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chương trình đã có nhiều kiến nghị làm luận cứ khoa học cho việc đổi mới cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý theo hướng mở rộng việc sử dụng các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, khuyến khích vật chất, kết hợp kế hoạch với thị trường, v.v...

Có thể khẳng định, nhiều kết quả nghiên cứu cơ bản của Viện trong thời gian này đã góp phần từng bước hình thành tư duy kinh tế hàng hóa và thị trường, góp phần làm rõ những tư tưởng đổi mới của Đại hội VI của Đảng.

Trong thời kỳ này, để góp phần tổng kết lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam đã tổ chức biên soạn cuốn sách 35 năm kinh tế Việt Nam 1945 - 1980. Đây là công trình tập thể, góp phần tổng kết một giai đoạn lịch sử kể từ Cách mạng tháng Tám và sau đó là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Công trình này đã đúc kết một số kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cũng như một số vấn đề của kinh tế miền Nam. Đó là những cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để Đảng và Nhà nước đưa ra những quyết sách lớn.

3. Giai đoạn 1986 - 2005

Trước sự thay đổi có tính chất lịch sử của nền kinh tế - chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và khép kín sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường - mở cửa có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, Viện Kinh tế Việt Nam đã chuyển mạnh hướng nghiên cứu để bắt nhịp với tình hình.

Về tổng thể, đó là việc chuyển sang nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của con đường phát triển kinh tế hoàn toàn mới mẻ đối với Việt Nam và rất đặc thù đối với nhân loại.

 Viện đã tập trung vào giải quyết một số nhiệm vụ chính sau đây:

Một là, cung cấp và bổ sung hệ thống tri thức mới về kinh tế thị trường hiện đại cho cán bộ của Viện, trên cơ sở đó giới thiệu phổ cập cho xã hội.

Hai là, nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một trong những nội dung xuyên suốt nhiệm vụ nghiên cứu này là mổ xẻ, làm rõ các vấn đề thuộc về bản chất và cấu trúc của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước; thực chất nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu định hướng XHCN.

Ba là, nghiên cứu các vấn đề của nền kinh tế mở và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phục vụ cho hướng nghiên cứu này, Viện đã mở rộng đối tượng nghiên cứu ra các vấn đề toàn cầu hóa kinh tế và tác động của chúng đến Việt Nam, động thái thay đổi các tương quan sức mạnh kinh tế trên thế giới (tương quan các cường quốc kinh tế; xu hướng phát triển các công ty xuyên quốc gia, v.v...).

Bốn là, nghiên cứu các vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong bối cảnh mới (kinh tế thị trường - mở cửa, trong không gian toàn cầu hóa và bước chuyển sang kinh tế tri thức).

Năm là, nghiên cứu các vấn đề kinh tế học phát triển của Việt Nam (Phát triển con người, tăng trưởng, nghèo đói và công bằng xã hội, v.v...).

Trong giai đoạn 1986 - 2005, Viện được giao chủ trì 2 chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước (đều về chủ đề CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa). Tổng số đề tài cấp Nhà nước mà Viện đảm nhận là 12, với hệ chủ đề xoay quanh 2 trục chính là: 1) Đổi mới thể chế kinh tế; 2) Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam.

Ngoài hệ thống chương trình, đề tài nói trên, các cán bộ của Viện Kinh tế Việt Nam còn chủ trì thực hiện và tham gia nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Viện khác nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn cụ thể cấp bách và các vấn đề lý luận mới đối với Việt Nam.

Giai đoạn từ năm 1986 đến nay cũng là giai đoạn Viện được Đảng, Nhà nước và Chính phủ trực tiếp giao thực hiện nhiều nhiệm vụ đặc biệt, gắn với các vấn đề đường lối và chiến lược phát triển nảy sinh từ những thay đổi tình huống phát triển cơ bản trên thế giới và trong nước. Trong số này phải kể đến nhiệm vụ nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam (1997 - 1998), nghiên cứu về toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, về chủ trương "kích cầu", về hội nhập kinh tế khu vực, v.v...

Có thể khái quát những kết quả nghiên cứu, những đóng góp thực tiễn và lý luận đó của Viện Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1986 đến 2005 thành một số điểm chính sau:

a) Làm rõ các vấn đề thể chế, cơ chế kinh tế; các xu hướng có tính quy luật của quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế. Về thực chất, nội dung nghiên cứu quan trọng bậc nhất này gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế, từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường mở cửa theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Trong loạt vấn đề này, các công trình nghiên cứu sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, của khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, về kinh tế tư bản nhà nước, về vai trò chức năng của Nhà nước trong hệ thống kinh tế thị trường - mở cửa, v.v... mà Viện thực hiện đã góp phần đáng kể vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta, nhất là ở những bước đi đầu tiên, sự đóng góp này thể hiện ở những kết quả cụ thể như sau:

- Làm rõ tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường với các chủ thể tham gia thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau - kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp. Đây là các chủ thể bình đẳng với nhau trong tư cách đóng góp vào phát triển, và chúng chỉ có thể phát triển được trong một môi trường thị trường bình đẳng và mang tính khuyến khích cao.

- Phân định rõ chức năng của Nhà nước và thị trường trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Các công trình của Viện đều khẳng định vai trò, chức năng đặc thù của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thực hiện thông qua các chức năng:

1) Định hướng phát triển.

2) Thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế.

3) Tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển (bao gồm cả hỗ trợ phát triển) như một chủ thể kinh tế thị trường thông qua các đại diện - chủ thể là các doanh nghiệp nhà nước.

Sự phân định rõ chức năng này là điều kiện cơ bản để ngăn chặn sự phục hồi các yếu tố của cơ chế kế hoạch hóa tập trung cùng với các hậu quả của nó.

- Nghiên cứu xu hướng, triển vọng và các điều kiện thực hiện quá trình hình thành hệ thống thể chế kinh tế thị trường, làm rõ quan hệ ràng buộc lẫn nhau của quá trình đổi mới diễn ra ở các khu vực cụ thể cũng như lôgíc hợp lý của tiến trình thể chế này.

- Làm rõ mối quan hệ giữa tiến trình thể chế và cơ cấu trong thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn đổi mới vừa qua; trên cơ sở đó, chỉ ra thực chất và nguyên nhân của sự hình thành một cơ cấu kinh tế kém hiệu quả và thiếu năng lực cạnh tranh.

Rất đáng lưu ý là nhiều trong số những kết quả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu này đã được chuyển tải trực tiếp vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách đổi mới với tư cách là những cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan có căn cứ và nhiều sức thuyết phục. Một số luận điểm khoa học và các đề xuất, kiến nghị chính sách do Viện nêu ra đã góp phần vào việc hình thành các quan điểm phát triển lớn của Đảng và Nhà nước, ví dụ như quan điểm về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, về vai trò của Nhà nước, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

b) Loại kết quả nghiên cứu quan trọng thứ hai mà Viện Kinh tế Việt Nam đạt được trong giai đoạn này gắn với nội dung nghiên cứu quá trình CNH, HĐH đất nước. Các luận điểm khoa học có tính phát hiện và đã được ghi dấu ấn trong nhận thức xã hội cũng như trong các tài liệu văn kiện lớn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ là:

- Góp phần làm sáng tỏ tư duy mới về CNH trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta. Một cách nhất quán và có hệ thống, các công trình nghiên cứu mà Viện đã xuất bản như Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam (Đỗ Hoài Nam chủ biên, 1996); Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Phác thảo lộ trình (Trần Đình Thiên chủ biên, 2002); Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH ở Việt Nam (Bùi Tất Thắng chủ biên, 1997), đã góp phần lý giải và đề xuất quan niệm mới về bước chuyển quan trọng quan niệm về CNH ở Việt Nam. Đó là bước chuyển từ quan niệm CNH của thập niên 1960 - 1980 thành quan niệm CNH, HĐH của thập niên 1990 và hiện nay là quan niệm CNH, HĐH rút ngắn.

- Phân tích, xác định thực chất của mô hình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường mở cửa - hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là mô hình lấy nguyên tắc hướng ngoại - dựa vào xuất khẩu làm trục chủ đạo.

- Xây dựng các luận cứ khoa học về bước đi của quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ý tưởng trung tâm về lộ trình CNH, HĐH mà Viện Kinh tế Việt Nam đề xuất và cụ thể hóa là khả năng hiện thực của sự kết hợp các bước đi tuần tự với các bước nhảy “rút ngắn" của quá trình CNH, HĐH của Việt Nam trên cơ sở tận dụng tối đa các lợi thế phát triển mà thời đại mang lại. Có thể nói mong muốn và mục tiêu thu hẹp khoảng cách tụt hậu phát triển của Việt Nam với thế giới tìm thấy hình dáng thực tế của mình trong ý tưởng khoa học táo bạo nhưng có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc này.

- Nghiên cứu vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn. Thông qua sự nghiên cứu này, Viện đã đưa ra một cách nhìn mới và toàn diện về CNH, HĐH, trong đó nhấn mạnh thực chất kinh tế - xã hội và nội dung thể chế của quá trình cải biến lịch sử này. Quan điểm chính thức của Viện là phải coi cải biến công nghệ - kỹ thuật đối với nền kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường là hai mặt của một quá trình CNH, HĐH duy nhất; rằng nếu tách khỏi quá trình thị trường thì CNH, HĐH sẽ không có bất kỳ triển vọng lịch sử nào. Đây chính là cơ sở lý luận nền tảng để Viện đưa ra các đề xuất hướng tới đường lối và chính sách CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn cho các cơ quan hoạch định đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cũng cần nói thêm rằng, nhiều đề xuất, kiến nghị của Viện Kinh tế Việt Nam về mô hình và chiến lược CNH, HĐH ví dụ như quan điểm về mô hình CNH, HĐH rút ngắn, về CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn, về xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam v.v... đã được ghi nhận trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX.

Song song với việc thực hiện các công trình nghiên cứu lý luận, Viện còn tổ chức các cuộc điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội một số lĩnh vực và một số vùng kinh tế trọng điểm của đất nước như: 1/ Dự án điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc; 2/ Dự án điều tra kinh tế - xã hội nông dân, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng; 3/ Chương trình Phối hợp nghiên cứu và xúc tiến phát triển kinh tế - xã hội vùng hồ sông Đà; 4/ Chương trình Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội (được thực hiện theo yêu cầu của đồng chí Đỗ Mười – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam); 5/ Dự án điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội vùng ven biển Việt Nam; và 6/ Dự án điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

c) Ngoài ra Viện còn triển khai nhiều Chương trình hợp tác nghiên cứu với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Canađa, v.v... Những Chương trình hợp tác này trực tiếp hướng tới các vấn đề chính sách và thể chế phát triển - ví dụ vấn đề nâng cao sức cạnh tranh, tự do hóa thương mại, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, v.v... Có thể đánh giá rằng các chương trình này đều đạt kết quả cao trên cả hai khía cạnh – nâng cao năng lực và tác động chính sách. Đặc biệt, trong giai đoạn 2000 - 2001, Viện Kinh tế Việt Nam đóng vai trò là hạt nhân thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ giao là viết Báo cáo quốc gia về phát triển Con người Việt Nam đầu tiên với sự hỗ trợ của UNDP. Viện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Báo cáo có chất lượng rất cao và đã được Liên hợp quốc trao giải thưởng đặc biệt về tác động chính sách trong hơn 100 báo cáo quốc gia về phát triển con người trên toàn thế giới.

Ngoài những công trình cấp quốc gia nêu trên, Viện còn thực hiện nhiều nhiệm vụ nghiên cứu khác không kém quan trọng và cũng không kém phần đóng góp. Trong số này phải kể đến các tập sách trong bộ sách 55 năm Kinh tế Việt Nam đang lần lượt ra đời (đây là bộ sách có quy mô lớn nhất với sự trình bày chi tiết và sinh động nhất về lịch sử Kinh tế Việt Nam trong 55 năm qua) và các báo cáo Kinh tế Việt Nam hàng năm (cho đến nay đã hoàn thành được 5 báo cáo). Chất lượng của các công trình này nhận được sự đánh giá cao của đông đảo độc giả. Riêng Báo cáo Kinh tế Việt Nam hàng năm của Viện đã được coi là một tài liệu chính thức phục vụ các cấp lãnh đạo cao nhất của Việt Nam.

4. Giai đoạn 2006 - 2013

Trong giai đoạn này Viện đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ trực tiếp giao thực hiện nhiều nhiệm vụ đặc biệt, gắn với các vấn đề đường lối và chiến lược phát triển nảy sinh từ những thay đổi tình huống phát triển cơ bản trên thế giới và trong nước. Trong số này phải kể đến nhiệm vụ nghiên cứu cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến Việt Nam (2007-2008), nghiên cứu về toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, về chủ trương “kích cầu”, về chống lạm phát, về hội nhập kinh tế sâu, rộng song phương, đa phương, khu vực, toàn cầu, về việc sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) v.v... Đồng thời, một số cán bộ của Viện đã được huy động trực tiếp tham gia các tổ nghiên cứu soạn thảo đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Cũng trong thời kỳ này một số chương trình, đề tài khoa học được hoàn thành như:

(1) Các đề tài cấp Nhà nước: Đề tài KX.01.03: Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể - Vị trí vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. (Chủ nhiệm: TS. Chử Văn Lâm); Đề tài KX.02.04: Mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở Việt Nam. (Chủ nhiệm: GS.TS. Đỗ Hoài Nam); Đề tài KX.01.03: Về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. (Chủ nhiệm: PGS.TS. Hà Huy Thành); Đề tài KX.02.01: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn - Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới. (Chủ nhiệm: PGS.TS. Lê Cao Đoàn); Đề tài K.02.09: Các giải pháp đột phá chính sách nhằm thúc đẩy CNH, HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta. (Chủ nhiệm: PGS.TS. Trần Đình Thiên); Tổng kết 20 năm đổi mới kinh tế Việt Nam. (Chủ nhiệm: GS.TS. Đỗ Hoài Nam); Đề tài KX.04.20/06-10: Vấn đề phân phối và thu nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì); Đề tài KX.01.20/06-10: Công nghiệp Việt Nam trong mạng sản xuất khu vực: Vị trí, triển vọng và khuyến nghị chính sách (Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì).

(2) Các đề tài cấp Bộ: Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên 2006 - 2012; Từ đổi mới tư duy đến đổi mới thực tiễn kinh tế (Chủ nhiệm: Đặng Phong); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế cổ phần ở Việt Nam (Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Hữu Đạt); Luận cứ khoa học góp phần điều chỉnh định hướng chiến lược phát triển vùng đồng bằng sông Hồng theo nguyên lý bền vững. (Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Trọng Xuân);  Quan hệ giữa số lượng và chất lượng tăng trưởng. (Chủ nhiệm: TS. Cù Chí Lợi); Tin học hoá hoạt động thông tin - thư viện Viện Kinh tế Việt Nam năm 2006, 2007 (Chủ nhiệm: Th.S. Nguyễn Thị Huệ); Tác động của việc gia nhập WTO đến sản xuất lúa gạo ở Việt Nam (Chủ nhiệm: TS. Phan Sĩ Mẫn); Tổng kết 30 năm kinh tế Việt Nam 1975 - 2005. (Chủ nhiệm: Đặng Phong); Những mũi đột phá trong kinh tế thời kỳ trước đổi mới. (Chủ nhiệm: Đặng Phong); Quan hệ Kinh tế Việt Nam - Viễn đông, CHLB Nga (Chủ nhiệm: Th.S. Nguyễn Chiến Thắng); Luận cứ khoa học cho việc điều chỉnh chính sách cơ cấu ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. (Chủ nhiệm: TSKH. Đặng Thị Hiếu Lá); Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH - Quá trình hình thành và sự vận dụng trong thực tế nước ta. (Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Huy); hệ Chương trình khoa học cấp Bộ 2009-2010 Một số vấn đề cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 gồm 10 đề tài và 1 nhiệm vụ nghiên cứu độc lập; hệ Chương trình khoa học cấp Bộ 2011-2012 Một số vấn đề cơ bản của tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 -2020 gồm 9 đề tài và 3 nhiệm vụ nghiên cứu độc lập.

(3) Các đề tài, dự án nghiên cứu theo các thỏa thuận hợp tác khoa học với các địa phương và các tổ chức quốc tế: Tối đa hóa lợi ích của hội nhập thông qua phân cấp hiệu quả kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO (Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì);  Mối quan hệ giữa yếu tố dân chủ hóa trong quản trị công và chất lượng quản lý đất đai (Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì); Xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh Tiền Giang đến năm 2020 - Tầm nhìn đến năm 2030 (Chủ nhiệm: PGS.TS. Trần Đình Thiên); Nâng cao năng lực cạnh tranh Hải Phòng (Chủ nhiệm: PGS.TS. Bùi Quang Tuấn); và nhiều đề tài, dự án nghiên cứu khác.

Nhờ tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, tất cả các chương trình, đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học nói trên đã đúc kết nhiều vấn đề lý luận về phát triển kinh tế của Việt Nam, đề xuất nhiều kiến nghị có giá trị đã được các cấp lãnh đạo có thẩm quyền tham khảo, sử dụng và được dư luận xã hội đánh giá cao. Nhiều khuyến nghị trong các nghiên cứu của Viện đã được hiện thực hóa trong chủ trương của Đảng và Nhà nước hoặc đã được thể chế hóa thành các chính sách của Nhà nước.

Viện cũng đã xã hội hoá các kết quả nghiên cứu của mình trong hàng trăm công trình công bố trên các tạp chí chuyên ngành và hàng chục cuốn sách. Phần lớn các công trình này đều được xã hội thừa nhận là sản phẩm khoa học nghiêm túc và có chất lượng tốt. Một số công trình tiêu biểu trong hơn 20 đầu sách được xuất bản trong giai đoạn này, như: Mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng XHCN ở Việt Nam (Tác giả: Đỗ Hoài Nam, Trần Đình Thiên); Actors for poverty reduction in Vietnam (Tác giả: Vũ Tuấn Anh, Shozo Sakata); Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN (Tác giả: Hà Huy Thành); Mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng XHCN ở Việt Nam (Tác giả: Đỗ Hoài Nam, Trần Đình Thiên); Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Tác giả: Chử Văn Lâm); Những mũi đột phá về kinh tế trước đổi mới (Tác giả: Đặng Phong, Đỗ Hoài Nam); Đột phá phát triển gợi ý từ kinh nghiệm (Tác giả: Trần Đình Thiên); Những mũi nhọn trong đột phá kinh tế thời trước đổi mới (Tác giả: Đỗ Hoài Nam, Đặng Phong); Cơ sở xã hội và nhân văn trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam (Tác giả: Hà Huy Thành, Lê Cao Đoàn); Tư duy kinh tế Việt Nam - Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975 - 1989 (Tác giả: Đặng Phong); Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Thực trạng và hệ quả (Tác giả: Trần Đình Thiên); Chính sách thương mại quốc tế trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới 2011 - 2020 (Tác giả: Nguyễn Chiến Thắng); Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 (Tác giả: Trần Thị Minh Ngọc),...

Hiện nay, Viện Kinh tế Việt Nam đang triển khai thực hiện 06 đề tài cấp Nhà nước (trong đó có 3 đề tài từ Quỹ Phát triển khoa học công nghệ quốc gia - NAFOSTED, 3 đề tài từ Chương trình Tây Nguyên III), bao gồm:

1) Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 hướng tới phát triển bền vững, PGS.TS. Trần Đình Thiên chủ nhiệm (tiếp tục thực hiện từ năm 2011).

2) Mô hình tăng trưởng xanh khuôn khổ cho tái cấu trúc các ngành sản xuất của Việt Nam, TS. Vũ Tuấn Anh chủ nhiệm (bắt đầu thực hiện từ tháng 4/2012).

3) Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách tiền tệ của Việt Nam, TS. Tô Ánh Dương chủ nhiệm (bắt đầu thực hiện từ tháng 4/2012).

4) Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên, TS. Vũ Tuấn Anh chủ nhiệm (bắt đầu thực hiện từ tháng 11/2012).

5) Tái cơ cấu kinh tế Tây Nguyên theo hướng phát triển bền vững, PGS. TS. Bùi Quang Tuấn chủ nhiệm (bắt đầu thực hiện từ tháng 11-2012).

6) Phát triển doanh nghiệp ở Tây Nguyên, PGS.TS. Nguyễn Trọng Xuân chủ nhiệm (đã có quyết định giao đề tài, sẽ triển khai thực hiện trong năm 2013).

Trong thời gian qua, ngoài việc tổ chức thực hiện các công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước qua các thời kỳ lịch sử khác nhau như đã trình bày ở trên, trong lĩnh vực đào tạo cán bộ khoa học kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam cũng đã đạt được những thành tích rất đáng tự hào.

Nhiều cán bộ đã trưởng thành trong môi trường nghiên cứu tại Viện Kinh tế Việt Nam và đã trở thành những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Có thể kể đến một số đồng chí tiêu biểu:

Đồng chí Bùi Công Trừng, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (1960 -1964), Uỷ viên dự khuyết BCHTƯ Đảng (khóa III).

GS. Trần Phương, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (1964-1976), Uỷ viên BCHTƯ Đảng (khóa IV, V), Bộ trưởng Bộ Nội thương, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhiều năm là trợ lý kinh tế của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng.

GS. Đào Văn Tập, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (1976-1983), nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế kế hoạch và Ngân sách Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban KHXH Việt Nam, nhiều năm là trợ lý của đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.

GS.TS. Đỗ Hoài Nam, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam từ năm 1994- 2008, Uỷ viên BCHTƯ Đảng (khóa VIII, IX, X), Đại biểu Quốc hội (khóa XI), Chủ tịch Viện KHXH Việt Nam.

TS. Lê Đức Thuý, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (1983-1989), Uỷ viên BCHTƯ Đảng (khóa IX), Đại biểu Quốc hội (khóa XI), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Và nhiều đồng chí khác đã được cử làm Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng ở các cơ quan Trung ương khác.

Thành tựu trong hoạt động các mặt trong thời gian qua của Viện Kinh tế Việt Nam là to lớn và rất đáng tự hào, rất đáng được trân trọng. Cội nguồn của những thành tựu ấy là sự lãnh đạo của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Uỷ ban khoa học Nhà nước, Trung tâm KHXH và NV trước đây và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày nay, là sự phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ của Viện, là truyền thống đoàn kết trong nội bộ Chi bộ Đảng và tất cả cán bộ, công nhân viên của Viện trong hơn nửa thế kỷ qua.

Các hình thức khen thưởng đã được ghi nhận:

- Huân chương Lao động hạng Nhất, Quyết định số: 404KT/CT ngày 22/5/ 2001.

- Huân chương Độc lập hạng Ba, Quyết định số: 151QĐ/CTN ngày 22/02/ 2005.

III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VIỆN KINH TẾ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030

Thế giới và Việt Nam đang biến đổi rất nhanh. Thế giới đó và nền kinh tế đó của Việt Nam là không gian tồn tại, cũng chính là đối tượng – mục tiêu tồn tại của Viện Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Chân dung của Viện Kinh tế Việt Nam năm 2020, tầm nhìn 2030 của nó, suy cho đến cùng, sẽ được quyết định bằng chính chân dung của nền kinh tế Việt Nam tại thời điểm đó, bằng những vấn đề mà nền kinh tế đó phải đối mặt và giải quyết để tiếp tục tiến lên trong một thế giới toàn cầu hóa sâu rộng, với những biến đổi căn bản và rất sâu sắc so với hôm nay.

Vì thế, để định hình chân dung Viện Kinh tế Việt Nam năm 2020, tầm nhìn 2030, trước hết, phải định hình rõ những đường nét chủ đạo của nền kinh tế thế giới và Việt Nam tại thời điểm đó.

1. Bối cảnh quốc tế

Thế giới hôm nay đang có những bước tiến nhanh chóng khi chuyển sang thời đại công nghệ cao sự bùng nổ của công nghệ thông tin với những tiện ích nổi trội đang làm thay đổi phương thức con người trong xã hội tương tác với nhau, phương thức con người tương tác với thông tin (cung cấp, tiếp nhận và trao đổi thông tin), đẩy nhanh quá trình chuyển sang xã hội ở cấp độ cao hơn là xã hội thông tin, xã hội học tập. Nó được coi là “hạ tầng của hạ tầng” phát triển trong thời đại ngày nay, là nền tảng của phương thức phát triển mới. Cùng với công nghệ thông tin, những công nghệ mới như công nghệ sinh học (công nghệ gen), công nghệ vật liệu mới (công nghệ nano, công nghệ vật liệu thông minh, vật liệu đa chức năng, vật liệu tương thích với môi trường), công nghệ tự động hóa, v.v… đang làm cho diện mạo của đời sống của xã hội loài người thay đổi nhanh chóng và sâu sắc chưa từng thấy.

Với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế giới đang chuyển nhanh sang thời đại kinh tế tri thức. Trong thời đại này, sự phát triển xã hội nói chung, phát triển kinh tế nói riêng dựa vào động lực chủ yếu là công nghệ cao và trí tuệ con người. Đặc trưng lớn nhất của nền kinh tế này là tốc độ cao và xu hướng không ngừng sáng tạo với vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, quá trình dịch vụ hóa đẳng cấp cao đang diễn ra nhanh chóng. Đây là cơ hội để những nền kinh tế đang phát triển rút ngắn quãng đường phát triển, đồng thời có thể tiến vượt lên để nhanh chóng “tiến kịp” các nước đi trước và nhờ đó, “tiến cùng thời đại”. Nhưng cơ hội lớn luôn đồng nghĩa với thách thức gay gắt, không dễ vượt qua. Đi sau là một lợi thế lớn, thậm chí là lợi thế tuyệt đối. Nhưng phải đương đầu với tình trạng nghèo nàn, hèn yếu và non kém trong bối cảnh cuộc đua tranh - cạnh tranh toàn cầu khốc liệt đang là bài toán phát triển khó bậc nhất đặt ra cho các nước đi sau.

Có thể nói, toàn cầu hóa là đặc trưng cấu trúc trội bật nhất của nền kinh tế hiện đại gắn với xu hướng đẩy mạnh tự do hóa các dòng chảy về hàng hóa, vốn và lao động. Nền kinh tế đó có cấu trúc mạng toàn cầu, liên kết chặt chẽ với nhau theo chuỗi sản xuất, trong đó các TNCS đang là người quyết định các liên kết chuỗi này. Bên cạnh đó các nền kinh tế còn liên kết chặt chẽ với nhau theo khối với xu hướng gia tăng số lượng các hiệp định FTA khu vực và song phương. Bên cạnh khuôn khổ hợp tác đa phương như hợp tác trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có những sáng kiến mới về hợp tác đa phương như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), các hiệp định ASEAN +…

   Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, thế giới đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc lại nền kinh tế nhằm đối phó với những bất ổn kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên nhiều thách thức vẫn đang đợi phía trước với những đợt suy thoái mới như khủng hoảng nợ công châu Âu đòi hỏi các quốc gia có những nỗ lực phối hợp chính sách mạnh mẽ hơn.

Cục diện kinh tế thế giới thay đổi nhanh với sự xuất hiện hệ thống đa cực mang tính toàn cầu. Đã xuất hiện một loạt khái niệm mới về cục diện đa cực như “đa cực hóa cân bằng”, “đa cực hóa phi đối xứng”, “đa cực hóa dựa vào nhau” và “thế giới vô cực”. Sự nổi lên mạnh mẽ của các nhóm BRICS (trong đó dẫn đầu là Trung Quốc, Ấn Độ), CIVETS, VISTA, NEXT-11, MAVINS và CAIRNS cùng với G20 đang thiết lập và định hình lại trật tự kinh tế thế giới(1). Sự trỗi dậy mạnh mẽ này của các quốc gia đang phát triển khổng lồ - Trung Quốc, Ấn Độ, Brasil đang gây nên những mất cân đối toàn cầu nghiêm trọng về tài chính, về thương mại, về phân bố các nguồn lực phát triển hiện đại - công nghệ, nguồn nhân lực kỹ năng cao, nguồn năng lượng, v.v… Thế giới đang phải tìm giải pháp để tạo lập sự cân bằng trên một tương quan chiến lược mới. Chắc chắn, đó sẽ là quá trình diễn ra khó khăn, không thể xong một sớm một chiều mà phải thông qua nhiều tranh chấp và xung đột. Sau cuộc Khủng hoảng tài chính - tiền tệ và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2010, quá trình đó được gọi là công cuộc “Tái cấu trúc nền kinh tế thế giới”.

Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với năng lượng, dân số, môi trường và kỹ thuật đang ngày càng nổi rõ. Tăng trưởng kinh tế có vai trò tích cực nhưng lại gây sức ép đối với các nguồn tài nguyên chiến lược như năng lượng, lương thực và nước.

Biến đổi khí hậu toàn cầu, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên năng lượng hoá thạch và tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Xu hướng khan hiếm năng lượng trong những năm tới, đặc biệt với nhu cầu gia tăng nhanh chóng của những nền kinh tế mới nổi khổng lồ như Trung Quốc và Ấn Độ ngày càng rõ. Tình hình đó đòi hỏi các quốc gia phải tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh với việc sử dụng tiết kiệm năng lượng, ứng dụng công nghệ xanh và sản xuất các sản phẩm thân thiện môi trường.

Xu hướng dịch chuyển trọng tâm phát triển sang khu vực Đông Á ngày càng nổi trội. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tranh chấp ảnh hưởng về nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, lãnh thổ, biển đảo. Bối cảnh này tạo nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam trong quá  trình phát triển.

2. Bối cảnh trong nước

Giống như nhiều nước đi sau khác, thách thức lớn nhất mà cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa giải quyết được là tình trạng tụt hậu phát triển. Thậm chí, ở một sự nhận diện nghiêm khắc và thực chất hơn, tình trạng đó được phản ánh trong khái niệm “xu hướng tụt hậu xa hơn”.

Tình trạng tụt hậu làm cho Việt Nam bị mất nhiều cơ hội phát triển do không tận dụng được những thời cơ và điều kiện phát triển thuận lợi mà quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mang lại.

Nhiệm vụ đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển tới trong môi trường hội nhập quốc tế là cần phải nâng tầm phát triển, tạo dựng các thể chế hiện đại, phát triển nguồn nhân lực nhằm tận dụng tốt nhất những cơ hội do hội nhập đưa lại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tiến kịp các nước đi trước và để tiến cùng thời đại.

25 năm đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm nước đang phát triển thu nhập thấp, gia nhập nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình (tất nhiên, hiện nay mới chỉ là trung bình thấp). Tuy nhiên, kinh nghiệm của một số nước có thu nhập trung bình ở Khu vực Đông Nam Á và Mỹ La tinh cho thấy, để vượt lên không rơi vào bẫy “thu nhập trung bình”, gia nhập nhóm các nước phát triển không phải là điều đơn giản. Quá trình này đòi hỏi nhiều nỗ lực vượt bậc trong việc thay đổi cơ bản cấu trúc nền kinh tế, tăng cường năng lực nội sinh.

Hiện tại, Việt Nam đang thiếu nhiều điều kiện để có thể vượt qua được bẫy thu nhập trung bình như năng lực khoa học, công nghệ nội sinh, nền tảng thể chế, chất lượng nguồn nhân lực. Trong chiến lược phát triển, Việt Nam cần phải giải quyết được những thách thức này để tránh bẫy thu nhập trung bình mà các nước đi trước đã bị mắc phải.

Để giải quyết được nhiệm vụ mang tính trọng đại lịch sử này, chiến lược phát triển trong giai đoạn tới của Việt Nam phải đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, phải thoát khỏi chính cái mô hình đã từng mang lại những thành tựu to lớn cho nền kinh tế của giai đoạn đã qua, chuyển sang mô hình mới – hội nhập toàn cầu, theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng hiệu quả, đảm bảo gắn với công bằng và an sinh xã hội. Như đã được xác định, đổi mới mô hình tăng trưởng là sản phẩm của công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế với ba trọng tâm của giai đoạn trước mắt là: i) Tái cơ cấu đầu tư công; ii) Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; và iii) Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại.

Biến đổi khí hậu đang là vấn đề toàn cầu, tác động đến nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam là một trong năm nước bị ảnh hưởng mạnh nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu long, trung tâm sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của cả nước trong tương lai sẽ phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng. Những tác động dự báo trước do hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu đến kinh tế Việt Nam sẽ đặt ra những bài toán mới cần phải giải quyết về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và các vấn đề xã hội.

Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới và kinh tế khu vực ngày càng sâu sắc với việc thực hiện các cam kết WTO và hàng loạt các FTA khu vực và song phương đã được ký kết như AFTA, AFAS, AFTA+ (với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Niu Di Lân, Hàn Quốc), VJEPA (với Nhật Bản), FTA với Chi lê. Việt Nam cũng đang đàm phán một số FTA với EU, Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazaxtan, và đặc biệt đang xúc tiến đàm phán, hướng tới ký kết Hiệp định TPP trong tương lai gần.

Những cam kết hội nhập trên sẽ đặt ra nhiều cơ hội cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nhưng đồng thời cũng tạo nên nhiều thách thức đối với sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước.

3. Những yêu cầu mới đối với Viện Kinh tế Việt Nam

Bối cảnh phức tạp và thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới và kinh tế trong nước trong giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 đặt ra những yêu cầu mới đối với Viện Kinh tế Việt Nam cần phải giải quyết.

Yêu cầu tổng quát nhất là Viện Kinh tế Việt Nam phải “lớn” nhanh, phải vươn lên mạnh mẽ – theo cách tiến vượt, trong đó, khó nhất là vượt qua chính mình – để đáp ứng các yêu cầu “thoát khỏi tụt hậu” mà nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đặt ra một cách hết sức gay gắt.

Đặt trong tương quan với thực lực và xu thế hiện có của Viện, đây thực sự là một thách thức lớn và mới mẻ - chưa từng thấy trong lịch sử hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển của nó.

Để vượt qua thách thức đó, chỉ có một cách: Viện Kinh tế Việt Nam phải tuân thủ phương châm hành động: “Tận dụng lợi thế đi sau để tiến vượt, tiến kịp và tiến cùng thời đại”. Theo phương châm đó, chắc chắn định hướng hoạt động của Viện phải có những điều chỉnh lớn - tương ứng với chính nhiệm vụ “đổi mới mô hình tăng trưởng” đang đặt ra cho nền kinh tế. Xu hướng chú trọng nghiên cứu các vấn đề lý thuyết căn bản, các vấn đề thuộc về chiến lược phát triển của Việt Nam trong không gian hội nhập quốc tế - toàn cầu hóa và thời đại kinh tế tri thức phải được dành sự ưu tiên.

4. Quan điểm và mục tiêu phát triển

a, Quan điểm phát triển:

Thứ nhất, trong cơ cấu của Viện Hàn lâm KHXH VN với tư cách là một trong những Viện nghiên cứu trọng điểm quốc gia, Viện Kinh tế Việt Nam phải vươn lên mạnh mẽ để có năng lực giải quyết những vấn đề lý luận, học thuật căn bản mà nền kinh tế Việt Nam phát triển trong môi trường toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế tri thức đặt ra. Đó là thách thức và cũng là sứ mệnh: thách thức tự thân do yêu cầu nghiên cứu hàn lâm, cơ bản và thách thức do áp lực từ bên ngoài khi thế giới và nền kinh tế trong nước chuyển thời đại, chuyển nhịp phát triển đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu mới.

Thứ hai, trong khi đặt trọng tâm vào năng lực nội sinh để phát triển lâu dài, đồng thời Viện cũng cần phải tận dụng cơ hội thu hút, kết nối với các nguồn ngoại lực để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu.

Thứ ba, trong bối cảnh nền khoa học của nước ta nói chung và lĩnh vực nghiên cứu kinh tế nói riêng còn khoảng cách đáng kể so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, Viện cần phải tăng cường kết nối và hội nhập khu vực và quốc tế, tận dụng các cơ hội tìm kiếm hợp tác, học hỏi và coi đó như một động lực quan trọng cho sự phát triển của Viện về dài hạn.

Thứ tư, nghiên cứu và đào tạo là hai hoạt động mang tính bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, vì thế trong khi coi hoạt động nghiên cứu là chủ đạo, Viện cũng cần phải kết nối với giảng dạy, đào tạo như là hoạt động để phổ biến kết quả nghiên cứu và nâng cao năng lực.

Thứ năm, trong xu thế tăng cường dân chủ hóa trong nước, cần phải đảm bảo tính công bằng và dân chủ trong các hoạt động của Viện, thực sự tạo lập cơ hội cho tất cả cán bộ của Viện được tham gia vào quá trình xây dựng chính sách phát triển Viện cũng như quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ và hưởng lợi từ các hoạt động đó.

b) Mục tiêu phát triển:

Thứ nhất, với vị trí là Viện nghiên cứu chuyên ngành kinh tế trong cơ cấu của Viện Hàn lâm KHXH VN, Viện Kinh tế Việt Nam cần phải nâng tầm phát triển để thực sự trở thành một viện nghiên cứu mang tính hàn lâm đúng như chức năng Chính phủ đã đặt ra, tập trung vào các vấn đề nghiên cứu cơ bản, mang tính dài hạn đối với sự phát triển của nền kinh tế, thực hiện tốt chức năng tư vấn chính sách cho Đảng, Chính phủ về chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và các vấn đề quan trọng mang tính dài hạn khác.

Thứ hai, bên cạnh mục tiêu chính là phát triển theo hướng hàn lâm, Viện đồng thời cũng cần phải quan tâm mở rộng mảng tư vấn phát triển cho các địa phương và khu vực doanh nghiệp như một mảng nghiên cứu, tư vấn bổ trợ quan trọng cho mảng nghiên cứu cơ bản của Viện. 

Thứ ba, trong bối cảnh gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế các nước ngày càng tùy thuộc lẫn nhau, xuất hiện các vấn đề kinh tế mang tính khu vực và toàn cầu, đòi hỏi những nỗ lực chính sách mang tính phối hợp giữa các nước. Điều đó đặt ra mục tiêu cho Viện Kinh tế Việt Nam cần phải nhanh chóng nâng cao năng lực trở thành một Viện nghiên cứu đạt trình độ khu vực, xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về chuyên môn và ngoại ngữ, đủ khả năng hợp tác nghiên cứu với các Viện hàng đầu trong khu vực giải quyết các vấn đề chung của khu vực, cũng như toàn cầu.

5. Nhiệm vụ

Với định hướng nêu trên, những khối nhiệm vụ lớn mà Viện Kinh tế Việt Nam phải tập trung giải quyết trong giai đoạn tới bao gồm:

Thứ nhất, chú trọng nghiên cứu lý luận cơ bản, tập trung nghiên cứu các lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại; đồng thời quan tâm nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thế giới và triển vọng áp dụng vào Việt Nam.

Thứ hai, phân tích, đánh giá những thay đổi nhanh và mạnh mẽ của bối cảnh quốc tế, chỉ rõ xu hướng phát triển của kinh tế khu vực và thế giới và dự báo kịp thời các tác động của các xu hướng này đến kinh tế trong nước giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.

Thứ ba, tổng kết, đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn thực trạng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, chỉ rõ những hạn chế, điểm nghẽn cũng như triển vọng trung - dài hạn của quá trình tăng trưởng và phát triển.

Thứ tư, phát triển và làm giàu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho việc làm rõ con đường và mô hình phát triển theo hướng hiệu quả và bền vững của Việt Nam giai đoạn 2013 - 2020 và tầm nhìn 2030.

Theo các khối nhiệm vụ nghiên cứu lớn nêu trên, với tầm nhìn 2030, trong giai đoạn tới, Viện Kinh tế Việt Nam sẽ triển khai các hoạt động cụ thể sau:

a) Hoạt động nghiên cứu:

Hoạt động nghiên cứu của Viện sẽ chia thành hai mảng: Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu tư vấn phát triển, trong đó ưu tiên cho nghiên cứu cơ bản với tư cách là một viện nghiên cứu mang tính hàn lâm. Cụ thể định hướng nghiên cứu theo từng mảng như sau:

Nghiên cứu cơ bản:

          - Nghiên cứu cơ bản về mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong bối cảnh gia tăng hội nhập, tái cơ cấu nền kinh tế toàn cầu và thách thức bẫy thu nhập trung bình.

          - Nghiên cứu cơ bản về chính sách vĩ mô và thể chế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

          - Nghiên cứu cơ bản về toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tác động đối với nền kinh tế Việt Nam.

          - Nghiên cứu cơ bản về phát triển vùng, biến đổi khí hậu, kinh tế môi trường và phát triển bền vững.

          - Nghiên cứu cơ bản về phát triển khu vực doanh nghiệp.

          - Nghiên cứu cơ bản về phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Nghiên cứu và tư vấn phát triển:

           - Tư vấn chiến lược phát triển, kế hoạch phát triển cho địa phương và doanh nghiệp.

           - Thiết kế và tổ chức các cuộc điều tra, đánh giá kinh tế - xã hội, doanh nghiệp theo yêu cầu của Chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước.

b) Hoạt động đào tạo:

Do hoạt động đào tạo đã chuyển sang cho Học viện Khoa học xã hội, tuy nhiên bộ khung lãnh đạo và cán bộ giảng dạy của Khoa Kinh tế học vẫn chủ yếu lấy từ nguồn nhân lực của Viện, do vậy, trong giai đoạn tới, Viện sẽ tiếp tục phối hợp với Học viện KHXH tổ chức tốt công tác đào tạo theo các tuyến sau:

          - Đào tạo Tiến sĩ kinh tế theo 4 chuyên ngành: Kinh tế chính trị, kinh tế phát triển, quản lý kinh tế, kinh tế công nghiệp;

          - Đào tạo Thạc sĩ kinh tế theo các chuyên ngành Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.

6. Giải pháp thực hiện

Nhằm thực hiện tốt các định hướng nhiệm vụ nghiên cứu và phối hợp đào tạo trong giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 Viện Kinh tế Việt Nam cần phải triển khai một loạt các giải pháp, đảm bảo cho các định hướng nhiệm vụ được thực thi thành công. Dưới đây là một số giải pháp căn bản:

Kiện toàn bộ máy tổ chức

Xây dựng quy chế hoạt động, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các phòng ban chức năng nhằm quản trị có hiệu quả các hoạt động của Viện.

Quy hoạch đội ngũ lãnh đạo các phòng ban có trình độ chuyên môn cao và có khả năng thiết kế và tổ chức hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học theo các hướng nghiên cứu lớn của Viện. 

Phát triển nguồn nhân lực

Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng một số cán bộ nghiên cứu có triển vọng của Viện trở thành các chuyên gia trong một số lĩnh vực, có khả năng thiết kế và tổ chức các nghiên cứu có quy mô đòi hỏi chuyên môn sâu và sự phối hợp liên ngành.

Hiện nay, năng lực cán bộ nghiên cứu của Viện còn nhiều hạn chế do chủ yếu là cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm, khó đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu do nền kinh tế đặt ra, do vậy việc nâng cao năng lực cán bộ nghiên cứu một cách căn bản cả về chuyên môn và ngoại ngữ là giải pháp then chốt để thực hiện tốt các nhiệm vụ chiến lược đặt ra.

Đẩy mạnh đào tạo cán bộ trẻ theo nhiều hình thức:

- Đào tạo dài hạn trình độ sau đại học, ưu tiên cử đi đào tạo dài hạn tại các nước có nền giáo dục tiên tiến.

- Tổ chức hoặc tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn về phương pháp nghiên cứu, hoặc các vấn đề đang quan tâm .

- Đào tạo thông qua việc tham gia vào các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu do các cán bộ nghiên cứu có kinh nghiệm phụ trách.

Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu với các tổ chức nghiên cứu của nước ngoài, coi đây như một cơ hội tạo nguồn lực cho nghiên cứu trong nước, đồng thời quan trọng hơn là thông qua hợp tác nghiên cứu cán bộ của Viện được cọ xát, làm việc với các nhà khoa học ở các nước có nền khoa học tiên tiến hơn Việt Nam, qua đó học hỏi và hoàn thiện hơn khả năng chuyên môn và ngoại ngữ.

Hoạt động hỗ trợ khoa học

Trong hoạt động hỗ trợ khoa học có ba mảng quan trọng là Quản lý khoa học, Thư viện và Tạp chí.

Đối với hoạt động Quản lý khoa học, Phòng QLKH và HTQT cần phải được tăng cường năng lực để có thể quản lý một cách khoa học danh mục, tiến độ thực hiện và các sản phẩm của các đề tài nghiên cứu được tài trợ từ nguồn kinh phí của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cũng như từ các nguồn tài trợ khác, hỗ trợ hiệu quả công tác viết đề xuất, đấu thầu các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, Viện cần phải có kế hoạch xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cập nhật về nguồn nhân lực, các sản phẩm nghiên cứu của Viện, các nguồn tài trợ trong và ngoài nước.

Đối với hoạt động Thư viện, Viện cần phải tổ chức, quản lý thư viện theo hướng hiện đại, thuận tiện cho người sử dụng thông qua hệ thống tra cứu Internet, cung cấp những ấn phẩm khoa học quan trọng cập nhật nhất trong nước và ngoài nước về phương pháp, những vấn đề kinh tế học nổi bật trên thế giới.

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất các dữ liệu về các lĩnh vực kinh tế quan trọng trên cơ sở thu thập từ các nguồn thống kê chính thống của các bộ ngành, các cuộc điều tra kinh tế - xã hội do Viện tự tiến hành

Đối với hoạt động Tạp chí, đây là một trong những phương tiện quan trọng phổ biến kết quả các hoạt động nghiên cứu của Viện. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Tạp chí “Socio - Economic Development” được coi là diễn đàn chung của giới nghiên cứu kinh tế Việt Nam. Chúng cũng phải là và sẽ là diễn đàn của hoạt động hợp tác và liên kết nghiên cứu quốc tế, là điểm hội tụ trí tuệ và sự sáng tạo của cộng đồng các nhà nghiên cứu kinh tế. Đó sẽ là những Tạp chí Khoa học không còn bị trói buộc trong “tầm cỡ địa phương” mà chúng phải mang tính hội nhập, từng bước - nhưng mạnh mẽ - vươn lên đạt đẳng cấp quốc tế.

Để hai Tạp chí thực hiện được sứ mệnh đó, Viện phải có Chương trình “Tái Cơ cấu” mạnh mẽ đối với chúng. Mục tiêu là nâng cao chất lượng khoa học của Tạp chí, mở rộng phạm vi các nhóm đối tượng tiếp cận đến tạp chí, phát triển đội ngũ cộng tác viên và đẩy nhanh quá trình số hóa toàn bộ các bài viết của tạp chí tiếng Việt và tiếng Anh.

Bên cạnh hai Tạp chí, Viện cần phát triển các hình thức công bố kết quả nghiên cứu khác - Các Working Paper, thông qua trang Web và các loại ấn phẩm khác của Viện. Như vậy, tiêu chí chất lượng của tạp chí vẫn đảm bảo và sân chơi cho việc phổ biến kết quả hoạt động nghiên cứu được mở rộng hơn.

 

***

Đó là những đường nét “sơ thảo” bức chân dung tương lai của Viện Kinh tế Việt Nam. Chưa thật sự chi tiết, nhưng đủ định hình để xây dựng một Chương trình hành động vươn tới đó.

Bức chân dung đó của Viện Kinh tế Việt Nam phải và chắc chắn sẽ góp phần xứng đáng làm sáng rực lên bức tranh chung của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và của nền kinh tế Việt Nam, trong cuộc đua tranh phát triển cùng thời đại của dân tộc Việt Nam.

 

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 


 (1) Trích Quyết định số 037 - TTg ngày 06-02-1960 của Thủ tướng Chính phủ.

(1)  CIVETS gồm: Colombia, Indonesia, Việt Nam, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi; VISTA gồm: Việt Nam, Indonesia, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina; NEXT-11 gồm: Bangladesh, Ai Cập, Indonesia, Iran, Mêhicô, Nigeria, Pakistan, Philíppin, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam; MAVINS gồm: Mêhicô, Australia, Việt Nam, Indonesia, Nigeria và Nam Phi; Cairns gồm: 19 quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hàng đầu là Argentina, Australia, Bolivia, Braxin, Canađa, Chile, Colombia, Costa Rica, Guatemala, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Pakistan, Paraguay, Peru, Philíppin, Nam Phi, Thái LanUruguay; G20 gồm: Argentina, Australia, Braxin, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Italia, Nhật Bản, Mêhicô, Nga, Ả rập Xê út, Nam Phi, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Mỹ và EU

 

Các tin đã đưa ngày: