I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1. Quá trình thành lập
Tháng 5 năm 1985, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã giao trách nhiệm cho Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đề xuất phương hướng nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu liên ngành các vấn đề phụ nữ, nhất là trong lĩnh vực lao động và việc làm, nhằm cung cấp cho Nhà nước những luận cứ khoa học để xây dựng chính sách đối với phụ nữ, phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian này, GS. Lê Thi là Viện trưởng Viện Triết học, đồng thời cũng là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đã được phân công nhiệm vụ này. Đề tài "Phụ nữ - Lao động - Việc làm" được đề xuất và do một nhóm nữ cán bộ nghiên cứu của Viện Triết học thực hiện. Nhóm nữ cán bộ nghiên cứu này là cơ sở tổ chức đầu tiên tiến tới thành lập Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ (nay là Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới). Dự định thành lập một Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ được Bà Nguyễn Thị Định, lúc đó là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam rất ủng hộ với chủ trương đặt Trung tâm tại Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, trong môi trường các nhà khoa học để thuận tiện cho việc hợp tác nghiên cứu.
Việc thành lập một cơ quan nghiên cứu khoa học về phụ nữ ở Việt Nam lúc đó còn mới lạ, không dễ dàng được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, hai Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam là GS Đào Văn Tập (1982 - 1985) và GS. Phạm Như Cương (1985 - 1990) tích cực ủng hộ. Tháng 3 năm 1987, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ được chính thức thành lập theo quyết định số 95/KHXH-QĐ của Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Lần đầu tiên ở Việt Nam cơ quan nghiên cứu về phụ nữ đã được thành lập, đánh dấu về mặt thể chế sự ra đời của một chuyên ngành khoa học mới ở Việt Nam: Nghiên cứu về phụ nữ. Việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ đã đáp ứng kịp thời nhu cầu nghiên cứu phụ nữ giai đoạn sau Thập kỷ quốc tế phụ nữ và phù hợp với xu thế Đổi mới, mở cửa của đất nước cuối những năm 80 thế kỷ XX. Hơn 25 năm qua, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã trải qua nhiều bước phát triển với sự trưởng thành vượt bậc. Để đáp ứng với những yêu cầu mới của Đảng và Nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn, Viện đã bốn lần có sự thay đổi về tên gọi và chức năng, nhiệm vụ.
Đầu tiên là Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ (1987 - 1994). Nét nổi bật trong thời kỳ này là việc triển khai nhiều đề tài nghiên cứu hướng về thực tiễn, đề cập đến các vấn đề cấp thiết liên quan đến đời sống xã hội và cuộc sống của người phụ nữ. Từ đó, Trung tâm đã bước đầu khẳng định vị trí và vai trò của một cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội về phụ nữ. Ngoài ra, một số hoạt động đào tạo, hội thảo và nghiên cứu về giới được đặt ra vào đầu những năm 90 đã đặt nền móng cho việc triển khai các hướng nghiên cứu mới vào giai đoạn sau.
Năm 1994, nhân Năm Quốc tế về Gia đình, Trung tâm được Chính phủ giao thêm chức năng nghiên cứu về gia đình và đổi tên là Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ (1994 - 2004). So với thời kỳ trước, Trung tâm đã xây dựng hệ thống các đề tài khoa học, triển khai các hoạt động đào tạo, hội thảo với chủ đề đa dạng hơn, gắn kết các vấn đề gia đình và phụ nữ. Hoạt động nghiên cứu cũng gắn bó chặt chẽ với việc cung cấp luận cứ xây dựng chính sách về gia đình và phụ nữ.
Đến năm 2004, trong quá trình tái cơ cấu Viện Khoa học xã hội Việt Nam và nhấn mạnh đến vấn đề nghiên cứu giới và bình đẳng giới ở Việt Nam, Trung tâm đã được phát triển lên thành Viện Gia đình và Giới. Hướng nghiên cứu về giới đã triển khai từ giai đoạn đầu nay được đẩy mạnh hơn. Ngoài ra, Viện đã chú trọng hơn đến các hoạt động kết hợp giữa nghiên cứu và tư vấn chính sách trong lĩnh vực này. Năm 2013, trong quá trình hoàn thiện về cơ cấu tổ chức chuyển Viện Khoa học xã hội Việt Nam thành Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Gia đình và Giới một lần nữa đổi tên thành Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.
Nét nổi bật và xuyên suốt trong các hoạt động của Viện là tính chất liên ngành. Các cán bộ của Viện được đào tạo từ những chuyên ngành khác nhau đã cùng các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác hợp tác nghiên cứu những vấn đề cơ bản của phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới. Cách tiếp cận liên ngành cho phép phân tích toàn diện các vấn đề đã đặt ra và cung cấp những luận cứ kinh tế - xã hội xác đáng hơn phục vụ việc hoạch định chính sách của các cơ quan Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình, giới và phụ nữ.
2. Chức năng, nhiệm vụ
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới (tên Tiếng Anh là: Institute for Family and Gender Studies, viết tắt là IFGS) là tổ chức nghiên cứu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn về Gia đình và Giới nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với những vấn đề Gia đình và Giới; tham gia đào tạo, thực hiện tư vấn về những vấn đề Gia đình và Giới ở Việt Nam.
Nhiệm vụ chính của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới là:
1. Trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
2. Nghiên cứu cơ bản về gia đình và giới ở Việt Nam.
3. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo, thực hiện đào tạo sau đại học trong lĩnh vực chuyên môn về gia đình và giới; tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan có liên quan khác.
4. Góp ý và phản biện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương và sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
5. Tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ về những vấn đề kinh tế - xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.
6. Hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành.
7. Ký kết thực hiện các hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và các quy chế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
8. Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học.
II. THÀNH TÍCH CHỦ YẾU
1. Thành tích trong nghiên cứu
Nghiên cứu là hoạt động chính, nổi bật của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới. Hơn 25 năm qua, Viện đã thực hiện 05 dự án cấp Nhà nước; 35 đề tài cấp Bộ; hơn 40 đề tài hợp tác trong và ngoài nước. Các đề tài cấp Nhà nước đã thực hiện về các chủ đề nghiên cứu cơ bản như Vai trò của gia đình trong xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam (1991 - 1995); Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách với gia đình và phụ nữ (1991 - 1995); Điều tra cơ bản về gia đình và người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - khu vực phía Bắc (1998 - 2000); Điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới (2004 - 2006); và Điều tra gia đình Việt Nam (2006)…
Nếu trong những năm đầu thành lập, các lĩnh vực nghiên cứu của Viện tập trung vào các vấn đề về phụ nữ: Điều kiện lao động nữ trong các khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp; phụ nữ với vấn đề lao động việc làm; phụ nữ với phát triển kinh tế nông thôn; vai trò của người phụ nữ trong gia đình; phụ nữ đơn thân… thì ở giai đoạn 1992 trở đi, vấn đề về gia đình, giới và bình đẳng giới đã được chú ý và được thực hiện bởi nhiều thể loại đề tài nghiên cứu, mà thành tựu nổi bật là những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực gia đình Việt Nam được đẩy mạnh hơn nhân dịp Năm Quốc tế về Gia đình (1994): Vai trò của gia đình trong xây dựng, phát triển nhân cách con người Việt Nam; giáo dục gia đình; chăm sóc sức khỏe trong gia đình; dân số và kế hoạch hóa gia đình…
Từ năm 2004, sau khi được tái cơ cấu về tổ chức, những nội dung nghiên cứu được điều chỉnh cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới của Viện, vì thế, các nội dung nghiên cứu cũng toàn diện hơn, và chú ý nhiều hơn đến việc cung cấp cơ sở khoa học cho công tác hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Những vấn đề cơ bản về giới, gia đình, trẻ em và người cao tuổi đặc biệt được chú trọng nghiên cứu để phục vụ cho việc hoạch định chính sách và pháp luật. "Điều tra cơ bản thực trạng bình đẳng giới và tác động của chính sách đối với phụ nữ và nam giới nhằm phục vụ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam” là một dự án cấp nhà nước tiêu biểu mà Viện đã thực hiện trong giai đoạn 2004 - 2006. Đây là cuộc điều tra cơ bản, liên ngành đầu tiên có quy mô quốc gia, nhằm mục đích xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin nền tảng, phác hoạ bức tranh thực trạng quan hệ bình đẳng nam nữ, các yếu tố tác động và ảnh hưởng đến khoảng cách giới trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam; cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ cho công tác xây dựng pháp luật bình đẳng giới và đề xuất các khuyến nghị điều chỉnh chính sách (về tiếp cận và tham gia thị trường lao động - việc làm, hôn nhân - gia đình, đời sống văn hoá - tinh thần, nâng cao nhận thức bình đẳng giới) góp phần tăng cường sự tiến bộ của phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới trong giai đoạn Việt Nam hội nhập WTO. Dự án này cũng nằm trong kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Một số kết quả nghiên cứu của Dự án điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới đã được báo cáo trực tiếp với Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa cùng các đồng chí lãnh đạo ở Trung ương và các địa phương ở thời kỳ đó, cung cấp những dữ liệu thực tế cho các nhà hoạch định chính sách và xây dựng Luật Bình đẳng giới.
Điều tra Gia đình Việt Nam được Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em (từ năm 2008 là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Tổng Cục Thống kê phối hợp với Viện tiến hành vào năm 2006, với sự hỗ trợ của UNICEF là cuộc điều tra đầu tiên về gia đình trên phạm vi toàn quốc tại Việt Nam. Cuộc điều tra cơ bản đã cung cấp thông tin toàn diện về những thay đổi trong các mối quan hệ gia đình cũng như vai trò và trách nhiệm của mỗi thành viên. Đồng thời nó góp phần làm sáng tỏ những thay đổi các giá trị và chuẩn mực của gia đình dưới tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Kết quả của cuộc điều tra đã cung cấp kịp thời những minh chứng thực tế để Chính phủ xây dựng các chính sách phù hợp, đặc biệt những chính sách liên quan tới việc triển khai, thực hiện Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình mới được ban hành trong thời kỳ này. Các số liệu và kết quả phân tích còn tạo ra cơ sở dữ liệu ban đầu cho việc theo dõi những thay đổi đang diễn ra trong cuộc sống của các gia đình ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu cơ bản về gia đình của Viện đã góp phần phát hiện và lý giải những vấn đề mới xuất hiện của gia đình, chỉ ra những đặc điểm và xu hướng biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Ngoài việc chỉ ra các mô hình phân công lao động, quyền lực trong gia đình Việt Nam ở các vùng miền khác nhau, các nghiên cứu về hôn nhân và gia đình còn chỉ ra được các mô hình lựa chọn hôn nhân, xu hướng biến đổi tuổi kết hôn và mô hình sống… Các nghiên cứu liên quan đến bạo lực gia đình đã góp phần nhận dạng các hành vi bạo lực, phân tích các yếu tố tác động, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này. Các kết quả đó là cơ sở để đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng Luật, các Nghị định, các chính sách xã hội nhằm phát huy vai trò to lớn của gia đình trong việc bảo đảm hạnh phúc và phát triển cho các thành viên gia đình cũng như sự ổn định và phát triển xã hội. Năm 2012, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã phối hợp với Tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc tại Việt Nam (UN Women) và trường Đại học quốc gia Ireland thực hiện khảo sát đánh giá "Ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam". Kết quả nghiên cứu lần đầu tiên đã chỉ ra những tổn thất kinh tế cùng các chi phí xã hội do bạo lực gia đình gây ra. Những tổn thất này không chỉ với người phụ nữ, với gia đình họ, mà còn với cả sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Nghiên cứu đã cung cấp cho Chính phủ Việt Nam, cơ quan Liên hợp quốc và các bên có liên quan khác những số liệu và thông tin về tổn thất kinh tế do bạo lực gia đình gây ra và đây cũng là một bằng chứng cho việc lập kế hoạch chiến lược và ưu tiên các chương trình phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam.
Những nghiên cứu cơ bản về giới mà Viện thực hiện trong những năm qua đã phân tích và luận giải thực trạng bất bình đẳng giới, đề xuất biện pháp, khuyến nghị chính sách cải thiện tình hình, tăng cường lồng ghép giới, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thực tiễn và lợi ích chiến lược giới, trong bối cảnh Việt Nam tăng cường hội nhập và phát triển. Từ đó, Viện cũng đã có những đóng góp nhất định trong việc xây dựng Luật Bình đẳng giới, đánh giá việc triển khai thực hiện Luật cũng như sửa đổi, bổ sung một số điều luật, chính sách khác liên quan đến lợi ích giới, bình đẳng giới…
Những nghiên cứu cơ bản về trẻ em đã góp phần làm sáng tỏ những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của trẻ em Việt Nam. Chẳng hạn, vấn đề tác động của hội nhập kinh tế đến việc thực hiện quyền trẻ em, sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của trẻ em, chăm sóc sức khỏe sinh sản và một số vấn đề xã hội bức xúc đối với trẻ em hiện nay. Từ đó cung cấp một số cơ sở lý luận và thực tiễn giúp các nhà hoạch định chính sách tham khảo trong quá trình xây dựng chính sách liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Những nghiên cứu cơ bản về người cao tuổi phân tích và đánh giá hệ thống chính sách hiện có của nhà nước đối với người cao tuổi. Từ đó đề xuất một số quan điểm cơ bản và định hướng giải pháp chính sách đối với người cao tuổi phù hợp với giai đoạn mới trong sự phát triển của đất nước, nhất là trong giai đoạn gia tăng tốc độ già hóa dân số và yêu cầu cấp bách xây dựng chiến lược an sinh xã hội.
Bên cạnh việc triển khai nghiên cứu những vấn đề cơ bản, Viện đã đẩy mạnh các nội dung lý luận trong nghiên cứu. Một số chủ đề chính đã thực hiện là: lý luận về giới hay lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện quyền trẻ em. Việc tăng cường nghiên cứu lý luận đã có tác động tích cực trong việc đào tạo cán bộ của Viện và nâng cao năng lực nghiên cứu của đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Các nghiên cứu đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn, dùng thực tiễn để kiểm nghiệm lý thuyết, đồng thời cũng từ thực tiễn để khái quát hóa thành lý luận. Bên cạnh đó, việc kết hợp chặt chẽ các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính góp phần nâng cao chất lượng các nghiên cứu về gia đình, giới, phụ nữ và trẻ em.
Các nghiên cứu đánh giá chính sách cũng được Viện chú trọng, như Nghiên cứu đánh giá năng lực của các cơ quan nhà nước trong việc triển khai, thực hiện Luật bình đẳng giới, Luật phòng, chống bạo lực gia đình; đánh giá việc thực hiện Quyết định 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại và nguy hiểm, v.v…
2. Thành tích trong tư vấn và đào tạo
Các cán bộ của Viện tham gia hợp tác tư vấn với các cơ quan bên ngoài đã có truyền thống từ những năm đầu của thập kỷ 90. Vào giai đoạn đầu thành lập, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Phụ nữ, lúc đó là cơ quan nhà nước đầu tiên và duy nhất triển khai các hoạt động nghiên cứu về giới, về phụ nữ và vai trò địa vị của họ trong gia đình, ngoài xã hội. Chính vì thế mà nhiều cơ quan và tổ chức ở trong và ngoài nước đã thiết lập quan hệ, hợp tác xây dựng các chương trình nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam. Các tổ chức cơ quan mà Viện có mối quan hệ hợp tác sớm nhất là Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, SAREC, SIDA - Thụy Điển, ESCAP và một số tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước như CIDSE, Hội Đồng Dân số Mỹ, Quỹ FORD.
Những năm tiếp theo, hoạt động tư vấn của Viện ngày càng đa dạng và đi vào chiều sâu. Phạm vi các đối tác tư vấn cũng mở rộng hơn. Bên cạnh các tổ chức mà Viện đã và tiếp tục hợp tác như đã nêu, Viện còn tham gia tư vấn cho các cơ quan Chính phủ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Y tế; Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em; Bộ Tài Nguyên và Môi trường; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; các tổ chức quốc tế như UNICEF, UNWOMEN, CARE International, JICA, ActionAid, Gender Fund, IDRC...và một số tổ chức phi chính phủ khác tại Việt Nam.
Viện đã phối hợp, tham gia góp ý kiến vào các dự thảo của Luật Bình đẳng giới và các Nghị định hướng dẫn; Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020; Chương trình mục tiêu quốc gia về Bình đẳng giới 2011 - 2015 (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội); Luật Phòng chống bạo lực gia đình và các Nghị định hướng dẫn (Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Chiến lược gia đình Việt Nam 2011 - 2020 (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản 2011 - 2020 (Bộ Y tế); Kế hoạch Phát triển Kinh tế - xã hội 2011 - 2015 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Chính sách đặc thù hỗ trợ hoạt động Bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Uỷ ban Dân tộc); Chương trình, đề án về Xây dựng đạo đức lối sống người phụ nữ và Dịch vụ giúp việc gia đình của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ (Ban Dân vận TƯ) và nhiều cơ quan, tổ chức xã hội khác.
Các chuyên gia của Viện đã trực tiếp tham gia tích cực vào việc xây dựng các chương trình hành động cụ thể cũng như triển khai và đánh giá các dự án can thiệp tại nhiều địa phương trên nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, các hoạt động tư vấn về nâng cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội; Cải thiện điều kiện lao động cho lao động nữ; Tác động của các dự án tín dụng nông thôn; Vấn đề trao quyền cho phụ nữ nông dân; Cải thiện mức sống của hộ gia đình qua cung cấp dịch vụ nước sạch và vệ sinh môi trường; Chương trình Giới và phòng chống HIV; Phòng chống bạo lực gia đình; Nâng cao địa vị, cải thiện điều kiện việc làm và thu nhập cho phụ nữ các dân tộc ít người; Giới và bảo trợ Xã hội; Tiếp cận dựa trên cộng đồng để giải quyết hai vấn nạn song hành – Buôn bán Phụ nữ và Trẻ em và HIV/AIDS, v.v… Nhiều phát hiện, đề xuất rút ra từ các hoạt động đánh giá và tư vấn mà cán bộ của Viện tham gia đã được đưa vào áp dụng trong thực tiễn và được các tổ chức, cơ quan trong và ngoài nước đánh giá cao.
Bên cạnh đó, các cán bộ của Viện đã tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo đại học và sau đại học ở Học viện khoa học xã hội (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và các cơ sở đào tạo khác như Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội; Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh); Đại học Luật; Học viện phụ nữ Việt Nam; Học viện Báo chí và Tuyên truyền, v.v… Hoạt động này đã góp phần truyền bá kiến thức và kỹ năng nghiên cứu về lĩnh vực gia đình và giới, qua đó quảng bá và nâng cao vị thế của Viện trong lĩnh vực nghiên cứu này. Nhiều cán bộ của Viện đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đào tạo của một số cơ sở về lĩnh vực nghiên cứu gia đình và giới.
Không chỉ tham gia giảng dạy cho các trường đại học, Viện đã phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học ở nước ngoài tổ chức nhiều lớp tập huấn về giới cho cán bộ từ các cơ quan bộ, ngành có liên quan. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ của Viện còn tham gia tổ chức tập huấn cho cán bộ ở các cấp Trung ương và địa phương về giới và kỹ năng phân tích giới; lập kế hoạch kết hợp giới; tập huấn cho người dân về giới và phát triển cộng đồng; nâng cao nhận thức về pháp luật và sự bình đẳng cho phụ nữ, v.v…
3. Thành tích trong phổ biến kiến thức
Phổ biến, truyền bá kiến thức và kết quả nghiên cứu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới. Nhiệm vụ này được thực hiện xuất sắc thông qua các phương thức sau:
Xuất bản tạp chí
Trong những năm qua, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới của Viện luôn cố gắng cải tiến cả về hình thức lẫn nội dung nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của độc giả. Về nội dung, Tạp chí đã tăng dung lượng bài nghiên cứu, các bài viết luôn bám sát các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, các bài viết đã cung cấp tư liệu khoa học, góp phần tổng kết thực tiễn và đề xuất các luận cứ khoa học góp phần vào việc hoạch định và thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ và gia đình. Đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, giảng viên các trường đại học và cao đẳng, và các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm đến vấn đề phụ nữ, giới và gia đình, Tạp chí “Nghiên cứu Gia đình và Giới” đã trở thành một diễn đàn trao đổi học thuật và trao đổi kinh nghiệm rất bổ ích. Các bài viết được đăng tải trên Tạp chí đã thể hiện kết quả nghiên cứu, tâm huyết cũng như quan điểm của các nhà khoa học và quản lý thực tiễn trong nghiên cứu về phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới.
Bên cạnh Tạp chí tiếng Việt, Viện còn phát hành tạp chí tiếng Anh với tên "Vietnam Journal of Family and Gender Studies". Đây là một nỗ lực rất lớn của tập thể cán bộ viên chức Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, vì cho đến nay không có nhiều Tạp chí khoa học xã hội ở Việt Nam được phát hành thường kỳ bằng tiếng Anh. Tạp chí tiếng Anh của Viện đã góp phần tích cực vào việc giới thiệu với độc giả sử dụng tiếng Anh các kết quả nghiên cứu mới về phụ nữ, gia đình và giới ở nước ta, xuất phát từ cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu Việt Nam, phản ánh những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này, đồng thời, thông qua đó cung cấp thông tin đa dạng và phong phú về quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung với bạn đọc nước ngoài.
Cả Tạp chí tiếng Việt và tiếng Anh của Viện đã được cấp chỉ số ISSN (Mã số tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí).
Xuất bản sách
Những thành tựu nghiên cứu trên các lĩnh vực gia đình, phụ nữ, bình đẳng giới và trẻ em của Viện đã được phản ánh trong nhiều ấn phẩm qua các thời kỳ. Tính từ ngày thành lập Viện đến nay đã có trên 50 cuốn sách, 11 cuốn kỷ yếu do Viện xuất bản. Đặc biệt, Viện đã xuất bản 2 cuốn sách và 1 cuốn kỷ yếu số liệu thống kê cơ bản về phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới, đó là những tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác thực tiễn và đông đảo những người quan tâm về các lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, Viện đã tổ chức dịch, xuất bản và giới thiệu sách mang tính lý luận nghiên cứu phụ nữ và giới (gồm khái niệm, thuật ngữ, phương pháp, quan điểm tiếp cận, khung phân tích thực trạng, xác định chủ đề ưu tiên,…). Các kinh nghiệm, kỹ năng phân tích, lập kế hoạch giới được cán bộ Viện bước đầu đúc kết, vận dụng để xây dựng một số tài liệu về lý luận, phương pháp, kỹ năng phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy về giới (ví dụ, giáo trình tập huấn giới, giới và xoá đói giảm nghèo, tập huấn nâng cao nhận thức giới và kỹ năng lồng ghép giới,…) cho giảng viên và những người quan tâm ở các cấp hoặc lĩnh vực khác nhau.
Những ấn phẩm này là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, giảng dạy và những người làm công tác thực tiễn cũng như đông đảo những người quan tâm về các lĩnh vực này.
Công tác thông tin - tư liệu - thư viện
Thư viện Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới là một trong những thư viện chuyên ngành lớn ở Việt Nam với 8.000 đầu sách và 40 loại tạp chí quốc tế và trong nước. Các tài liệu lưu trữ tại thư viện khá đa dạng về chủng loại như sách xuất bản, tài liệu hội thảo, sách tra cứu, kết quả điều tra v.v… Công tác tin học hóa hoạt động thư viện đã được quan tâm và từng bước nâng cao chất lượng phục vụ nghiên cứu. Cho đến nay 17.000 biểu ghi đã được xử lý và nhập vào cơ sở dữ liệu thư viện. Trong nhiều năm qua, Thư viện Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã là địa chỉ quen thuộc của các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, các nhà hoạt động thực tiễn cũng như các học viên cao học, nghiên cứu sinh, sinh viên đại học lui tới tra cứu, tìm tài liệu về những vấn đề gia đình và giới mà họ quan tâm.
Trang web
Trang web của Viện cũng là kênh phổ biến kiến thức nhanh chóng và hữu hiệu. Tại địa chỉ http://ifgs.org.vn, bạn đọc có thể tìm thấy những tin tức mới nhất về hoạt động khoa học cũng như hệ đề tài mà Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã thực hiện từ trước tới nay như đề tài cấp nhà nước, đề tài cấp bộ, đề tài hợp tác, v.v.. Trang web cũng đăng tải thông tin về xuất bản phẩm của Viện bao gồm danh mục đầu sách; kỷ yếu hội thảo khoa học; mục lục, tóm tắt và toàn văn các bài tạp chí của Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới và tạp chí Vietnam Journal of Family and Gender Studies. Qua trang web bạn đọc có thể dễ dàng tiếp cận với sách và tài liệu của Thư viện của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới liên quan đến các 4 chủ đề: gia đình, giới, phụ nữ và trẻ em.
4. Thành tích thực hiện các nhiệm vụ khác
Để đạt được thành tích cao trong công tác nghiên cứu, đào tạo, tư vấn và phổ biến kiến thức, đội ngũ cán bộ viên chức của Viện luôn đoàn kết nhất trí, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở. Chi bộ Đảng luôn đạt danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh. Chi bộ, chi ủy đã thực hiện tốt vai trò lãnh đạo toàn diện. Chi ủy đã phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo Viện trong việc chỉ đạo, động viên mọi đảng viên, cán bộ, viên chức phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ công tác của Viện. Lãnh đạo Viện định kỳ báo cáo và nêu các vấn đề liên quan đến công tác chung của Viện tại các cuộc họp thường kỳ của chi bộ để đảng viên thảo luận và góp ý kiến.
Thực hiện tốt Quy chế phối hợp công tác giữa chính quyền và công đoàn, đại diện công đoàn thường xuyên tham gia và đóng góp ý kiến đối với công tác tổ chức, quản lý cơ quan và các công tác khác (qua các cuộc họp liên tịch, họp trù bị cho công tác sơ kết, tổng kết chung hoặc từng mặt công tác khác của cơ quan). Ngoài ra, Ban Chấp hành công đoàn còn chủ động tổ chức những cuộc tham quan, nghỉ mát cho cán bộ viên chức trong đơn vị, tạo ra không khí phấn khởi và đoàn kết trong cơ quan. Đoàn viên công đoàn thường xuyên hưởng ứng các đợt phát động ủng hộ các quỹ Tình thương, quỹ vì người nghèo; ủng hộ Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, đồng bào các vùng bị thiên tai, lũ lụt hoặc các đợt ủng hộ người nghèo, trẻ em mồ côi, nạn nhân chất độc da cam do các Hội thiện nguyện quyên góp, vận động tài trợ tại cơ quan bằng tiền hoặc hiện vật.
Các đoàn viên chi đoàn đã tích cực tham gia vào hoạt động chung của Viện. Ngoài việc tham gia các đề tài do cán bộ có kinh nghiệm hơn phụ trách, các đoàn viên chi đoàn còn chủ trì thực hiện đề tài cấp Viện nhằm tăng cường năng lực và tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu. Thông qua các công việc này, các cán bộ trẻ đã trưởng thành nhanh hơn, trở thành đội ngũ kế cận đáng tin cậy của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới trong tương lai.
Các tổ chức đoàn thể khác như Chi hội Cựu Chiến binh, Tiểu ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cũng đã có những đóng góp tích cực vào thành tựu chung của Viện trong những năm qua.
5. Các hình thức khen thưởng đã được ghi nhận
Với những đóng góp nổi bật của tập thể cán bộ viên chức Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới trong hơn 25 năm qua, tập thể Viện và nhiều cán bộ trong Viện đã được Đảng, Nhà nước và Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tặng nhiều phần thưởng cao quý. Có thể nêu một số phần thưởng chủ yếu sau:
Tập thể
- Viện Gia đình và Giới được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2012.
- Viện Gia đình và Giới được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2007.
- Viện Gia đình và Giới được tặng Cờ thi đua cấp Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2010.
- Tập thể Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới và một số phòng trong Viện đã nhiều lần được nhận danh hiệu “Tập thể Lao động xuất sắc” do Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trao tặng.
Cá nhân
- Giáo sư Lê Thi, người sáng lập và Thủ trưởng đầu tiên của Viện, được Chủ tịch nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba.
- TS. Đỗ Thị Bình, nguyên là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ cuối những năm 90, được tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
- Nhiều cán bộ trong Viện được tăng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp Viện Khoa học xã hội” và “Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở”.
III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
Trong những năm tới, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới tiếp tục hướng phát triển của một Viện nghiên cứu cơ bản về chuyên ngành gia đình và giới nhằm tiếp tục khẳng định vị trí là một trong những cơ quan nghiên cứu hàng đầu về gia đình, giới và phụ nữ.
Viện sẽ kết hợp chặt chẽ hơn công tác nghiên cứu lý luận cơ bản và nghiên cứu thực tiễn. Quan tâm nhiều hơn đến nghiên cứu những vấn đề lý luận và phương pháp luận về phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới; tìm ra những nét đặc thù của Việt Nam khi vận dụng các lý thuyết nước ngoài và căn cứ vào thực tiễn để tổng kết, bổ sung lý luận.
Tham gia tích cực vào công tác tư vấn hoạch định chính sách, đặc biệt là việc giám sát, đánh giá thực hiện các bộ luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình, việc xây dựng các bộ luật khác và các văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đến gia đình, phụ nữ, bình đẳng giới và trẻ em.
Đa dạng hóa các hoạt động tư vấn. Ngoài việc triển khai các hoạt động phục vụ việc xây dựng chính sách, chiến lược và các kế hoạch dài hạn, Viện tiến hành các hoạt động tư vấn trực tiếp phục vụ phát triển cộng đồng trên nhiều lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới, bạo lực gia đình.
Bên cạnh việc thực hiện một cách tốt nhất các chương trình, đề tài nghiên cứu do Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam giao, Viện nghiên cứu Gia đình và Giới sẽ chủ động hợp tác nghiên cứu với các cơ quan có liên quan ở cấp trung ương, địa phương và tổ chức quốc tế để góp phần tổng kết những vấn đề cơ bản của nghiên cứu gia đình, phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới ở Việt Nam.
Một số vấn đề thực tiễn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mà Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới sẽ đi sâu nghiên cứu trong thời gian tới là:
- Về lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ, phân tích sâu hơn về việc làm, thu nhập và cơ hội đào tạo của phụ nữ ở các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế; phụ nữ và vấn đề kết hôn với người nước ngoài, phụ nữ tham gia lao động xuất khẩu trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; vấn đề mại dâm, buôn bán phụ nữ; toàn cầu hóa và vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
- Về lĩnh vực nghiên cứu về gia đình, Viện sẽ tập trung hơn vào hai nội dung lớn có liên quan mật thiết với nhau: Một là nghiên cứu quá trình biến đổi của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Hai là nghiên cứu tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đến các giá trị, chuẩn mực của gia đình Việt Nam. Một số câu hỏi sẽ được tập trung lý giải, chẳng hạn, thực trạng và xu hướng biến đổi hệ thống giá trị và chuẩn mực của gia đình Việt Nam như thế nào? Một số xu huớng mới như sự gia tăng của gia đình hạt nhân, sự xuất hiện nhiều gia đình chỉ có bố hay mẹ đơn thân nuôi con cái, v.v… sẽ diễn ra như thế nào, những yếu tố nào tác động đến nó và những xu hướng này để lại hệ lụy gì đối với sự phát triển xã hội? Làm thế nào bảo đảm cho gia đình Việt Nam “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc” trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa?
- Về lĩnh vực nghiên cứu trẻ em, Viện sẽ tập trung hơn đến các nghiên cứu lý luận và một số chủ đề nổi bật chưa được quan tâm đúng mức như nhu cầu phát triển của trẻ em trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; những vấn đề về phúc lợi xã hội đối với trẻ em; những vấn đề liên quan đến lạm dụng hoặc xâm hại tình dục trẻ em, v.v…
- Về lĩnh vực nghiên cứu giới, Viện sẽ kết hợp chặt chẽ hơn công tác nghiên cứu lý luận cơ bản và nghiên cứu thực tiễn. Thực hiện phân tích giới như nguyên tắc xuyên suốt, theo cách tiếp cận liên ngành; tiến hành tổng kết thực tiễn trên những vấn đề cơ bản một cách định kỳ; nâng cao năng lực nghiên cứu và phân tích, cập nhật thông tin, nhằm góp phần đáp ứng kịp thời và đầy đủ hơn các nhu cầu và mục tiêu phát triển của Việt Nam về nâng cao vị thế phụ nữ và bình đẳng giới trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Về phân tích đánh giá các chính sách có liên quan đến phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới và trẻ em, Viện sẽ coi đây là một trọng tâm nghiên cứu trong thời gian tới. Một số vấn đề đặt ra như: Các chính sách đạt được những thành tựu nào? Việc thi hành các chính sách gặp những trở ngại gì và các bài học kinh nghiệm trong việc giải quyết các trở ngại đó? Trên cơ sở đó sẽ cung cấp những luận cứ vững chắc cho việc bổ sung và hoàn thiện các chính sách đối với gia đình, bình đẳng giới, phụ nữ và trẻ em.
Dù còn gặp không ít khó khăn, thách thức, toàn thể cán bộ viên chức Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã không ngừng nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều thành tựu trong các hoạt động của mình. Với định hướng phát triển nêu trên, đội ngũ cán bộ của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đang tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thiện kỹ năng nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu phát triển của Viện nói riêng và của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói chung.
Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN