Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á
  • VASS-70 năm (1953-2023)

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

18/08/2023

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, tiền thân là Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, được thành lập ngày 13 tháng 9 năm 1993 theo Quyết định số 466/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Năm nay, Viện vừa tròn 20 tuổi.

Kể từ ngày đầu mới được thành lập, với số lượng cán bộ hơn 10 người, cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ của cán bộ nghiên cứu cả về chuyên môn và ngoại ngữ còn hạn chế, đối tượng nghiên cứu duy nhất là Nhật Bản, đến nay Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á đã có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Năm 1998, đối tượng nghiên cứu của Viện được mở rộng thêm một bước với việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc với các chức năng tương tự như Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản. Đây có thể coi là một bước quá độ để đi tới việc hình thành Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á vào năm 2004 (theo Nghị định số 26/2006/NĐ-CP, ngày 15 tháng 1 năm 2004 của Chính phủ), với các chức năng và nhiệm vụ đầy đủ như hiện nay.

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á có chức năng nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, Mông Cổ, và Vùng lãnh thổ Đài Loan) và các vấn đề chung của khu vực (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hội nhập quốc tế, môi trường và phát triển bền vững) nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Chính phủ và phổ biến các kiến thức về đất nước học và khu vực học ở khu vực Đông Bắc Á cho nhân dân Việt Nam nhằm tăng cường sự hiểu biết của người Việt Nam về các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á và những vấn đề nổi bật của khu vực này.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á hiện có 47 người, trong đó có 1 PGS, 11 tiến sĩ, 15 thạc sĩ với các chuyên ngành được đào tạo chủ yếu về các lĩnh vực khoa học xã hội cơ bản và đất nước học (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, Nhật Bản học, và Hàn Quốc học). Ngoài tiếng Anh, phần lớn các cán bộ nghiên cứu của Viện đều sử dụng được một trong các thứ tiếng của các quốc gia thuộc lĩnh vực nghiên cứu của mình như tiếng Nhật, tiếng Hàn, và tiếng Trung Quốc.

Từ chỗ chỉ có 1 trung tâm nghiên cứu, đến nay Viện đã có 3 trung tâm nghiên cứu về đất nước học (Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Á), 4 phòng nghiên cứu về khu vực học (Chính trị và An ninh; Kinh tế và Hội nhập khu vực; Văn hóa và Xã hội; Môi trường và Phát triển bền vững), 3 phòng phục vụ nghiên cứu (Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, Tổ chức - Hành chính, Thông tin - Thư viện), Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á với số ra mỗi tháng một kỳ.

II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU

Kể từ ngày thành lập đến nay, bằng những công trình nghiên cứu, những hội nghị, hội thảo, và các ấn phẩm được công bố rộng rãi (sách, tạp chí, website), Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của các ngành đất nước học (Nhật Bản học, Hàn Quốc học, Trung Quốc học) tại Việt Nam, tăng cường sự hiểu biết của các tầng lớp nhân dân Việt Nam về các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á. Những đóng góp của Viện về phương diện nghiên cứu khu vực, đào tạo, và tư vấn chính sách cũng rất đáng kể. Có thể khái quát những đóng góp nổi bật về khoa học của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á trên chặng đường hai thập niên qua như sau:

Thứ nhất, Viện đã chủ trì thực hiện số lượng đáng kể các công trình nghiên cứu. Chỉ riêng số đầu sách chuyên khảo do các cán bộ của Viện công bố đã lên tới 85 quyển. Bên cạnh đó, Viện đã chủ trì thực hiện 6 đề tài cấp Nhà nước, 58 đề tài cấp Bộ và gần 150 đề tài cấp Viện.

Một số chương trình và đề tài nghiên cứu tiêu biểu trong những năm gần đây có thể kể đến như: (1) Chương trình cấp Bộ Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về một số vấn đề nổi bật của khu vực, giai đoạn 2011-2020 được thực hiện trong 2 năm 2011-2012 với 7 đề tài nhánh; (2) Chương trình cấp Bộ Một số vấn đề chính trị, kinh tế nổi bật của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á giai đoạn 2011-2020 được thực hiện trong các năm 2009-2010 với 5 đề tài nhánh; (3) Đề tài Nghị định thư Quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc được thực hiện trong các năm 2007-2008 với 8 đề tài nhánh; (4) Đề tài cấp Nhà nước Quan hệ hợp tác kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản được thực hiện trong 2 năm 2006-2007, với 11 đề tài nhánh; (5) Các đề tài độc lập cấp Bộ: Điều chỉnh chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam với tư cách là đối tác chiến lược; Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; Hệ thống tài chính Nhật Bản: Thực trạng và các giải pháp cải cách hiện nay; Những vấn đề xã hội của Hàn Quốc; Một số vấn đề cơ bản trên con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp Hàn Quốc; Những vấn đề xã hội của Nhật Bản... Các công trình này đã có những đóng góp khoa học chủ yếu sau đây: 

1. Về chính trị, an ninh

- Phân tích, đánh giá cục diện của khu vực Đông Bắc Á

Khẳng định rằng, nếu trên phạm vi toàn cầu trật tự “lưỡng siêu” còn chưa rõ ràng, thì tại Đông Bắc Á thế “lưỡng siêu” đã trở thành một thực tế. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và thứ 1 tại khu vực, thị trường tiêu thụ thứ 2 thế giới, nước tiêu thụ năng lượng thứ 2 thế giới, nước phát thải khí nhà kính số 1 thế giới, chi tiêu quốc phòng đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ. Trung Quốc muốn thấy một thế giới đa cực, nhưng một khu vực Đông Á đơn cực hướng tâm vào Trung Quốc – điều trái ngược với ý đồ của Mỹ muốn thấy một thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo, nhưng một châu Á đa cực. Quan điểm mới của Trung Quốc về “xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới” với Mỹ thực chất là phiên bản mới của quan điểm đối ngoại cũ “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa giảm tốc, khu vực các nước phát triển giảm sút khả năng chi phối trật tự thế giới, cán cân sức mạnh thế giới chuyển dịch nhanh hơn về phía châu Á, cục diện kinh tế, chính trị Đông Bắc Á trong tầm nhìn đến năm 2020 được quyết định bởi 3 nhân tố chính: 1) Sự gia tăng sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực; 2) Mỹ “xoay trục” về châu Á; 3) Khả năng, cách thức, mức độ phản ứng của khu vực trước các tác động từ nhân tố Mỹ và Trung Quốc.

- Đưa ra khái niệm “vùng trũng an ninh”, đi sâu phân tích các điểm nóng tiềm tàng ở khu vực

Đông Bắc Á là khu vực duy nhất trên thế giới lưu giữ hầu như nguyên vẹn các di sản tranh chấp và chia cắt từ thời Chiến tranh lạnh. Đó là tranh chấp Nga - Nhật về nhóm 4 đảo thuộc quần đảo Nam Kuril/Lãnh thổ phía Bắc, sự chia cắt bán đảo Triền Tiên bao gồm cả tranh cãi giữa hai miền về Đường ranh giới Bắc trong biển Hoàng Hải (Northern Limit Line, NLL), sự chia cắt Trung Quốc tại eo biển Đài Loan, tranh chấp Nhật - Trung về nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư và đảo đá san hô Okinotorishima, tranh chấp Nhật - Hàn về đảo đá Takeshima/Dokdo. Đấy là chưa kể đến hàng loạt các tranh chấp dưới dạng tiềm ẩn giữa Nhật - Hàn và Nhật - Trung về các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn, Hàn - Nhật về chủ quyền đối với đảo Tsushima, Hàn - Trung về đảo đá Ieodo/Tô Nham Tiêu/Socotra Rock, Trung - Triều về chủ quyền đối với một số đảo trên sông Tumen, v.v... Những điểm chia cắt và tranh chấp này tạo thành một “vùng trũng an ninh” đóng vai trò là nguồn cung bất ổn chính đối với khu vực Đông Bắc Á. Việc xử lý, quản trị các điểm nóng tiềm tàng nằm dọc theo “vùng trũng an ninh” khu vực, đặc biệt là bán đảo Triều Tiên và eo biển Đài Loan, sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình trạng “hai Trung Quốc, hai Cao Ly” sẽ không có thay đổi cơ bản nào cho đến cuối thập niên này. “Vùng trũng an ninh” Đông Bắc Á có hai đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, đó là tính bền vững do sự bế tắc của “tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh”. Thứ hai, đó là tính bấp bênh, thiếu ổn định do quy luật đặc thù của mọi vùng trũng về an ninh là luôn kích động các bên có hành vi “thăng bằng bên miệng hố chiến tranh” (brinkmanship, on the brink of the war).

- Lần đầu tiên đi sâu phân tích, làm rõ xu hướng dân tộc chủ nghĩa đang trỗi dậy ở Đông Bắc Á

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và Hàn Quốc, tái nổi lên của Nga, quá trình “bình thường hóa” của Nhật Bản, dân chủ hóa ở Mông Cổ, nhận thức tăng lên về “bản sắc Đài Loan”, sự cô lập của Triều Tiên, tình trạng “chủ quyền không trọn vẹn” của Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và vùng lãnh thổ Đài Loan, các tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, những bất đồng về lịch sử,.. đang kích thích chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy trong toàn khu vực Đông Bắc Á. Trong điều kiện kinh tế sau khủng hoảng tăng trưởng trì trệ, xã hội phân hóa mạnh, các chính phủ phải thường xuyên dựa vào chủ nghĩa dân tộc để duy trì sự đồng thuận xã hội. Xu thế dân tộc chủ nghĩa tại khu vực thay đổi phức tạp tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, vùng lãnh thổ, do vậy cần được phân tích và dự báo sâu hơn. Chủ nghĩa dân tộc sẽ tiếp tục là trở lực ngăn cản đáng kể tiến trình hội nhập khu vực, “đổ thêm dầu vào lửa” cho các tranh cãi lịch sử và tranh chấp lãnh thổ, tác động khó lường đến chính trị đối nội và đối ngoại của các quốc gia Đông Bắc Á.

- Dự báo và đánh giá các kịch bản biến chuyển của khu vực Đông Bắc Á

Căn cứ vào tương tác của ba biến số kể trên có thể rút ra 4 kịch bản chính của cục diện Đông Bắc Á: 1) Cạnh tranh Trung - Mỹ gia tăng; 2) Mỹ giảm can dự vào châu Á; 3) Trung - Mỹ hợp tác cùng quản trị châu Á; 4) Trung Quốc rơi vào khủng hoảng. Các phân tích cho phép dự báo, Mỹ sẽ từng bước tăng cường can dự vào châu Á nhằm thiết lập một kết cấu khu vực nhằm hạn chế tự do hành động của Trung Quốc, nhưng nguy cơ đối đầu lưỡng cực Mỹ - Trung theo kịch bản chiến tranh lạnh là tương đối nhỏ. Kết cấu an ninh và nền tảng địa chính trị của khu vực sẽ chịu những áp lực trái chiều ngày càng mạnh. Các tài sản địa chiến lược tại khu vực “lên giá”, kích thích các cường quốc tăng cường hiện diện. Áp lực trái chiều từ Mỹ và Trung Quốc gây tác động “xoay trục thứ cấp” cả về đối nội và đối ngoại đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực; cạnh tranh Mỹ - Trung càng tăng, thì “xoay trục thứ cấp” càng mạnh, phân hóa tư tưởng, thái độ của dân chúng, kích thích các tranh cãi về lịch sử, tranh chấp về lãnh thổ tồn đọng trong khu vực, cản trở tiến trình hòa giải và hội nhập khu vực. Xu hướng tìm kiếm cân bằng và đối trọng giữa các nước trong khu vực sẽ mạnh lên làm trầm trọng thêm “vấn đề về an ninh”, ngăn cản việc xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, thúc đẩy chạy đua vũ trang và nguy cơ xung đột lên những cấp độ mới. Cho đến năm 2020, kết cấu khu vực vẫn đặc trưng bởi sự thiếu hụt căn bản về cân bằng thể chế, thiếu các cơ chế ngăn ngừa xung đột, do đó chưa thể giải quyết được tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh với việc các quốc gia và vùng lãnh thổ chạy đua tăng cường sức mạnh quân sự. Một mặt, Đông Bắc Á vẫn cần đến các nguồn cung an ninh bổ sung từ bên ngoài như các đối trọng để hỗ trợ cân bằng chiến lược cho mình, mặt khác, Đông Bắc Á có nhu cầu ngày càng lớn đối với các cơ chế hợp tác khu vực. Trong tầm nhìn đến năm 2020, nếu tái cân bằng là một trong những xu hướng chủ đạo của cục diện chính trị - an ninh Đông Bắc Á, thì tái cơ cấu là một trong những xu hướng nổi bật của cục diện kinh tế khu vực.

- Phân tích và đánh giá toàn diện thực trạng quan hệ hợp tác Viêt Nam - Nhật Bản trong vòng 40 năm qua và Việt Nam - Hàn Quốc trong 20 năm qua

Đánh giá tiềm năng, cơ hội hợp tác và triển vọng của các mối quan hệ đối tác chiến lược này. Đưa ra các khuyến nghị về chính sách để thúc đẩy và khai thác triệt để những lợi thế từ quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nhật.

2. Về kinh tế và hội nhập khu vực

- Làm rõ xu hướng tái cấu trúc của các nền kinh tế Đông Bắc Á

Từ đầu thập niên 2000, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á đã đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời bắt đầu tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế của mình. Tại Trung Quốc, sự phát triển quá nhanh đã dẫn đến những mất cân đối kinh tế - xã hội nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ bất ổn. Chính vì vậy, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17 vào năm 2007 đã chủ trương “chuyển đổi phương thức phát triển”, nhấn mạnh yêu cầu phát triển khoa học, phát triển hài hòa. Nhật Bản ngay từ nhiệm kỳ của Thủ tướng Koizumi đã bắt đầu một số cải cách quan trọng để thoát khỏi tình trạng trì trệ kinh tế kéo dài và khi ông Hatoyama của Đảng Dân chủ lên cầm quyền cũng đã đề ra chiến lược phát triển mới cho Nhật Bản. Từ năm 2008, Hàn Quốc đã bắt đầu thực hiện mô hình tăng trưởng xanh thay thế cho mô hình tăng trưởng nâu, nhấn mạnh đến nền sản xuất xanh - tiêu dùng xanh - giảm phát thải carbon nhằm đưa nước này vượt lên dẫn đầu một trào lưu phát triển mới của thế giới. Năm 2009 nước Nga khởi động một chương trình hiện đại hóa kinh tế đầy tham vọng nhằm giảm sự phụ thuộc kinh niên vào xuất khẩu dầu khí và tài nguyên, hình thành một cơ cấu kinh tế đa dạng hóa dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới, trong đó bao gồm cả chiến lược phát triển kinh tế vùng Viễn Đông gắn với châu Á - Thái Bình Dương. Từ năm 2006, Mông Cổ bắt đầu thực hiện “Chiến lược phát triển quốc gia giai đoạn 2006-2015” nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang mở cửa hội nhập, thu hút FDI, hướng mạnh vào xuất khẩu khoáng sản và các sản phẩm chăn nuôi. Còn Triều Tiên đang đứng trước cơ hội lịch sử - thực hiện đợt cải cách kinh tế lần thứ hai sau thất bại của lần thử nghiệm đầu tiên vào năm 2002.

Cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu 2008- 2009 đã làm đảo lộn trật tự kinh tế thế giới hiện hành, thay đổi lợi thế so sánh giữa các nền kinh tế quốc dân, buộc tất cả thực hiện phải tái cấu trúc nhằm: i) Khắc phục các bất ổn vĩ mô, lấy lại cân bằng cho các nền kinh tế; ii) Tái  tạo động lực tăng trưởng mới dựa trên các lợi thế so sánh mới, thay thế cho các động lực cũ đã mất tính cạnh tranh; iii) Nắm bắt những ngành nghề, lĩnh vực mới sẽ đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng trong tương lai nhằm chống tụt hậu, nâng cao hơn vị thế của nền kinh tế trong chuỗi giá trị và mạng sản xuất khu vực và toàn cầu. Tái cấu trúc các nền kinh tế Đông Bắc Á không chỉ là việc phân bổ lại các nguồn lực phát triển giữa các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền hay tầng lớp xã hội, mà còn là quá trình cải cách chính trị sâu sắc trong nước và gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tái cấu trúc các nền kinh tế Đông Bắc Á gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau. Việc một nền kinh tế chuyển dịch lên trên theo chuỗi sản xuất giá trị gia tăng luôn gây hiệu ứng lan tỏa, kích thích, lôi kéo lên các nền kinh tế khác cùng tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu nhằm duy trì hoạt động của các chuỗi giá trị và mạng sản xuất khu vực.

- Chỉ ra những điểm mới trong xu thế hội nhập khu vực

 Trong thập niên 2000 các nền kinh tế Đông Bắc Á đã chạy đua trong việc thiết lập các FTA với ASEAN, chấp nhận vai trò cầm lái của tổ chức này thông qua các cơ chế như ASEAN+1, ASEAN+3. Việc “đi nhờ xe” này đã giúp các nền kinh tế Đông Bắc Á xích lại gần nhau hơn: ký kết Hiệp định đầu tư Nhật - Hàn, Sáng kiến Chiang Mai đa phương hóa (CMIM), Hiệp định khung về hợp tác kinh tế Trung - Đài (ECFA), Hiệp định đầu tư Trung - Nhật - Hàn, thỏa thuận Trung - Hàn và Trung - Nhật về hoán đổi ngoại tệ, thành lập Ban thư ký ba bên thúc đẩy FTA Trung - Nhật - Hàn. Tuy nhiên, ba cơ chế hội nhập là ASEAN+, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và TPP do Mỹ thúc đẩy sẽ tiếp tục cạnh tranh ảnh hưởng. Xu hướng tái cấu trúc các nền kinh tế Đông Bắc Á sẽ tạo thêm xung lực cho quá trình hội nhập khu vực. Mô hình liên kết theo chiều dọc kiểu “đàn ngỗng bay” (flying geese) được thay thế bởi mô hình liên kết ngang theo kiểu “sẻ hợp bầy” (swarming sparrows). Tuy nhiên, theo chiều cạnh chính trị và an ninh lại có xu hướng vừa tiếp tục dựa vào kết cấu lấy ASEAN làm trung tâm bao, vừa mở rộng kết cấu “ổ trục và nan hoa” thành mạng lưới các liên kết tay ba Mỹ - Nhật - Hàn thậm chí tay tư Mỹ - Nhật -Hàn - Ôxtralia, tay năm Mỹ - Nhật - Hàn - Úc - Ấn bao quanh Trung Quốc. Việc liên tục phát sinh nhiều cơ chế hội nhập khu vực chồng chéo, đan xen phản ánh quá trình tái phân bổ quyền lực khu vực vẫn chưa đạt tới sự cân bằng.

- Chủ động ứng phó với các tác động từ quá trình tái cơ cấu kinh tế và chiến lược phát triển của các nền kinh tế Đông Bắc Á

Cần tranh thủ thời cơ tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, đặc biệt ở khía cạnh dịch vụ hậu cần, vận tải,.. Tránh bị lôi cuốn vào vòng phân công thứ cấp (hạng 2) trong hình thành cấu trúc kết cấu kinh tế mới của Trung Quốc, đặc biệt là ở khía cạnh công nghệ, năng lượng, môi trường, lao động và tài nguyên.

3. Về lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững

- Việt Nam cần tham gia một cách chủ động và tích cực hơn nữa vào các chương trình do LHQ chủ trì về biến đổi khí hậu

Việt Nam cần sớm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và quy hoạch, chiến lược phát triển cần được tổ chức và huy động tham gia và Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho chương trình này. Chương trình cũng cần được kết nối với các chương trình quốc tế và khu vực để có thể tiếp nhận thành quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu có uy tín trên thế giới, tiếp nhận sự viện trợ, giúp đỡ quốc tế. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn, Việt Nam có thể đóng góp vào vấn đề đang được các tổ chức quốc tế thảo luận. Việc tham gia của Việt Nam trong các diễn đàn quốc tế về biến đổi khí hậu thời gian qua còn thụ động, do đó trong thời gian tới cần chủ động tham gia các hội nghị quốc tế do LHQ chủ trì về vấn đề này. Các nhà khoa học Việt Nam có thể và cần được tổ chức tham gia nghiên cứu vấn đề hệ trọng này.

- Cần có một chiến lược đáp ứng tốt nhu cầu gia tăng rất nhanh chóng về năng lượng, nhất là điện năng, phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Nêu cao yêu cầu tiết kiệm năng lượng, hạn chế đến mức cần thiết việc sử dụng nguyên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ, khí đốt), và sớm có kế hoạch phát triển các nguồn năng lượng sạch.

- Thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện chương trình quốc gia đã được triển khai về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, hạn chế tối đa tệ nạn đốt rừng, chặt phá rừng, phục hồi nhanh chóng hệ sinh thái rừng ngập mặn đã bị tàn phá nặng nề nhằm hồi sinh “lá phổi xanh” cho việc hấp thụ tốt hơn khí CO2 phát thải từ các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đời sống hàng ngày. Để ứng phó với ngập lụt về mùa mưa, hạn hán về mùa khô, nước biển dâng... cần tiếp tục xây dựng và nâng cấp các mạng lưới kênh mương rộng lớn phục vụ việc tưới và tiêu nước cho đồng bằng; gia cố hệ thống đê điều; xây dựng các công trình hồ thủy điện - thủy lợi điều tiết ở thượng nguồn; từng bước xây dựng tuyến đê biển từ Bắc vào Nam kết hợp xây dựng các cống điều tiết thoát lũ và ngăn mặn ở các cửa sông; xây dựng các công trình kè bờ chống sạt lở sông và biển; nạo vét dòng chảy cửa sông, luồng vào cảng; bơm thoát nước cưỡng bức đối với nạn úng, ngập sâu và ô nhiễm nặng tại các vùng đất thấp ở đồng bằng và ven biển. Đặc biệt, những hệ thống công trình có quy mô lớn, xây dựng bền vững lâu dài, như hệ thống công trình “chung sống với lũ” ở đồng bằng Cửu Long, tuyến đê biển Bắc - Nam, cần được hoạch định có căn cứ khoa học về tuyến, về nền móng, để những công việc được thực hiện ngày nay còn được tiếp nối thuận lợi cho nhiều thế hệ mai sau.

4. Về các vấn đề xã hội

- Vấn đề dân số

Cần chuẩn bị để ứng phó với vấn đề lão hóa dân số. Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tuy nhiên lão hóa dân số cũng đang trở thành một nguy cơ hiện hữu. Theo tính toán của Tổng cục thống kê năm 2010, đến năm 2017, số người già của Việt Nam lên tới 10 triệu người, chiếm 10% dân số. Cơ cấu dân số vàng của Việt Nam sẽ tồn tại trong thời gian ngắn và quá trình lão hóa dân số sẽ diễn ra nhanh chóng. Thông thường chính sách dân số được thực hiện với tầm nhìn xa khoảng 20 năm nên việc xây dựng chính sách đối phó với biến đổi dân số từ bây giờ không còn là sớm nữa.

Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam cần sớm bắt tay vào nghiên cứu chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu dài để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người già, giảm gánh nặng chăm sóc cho gia đình và gánh nặng tài chính cho xã hội. Để từng bước xã hội hóa vấn đề chăm sóc người già, Nhà nước nên chú ý tới việc tổ chức đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn làm các dịch vụ chăm sóc, chỉ cho phép họ hành nghề khi đã được cấp chứng chỉ để đảm bảo chất lượng dịch vụ. Đồng thời khuyến khích các hoạt động tình nguyện giúp đỡ người già để gắn kết các quan hệ xã hội, nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Đồng thời khuyến khích tư nhân xây dựng các cơ sở dưỡng lão tại địa phương dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền về chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội trong việc chăm sóc người già.

Để giảm thiểu tác động tiêu cực của vấn đề già hóa dân số đến sự phát triển kinh tế, duy trì quỹ an sinh xã hội, cần khuyến khích người già, phụ nữ tham gia vào thị trường lao động, nâng dần tuổi về hưu với chế độ lương bổng thích hợp. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp khá cao nhưng không vì thế giữ nguyên tuổi về hưu đối với nữ giới kém 5 tuổi so với nam giới. Điều đó gây lãng phí nguồn nhân lực và đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giới. Thực tế chúng ta thất nghiệp nhiều nhưng trong nhiều ngành vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn phù hợp nên điều quan trọng là phải có chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của xã hội trong xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu.

- Tích cực khắc phục tình trạng mất cân bằng giới tính

Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) ở Việt Nam diễn ra khá muộn so với nhiều nước khác trên thế giới nhưng lại xảy ra với tốc độ nhanh, diễn biến phức tạp và ngày càng lan rộng. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất thế giới (120 bé trai/100 bé gái). Việt Nam có 6 vùng kinh tế - xã hội thì năm 2009 chỉ còn duy nhất vùng các tỉnh Tây Nguyên có tỉ số giới tính khi sinh (TSGTKS) ở mức bình thường (105), còn 5/6 vùng còn lại đều đã có tình trạng mất cân bằng.

Sự gia tăng TSGTKS sẽ làm thay đổi hệ thống hôn nhân và gia đình, tạo luồng di cư quốc tế, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái dưới hình thức hôn nhân, "xuất - nhập khẩu cô dâu", làm trầm trọng thêm vấn nạn bất bình đẳng giới. Nhiều phụ nữ có thể phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn sẽ tăng cao. Bên cạnh đó, sự bạo hành giới, tình trạng buôn bán phụ nữ và các cơ sở mại dâm có thể sẽ gia tăng. Và nếu không được giải quyết kịp thời sẽ để lại tai họa cho xã hội.

Tại một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra trước Việt Nam hàng thập kỷ và kết quả là đa số các quốc gia này đang đối mặt với hậu quả nặng nề. Nước duy nhất trên thế giới đã thành công trong việc đưa chỉ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên là Hàn Quốc. Hàn Quốc từ một nước mất cân bằng giới tính khá cao, nay đã trở lại bình thường, bằng những thay đổi trong Luật Gia đình và việc làm theo hướng nâng cao bình đẳng giới hay chiến dịch vận động nâng cao giá trị bé gái. Cụ thể, Hàn Quốc đã đưa ra các chế tài nghiêm khắc trong luật y tế, đẩy mạnh tuyên truyền hướng tới sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội, chuyển từ "trọng nam" sang "trọng nữ", ban hành luật bình đẳng giới, thành lập Bộ Bình đẳng giới. Hàn Quốc cũng thúc đẩy các dịch vụ xã hội như chăm sóc người cao tuổi, đồng thời nghiêm cấm việc chọn giới tính thai nhi để nạo phá thai cũng như tặng thưởng cho các gia đình nông thôn chỉ sinh một con gái, tuyên truyền, giáo dục thay đổi những hành vi phân biệt đối xử về giới thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng... Đây cũng là bài học đáng để chúng ta học hỏi, áp dụng vào Việt Nam.

- Kinh nghiệm đảm bảo an sinh xã hội

Các nước Đông Bắc Á, đặc biệt là Nhật Bản luôn luôn coi trọng việc thực hiện tích cực chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng yếu thế như người già, người tàn tật, bà mẹ, trẻ em… Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến cư dân các khu vực nông thôn, miền núi và cư dân thành phố thu nhập thấp. Cũng cần tính đến chính sách trợ cấp thất nghiệp cho những người thực sự không kiếm được việc làm, trong đó có các thương bệnh binh hoặc bộ đội xuất ngũ không nghề nghiệp. Đây là những người thuộc diện nghèo khó, thậm chí có mức sống dưới nghèo khổ, dễ bị tổn thương và chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng cải thiện hệ thống y tế, cơ sở hạ tầng các vùng nông thôn, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh toàn dân. Tăng cường xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như công viên cây xanh, khu vui chơi giải trí, luyện tập thể thao, trong đó có trang bị dụng cụ đơn giản phục vụ đông đảo người dân rèn luyện sức khoẻ hàng ngày. Bên cạnh các công trình phúc lợi do nhà nước đầu tư, cũng cần huy động sự đóng góp của các doanh nghiệp, nhân dân trên từng địa bàn để xây dựng các công trình phục vụ đời sống văn hoá, thể thao tại từng khu dân cư.

Đáng chú ý là kinh nghiệm của một số nước Đông Bắc Á trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, với tiêu chí phủ rộng mạng lưới an sinh đến từng người dân; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo; tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động; giải quyết thoả đáng các vấn đề bất cập tồn đọng trong xã hội, chú trọng nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu dài.

- Kinh nghiệm tăng cường sức mạnh mềm văn hóa

Phát triển đồng bộ cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm của quốc gia. Trong đó chú trọng phát huy, tôn tạo, nâng cấp các giá trị văn hóa truyền thống, từng bước đưa công nghiệp văn hóa trở thành ngành mũi nhọn. Thúc đẩy ngoại giao văn hóa trên nền tảng công nghiệp văn hóa. Vận dụng hiệu quả sức mạnh mềm quốc gia trong việc đấu tranh đẩy lùi sự xâm nhập và tác động của các sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài.  

Bên cạnh các chương trình, đề tài do ngân sách Nhà nước cấp, Viện còn triển khai và hoàn thành hàng chục dự án nghiên cứu do nước ngoài tài trợ với tổng kinh phí lên đến hàng trăm ngàn USD. Các cán bộ của Viện đã công bố hơn 500 bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á trở thành địa chỉ hàng đầu công bố các nghiên cứu đất nước học và khu vực học liên quan đến khu vực Đông Bắc Á đăng tải trên 1.000 bài báo khoa học trong 20 năm qua. Trên thực tế, các sản phẩm nghiên cứu do Viện thực hiện đã tạo thành cơ sở dữ liệu quý ở Việt Nam về đất nước và con người các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á, phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu, đào tạo và phổ biến kiến thức khoa học ở nước ta. Những con số trên, một mặt, chứng tỏ nỗ lực nghiên cứu của đội ngũ cán bộ khoa học của Viện, mặt khác, phản ánh sự trưởng thành về năng lực tổ chức hoạt động nghiên cứu của Viện.      

   Các sản phẩm của Viện không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà còn đa dạng hóa về hình thức. Các cán bộ của Viện đã tham gia nhiều hội thảo khoa học trong nước và quốc tế với hàng trăm bài tham luận, trả lời phỏng vấn báo chí, thực hiện các khóa phổ biến kiến thức chuyên sâu về Nhật Bản và Hàn Quốc, tham gia nhiều chương trình phỏng vấn trên truyền hình quốc gia về các vấn đề của khu vực Đông Bắc Á, v.v... Trang mạng điện tử của Viện không chỉ thường xuyên cập nhật các thông tin bổ ích về các nước trong khu vực, mà còn đăng tải các bài nghiên cứu chuyên sâu của các cán bộ trong Viện. Chính việc xã hội hóa ngày càng rộng rãi các tri thức tích lũy được như vậy đã góp phần nâng cao uy tín và danh tiếng của Viện.  

Thứ hai, các công trình của Viện không chỉ góp phần xây dựng một cách cơ bản và toàn diện ngành Nhật Bản học và Hàn Quốc học ở Việt Nam, mà còn mở rộng đối tượng nghiên cứu ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á. Nền tảng tri thức sâu rộng về Nhật Bản và Hàn Quốc trên hầu hết các lĩnh vực quan trọng từ văn hóa, lịch sử, tôn giáo, ngôn ngữ, đến kinh tế, chính trị, xã hội, … đã và đang được tiếp tục từng bước bồi đắp qua các công trình nghiên cứu công phu của nhiều thế hệ cán bộ Viện. Nền tảng hiểu biết này cũng góp phần to lớn vào công tác giảng dạy và đào tạo chuyên ngành Nhật Bản học và Hàn Quốc học ở các trường đại học hàng đầu ở nước ta.

Không chỉ tập trung vào Nhật Bản và Hàn Quốc, đến nay hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ tại khu vực Đông Bắc Á như Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Triều Tiên đều được quan tâm nghiên cứu. Điều này không chỉ cho phép Viện đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn được giao, mà còn tạo điều kiện cho các cán bộ khoa học của Viện tiếp cận đầy đủ và toàn diện hơn đối với từng đối tượng nghiên cứu của mình. Mặt khác, các nghiên cứu của Viện không chỉ đi sâu vào các vấn đề đất nước học như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo, môi trường,… đối với từng quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực, mà còn đề cập đến các vấn đề khu vực học như hội nhập kinh tế, cục diện chính trị, kiến trúc an ninh chung của toàn khu vực. Sự kết hợp giữa hai cách tiếp cận đất nước học và khu vực học cho phép làm sáng tỏ những điểm chung và riêng, tính chất đặc thù hay phổ biến của mô hình phát triển, xu hướng tiến triển của các quá trình tại Đông Bắc Á, từ đó đúc rút thành các nhận định khái quát có giá trị. Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu chuyên ngày và liên ngành khoa học xã hội được áp dụng ngày càng nhuần nhuyễn trong các công trình khoa học, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đối với một cơ quan nghiên cứu quốc tế mang tính đa ngành. Điều này đòi hỏi các cán bộ khoa học của Viện không chỉ nắm vững chuyên môn hẹp của mình, mà còn phải không ngừng mở rộng tầm hiểu biết ra các ngành khoa học xã hội có liên quan.

Thứ ba, các kết quả nghiên cứu, phân tích và dự báo toàn diện và chuyên sâu cho phép Viện thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng tham mưu, tư vấn chính sách cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, cũng như các bộ, ngành và địa phương trong nước. Một số học giả hàng đầu của Viện đã trực tiếp tham gia vào việc hoạch định đường lối, chính sách cho Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng như chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Viện cũng thực hiện một số nghiên cứu do các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt hàng về chính sách đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế, cũng như tư vấn về chính sách phát triển từ kinh nghiệm thành công và thất bại phong phú của quốc gia và vùng lãnh thổ tại Đông Bắc Á. Nhiều chuyên gia của Viện đã tích cực tham gia vào các nhóm nghiên cứu đặc biệt phục vụ những nhiệm vụ đột xuất của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, cũng như của một số các bộ, ngành và địa phương. Hoạt động tư vấn chính sách đã góp phần thúc đẩy các cán bộ của Viện thường xuyên cập nhật thông tin trong nước, khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực phân tích và dự báo, định hướng đúng hoạt động khoa học của Viện bám sát chức năng và nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.

Bên cạnh đó, việc trao đổi ý kiến song phương giữa lãnh đạo và chuyên gia của Viện với đại diện của các Đại Sứ quán Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam được cơ chế hóa và tổ chức định kỳ. Các trao đổi ý kiến này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu của Viện, mà còn mở ra giao lưu “kênh 1.5” giữa các nhà ngoại giao nước ngoài với các học giả Việt Nam giúp các bên tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đồng thời cải thiện chất lượng công việc của mình.

Thứ tư, bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu, các cán bộ của Viện còn tham gia giảng dạy đại học, sau đại học, hướng dẫn làm luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ tại một số trường đại học và Học viện Khoa học xã hội. Nhiều cán bộ trẻ của Viện vừa nghiên cứu vừa theo học cao học, nghiên cứu sinh tại Học viện Khoa học xã hội và một số trường đại học. Nhiều người đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ về các chuyên ngành Nhật Bản học và Hàn Quốc học. Hiện tại số cán bộ của Viện đang theo học NCS là 7 người và thạc sĩ là 5 người.

Việc phổ biến kiến thức về Nhật Bản và Hàn Quốc cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam cũng đã được Viện rất chú trọng. Bên cạnh việc xuất bản sách, tạp chí, Viện còn có các website về nghiên cứu Nhật Bản và nghiên cứu Hàn Quốc nhằm cung cấp kịp thời những thông tin cơ bản và cập nhật về tình hình của các quốc gia này phục vụ đông đảo bạn đọc qua mạng. Các thông tin này đặc biệt hữu ích đối với các nhà nghiên cứu và sinh viên chuyên ngành Châu Á học tại Việt Nam. Việc phổ biến kiến thức về Nhật Bản và Hàn Quốc còn được thực hiện một cách hiệu quả qua các chương trình tìm hiểu Nhật Bản và Hàn Quốc dành cho giáo viên THPT và THCS tại Việt Nam. Mục đích của chương trình là cung cấp các kiến thức cơ bản về đất nước và con người Nhật Bản và Hàn Quốc cho các nhà giáo để đến lượt họ sẽ truyền thụ lại cho các lớp học sinh của mình. Việc làm này đã và đang góp phần làm tăng một cách nhanh chóng (theo cấp số nhân) sự hiểu biết của người Việt Nam về các quốc gia này, đặc biệt là lớp trẻ. Tính đến nay Viện đã 3 lần tổ chức Chương trình tìm hiểu Nhật Bản và 10 lần tổ chức Chương trình tìm hiểu Hàn Quốc tại các tỉnh thành trên khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam với sự tham gia của hơn 600 lượt các nhà giáo của gần 600 trường THPT, THCS và hàng chục cán bộ lãnh đạo, chuyên viên các sở và phòng giáo dục và đào tạo ở các địa phương.

Thứ năm, về công tác đối ngoại, kể từ ngày thành lập đến nay, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á luôn nhận được sự giúp đỡ quý báu của các cơ quan tài trợ (Quỹ giao lưu văn hóa Nhật Bản – Japan Foundation, Quỹ giao lưu văn hóa Hàn Quốc – Korea Foundation, JICA, KOIKA...), các cơ quan ngoại giao của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á tại Việt Nam (Đại sứ quán Nhật Bản, Đại sứ quán Hàn Quốc, Đại sứ quán CHDCND Triều Tiên, Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc), và nhiều trường đại học cũng như viện nghiên cứu tại các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc khu vực Đông Bắc Á (Nhật Bản: Đại học tổng hợp Tokyo, Đại học tổng hợp Kyoto, Đại học Waseda, Đại học Senshu, Đại học Kinh tế và Luật Osaka, Trung tâm nghiên cứu quốc tế về Nhật Bản tại Kyoto; Hàn Quốc: Đại học tổng hợp quốc gia Seoul, Đại học Sogang, Viện nghiên cứu chính sách kinh tế - KIEP; Đài Loan: Viện nghiên cứu kinh tế Chung-hua, Đại học Chính trị, Đại học sư phạm, Đại học Thành công...).

Quán triệt phương châm “lấy ngoài phục vụ trong”, Viện đã thành công trong nỗ lực kết hợp nguồn kinh phí từ ngân sách với khai thác các nguồn vốn tài trợ nghiên cứu - triển khai trong và ngoài nước; đồng thời gắn nghiên cứu lý thuyết với khảo sát thực tế trong và ngoài nước. Điều này có được là nhờ các quan hệ hợp tác nghiên cứu trong nước và quốc tế của Viện không ngừng được mở rộng. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á có quan hệ với khoảng 20 cơ quan khoa học và tổ chức tài trợ khoa học quốc tế, trong đó đã ký thỏa thuận ghi nhớ hợp tác với gần 10 tổ chức khoa học nước ngoài như Đại học Waseda (Nhật Bản), Đại học Sensu (Nhật Bản), Đại học Kyoto (Nhật Bản), Viện Nghiên cứu kinh tế Chunghoa (Đài Loan), Viện Hàn lâm Sinica (Đài Loan), Viện Nghiên cứu quốc tế (Mông Cổ), Đại học Sogang (Hàn Quốc),… Số lượng các đoàn ra và đoàn vào của Viện tăng nhanh – hiện nay hàng năm trung bình có khoảng 10 lượt cán bộ của Viện đi nghiên cứu, khảo sát, học tập ở nước ngoài, trong khi Viện tiếp đón và làm việc với hàng trăm lượt học giả, nhà ngoại giao nước ngoài đến làm việc.

Có thể nói, bên cạnh nguồn ngân sách do Chính phủ Việt Nam cấp hàng năm, các khoản tài trợ từ các cơ quan hữu quan của các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á là rất đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển của Viện.

Hai mươi năm, một khoảng thời gian không dài đối với một cơ quan nghiên cứu, song có thể nói rằng, kể từ khi Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (tiền thân là Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản) ra đời cho đến nay thì việc nghiên cứu về đất nước học và khu vực học ở khu vực Đông Bắc Á mới thực sự được chú trọng một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong hai mươi năm qua, những thành tựu mà Viện đã đạt được, mặc dù còn rất khiêm tốn, đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của các ngành Nhật Bản học, Hàn Quốc học, và khu vực học ở khu vực Đông Bắc Á cả trên phương diện nghiên cứu lẫn đào tạo; đã có những đóng góp có ý nghĩa vào việc hoạch định đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là với quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á; và góp phần tích cực vào việc tăng cường sự hiểu biết của các tầng lớp nhân dân Việt Nam về các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực. 

III. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU ĐẾN NĂM 2020

1. Các hướng nghiên cứu chung

1) Nghiên cứu những vấn đề cơ bản và nổi bật của một số quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, Đài Loan; và quan hệ của Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ này. Các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Mông Cổ, Hồng Kông, Ma Cao, vùng Viễn Đông Nga chỉ được nghiên cứu ở khía cạnh đáp ứng yêu cầu nghiên cứu những vấn đề chung của khu vực do chưa đủ lực lượng nghiên cứu.

2) Nghiên cứu các vấn đề chính trị và an ninh nổi bật ở khu vực Đông Bắc Á; một số quan hệ chính trị song phương và đa phương chủ yếu trong khu vực; dự báo xu hướng thay đổi và tác động của các vấn đề và các quan hệ này đối với Việt Nam.

3) Nghiên cứu thực trạng kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực Đông Bắc Á; một số quan hệ kinh tế song phương và đa phương chủ yếu; dự báo triển vọng và tác động của các diễn biến kinh tế trong khu vực đối với Việt Nam.

4) Nghiên cứu các đặc điểm chung về văn hóa và xã hội ở Đông Bắc Á; một số vấn đề văn hóa và xã hội nổi bật của khu vực; dự báo xu hướng thay đổi và tác động của các vấn đề văn hóa và xã hội chủ yếu của khu vực đối với Việt Nam.

5) Nghiên cứu thực trạng môi trường ở Đông Bắc Á; các vấn đề về môi trường và phát triển bền vững của khu vực; sự phối hợp của các quốc gia trong khu vực về quản lý môi trường và xử lý các vấn đề nảy sinh; dự báo xu hướng biến đổi và tác động của các vấn đề môi trường trong khu vực đối với Việt Nam.

2. Các hướng nghiên cứu cụ thể giai đoạn 2011 - 2015

1) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật của Nhật Bản và quan hệ Việt Nam - Nhật Bản

- Sự điều chỉnh chiến lược phát triển của Nhật Bản sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu 2008 - 2009 trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ với các nước lớn và các nước ASEAN.

- Xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản: những nội dung chủ yếu, vấn đề đặt ra cần được giải quyết, triển vọng và những tác động đến khu vực và Việt Nam.

- Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhật Bản.

2) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật của Hàn Quốc và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc

- Chiến lược phát triển “Xanh” và sự điều chỉnh chiến lược phát triển của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ với các nước lớn và các nước ASEAN.

- Xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc: những nội dung chủ yếu, vấn đề đặt ra cần được giải quyết, triển vọng và những tác động đến khu vực và Việt Nam.

- Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Hàn Quốc.

3) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật của CHDCND Triều Tiên và quan hệ của CHDCND Triều Tiên với một số nước trong khu vực

- Chính sách hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và những tác động tới khu vực.

- Quan hệ của CHDCND Triều Tiên với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, và Hàn Quốc.

- Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về chính trị, kinh tế, xã hội của CHDCND Triều Tiên.

4) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật của Đài Loan và quan hệ Việt Nam - Đài Loan

- Sự điều chỉnh chiến lược phát triển của Đài Loan sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ với Mỹ, Trung Quốc và các nước trong khu vực.

- Quan hệ Việt Nam - Đài Loan trên các lĩnh vực kinh tế và văn hóa.

- Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đài Loan.

5) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về kinh tế ở Đông Bắc Á

- Vị trí và vai trò của kinh tế Đông Bắc Á trong khu vực Đông Á.

- Liên kết kinh tế Đông Bắc Á: thực trạng, vấn đề, và triển vọng.

6) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về chính trị và an ninh ở Đông Bắc Á

- Cạnh tranh và hợp tác giữa Nhật Bản và Trung Quốc về vai trò lãnh đạo khu vực.

- Triển vọng giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, mâu thuẫn hai bờ eo biển Đài Loan, và tranh chấp biển đảo trong khu vực.

- Một số vấn đề nổi bật về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống trong khu vực.

7) Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về văn hóa và xã hội ở Đông Bắc Á

- Một số đặc điểm chung của văn hóa phương Đông và ảnh hưởng của chúng đến các hoạt động kinh tế - xã hội ở Đông Bắc Á.

- Một số vấn đề xã hội nổi cộm ở Đông Bắc Á và những hậu quả của chúng.

8)  Một số vấn đề cơ bản và nổi bật về môi trường ở Đông Bắc Á

- Thực trạng ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí, sóng từ…) và sự phối hợp giữa các nước trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường ở Đông Bắc Á.

- Các chính sách và biện pháp quản lý môi trường và phát triển bền vững của một số nước và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) – những kinh nghiệm và gợi ý cho Việt Nam.

3. Kế hoạch triển khai và thực hiện

Các hướng nghiên cứu nói trên sẽ được triển khai thực hiện theo các kế hoạch hàng năm của Viện thông qua các chương trình, đề tài các cấp (cấp Nhà nước, cấp Bộ, và nghiên cứu cơ bản); đồng thời khai thác các dự án hợp tác với các tổ chức cả trong và ngoài nước. Để có thể thực hiện có hiệu quả các đề tài theo đặt hàng của Chính phủ, của Viện Hàn lâm KHXH, hay các dự án hợp tác, việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn đề cơ bản và nổi bật về đất nước học và khu vực học sẽ được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Mỗi phòng chuyên môn cũng như mỗi cán bộ nghiên cứu của Viện (tùy theo chức năng, nhiệm vụ và chuyên ngành được đào tạo), sẽ được giao nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về một hoặc một số lĩnh vực nhất định theo các hướng nghiên cứu cụ thể nói trên.

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

Các tin đã đưa ngày: