I. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỦA VIỆN
Viện Nghiên cứu Trung Quốc (tên tiếng Anh: Institute of Chinese studies) – tiền thân là Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, được thành lập theo Quyết định số 406/TTg ngày 13 tháng 09 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ. Hai mươi năm qua, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Viện KHXH Việt Nam, nay là Chủ tịch viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, sự nỗ lực tuyệt vời của các thế hệ cán bộ viên chức, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Kỷ niệm 20 năm thành lập (1993-2013) là dịp thuận lợi để Viện nhìn lại những mặt được, chưa được, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời nêu lên định hướng phát triển trong thời gian tới.
1. Về chức năng, nhiệm vụ
Theo Quyết định số 250/QĐ – KHXH ngày 27 tháng 02 năm 2012 của Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Viện Nghiên cứu Trung Quốc là tổ chức nghiên cứu khoa học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Viện có chức năng nghiên cứu cơ bản về Trung Quốc nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về Trung Quốc học; tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của đất nước, qua đó góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt Nam và Trung Quốc.
Cũng theo Quyết định nêu trên, Viện có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu như sau:
Một là, trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, hàng năm về phát triển của Viện Nghiên cứu Trung Quốc và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
Hai là, tổ chức nghiên cứu cơ bản về Trung Quốc trên các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự v.v... trên cơ sở đó cung cấp những thông tin về những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc;
Ba là, kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực Trung Quốc học, thực hiện đào tạo theo quy định, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Bốn là, góp ý và phản biện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của các bộ, ngành địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Năm là, tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ về những vấn đề kinh tế - xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Trung Quốc;
Ngoài ra, Viện còn được phép thực hiện Hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành; ký kết thực hiện các hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và các quy chế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học; quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị; đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2. Về cơ cấu tổ chức
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, sự tư vấn của Hội đồng Khoa học, hiện nay Viện Nghiên cứu Trung Quốc có 13 tổ chức (cấp phòng), trong đó:
Có 9 phòng nghiên cứu khoa học, gồm:
(1). Phòng Nghiên cứu Tổng hợp Trung Quốc.
(2). Phòng Nghiên cứu Văn hoá - Lịch sử Trung Quốc.
(3). Phòng Nghiên cứu Chính trị Trung Quốc.
(4). Phòng Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc.
(5). Phòng Nghiên cứu Xã hội Trung Quốc.
(6). Phòng Nghiên cứu Quan hệ đối ngoại Trung Quốc.
(7). Phòng Nghiên cứu Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
(8). Phòng Nghiên cứu Đài Loan.
(9). Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông.
Có 4 phòng chức năng, nghiệp vụ, gồm:
(10). Phòng Tổ chức - Hành chính.
(11). Phòng Quản lý Khoa học và Hợp tác quốc tế.
(12). Phòng Thông tin - Thư viện.
(13) Phòng Tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc.
Và một tổ chức dịch vụ mang tên gọi: Trung tâm hợp tác nghiên cứu, đào tạo và tư vấn doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc.
3. Về đội ngũ cán bộ
Tính đến cuối tháng 6 năm 2013, Viện Nghiên cứu Trung Quốc có tổng số 58 cán bộ, viên chức trong biên chế và 10 hợp đồng nghiên cứu khoa học.
Trong số những người làm công tác nghiên cứu Khoa học, về mặt học hàm – học vị, có 1 Giáo sư Tiến sĩ, 1 Phó Giáo sư Tiến sĩ, 8 Tiến sĩ, 19 Thạc sĩ (trong đó 5 người đang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ trong và ngoài nước), 17 cử nhân (trong đó 4 người đang học cao học).
Về chức danh nghiên cứu, có 2 người là NCV cao cấp, 10 là nghiên cứu viên chính, còn lại là nghiên cứu viên và tập sự nghiên cứu.
Đội ngũ cán bộ, viên chức hiện có của Viện có hai đặc điểm tương đối rõ rệt; Một là, thanh niên đông hơn trung niên; hai là, nữ nhiều hơn nam.
Ngoài cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ nêu trên, Viện còn có đội ngũ cộng tác viên đông đảo là các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về Trung Quốc ở một số Viện trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một số trường trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, một số viện, khoa thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao. Đặc biệt, Viện luôn duy trì thường xuyên một số chuyên gia có thâm niên công tác lâu năm, nay đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn đủ sức khỏe và tâm huyết tham gia vào các công việc tư vấn nghiên cứu và giảng dạy của Viện.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ MẶT KHOA HỌC
Từ khi thành lập năm 1993 đến nay, Viện đã đạt được một số thành tựu trong nghiên cứu khoa học như sau:
Viện đã hoàn thành 2 đề tài cấp Nhà nước, hơn 40 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, hơn 300 đề tài nghiên cứu cấp cơ sở; đồng thời tiến hành 5 đề tài hợp tác quốc tế, tham gia một số đề tài nhánh thuộc các Chương trình cấp Nhà nước ở ngoài Viện. Kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên phần lớn đều đã được xuất bản thành sách, kỷ yếu hoặc đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.
Tính đến nay, Viện đã xuất bản được trên 60 cuốn sách, là thành quả của các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước, luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ. Riêng Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc do Viện chủ trì, từ số ra đầu tiên tháng 6/1995 đến tháng 6/2013 đã ra mắt bạn đọc được 142 kỳ, đăng tải được hơn 800 công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, trong đó có khoảng gần một nửa là của cán bộ, viên chức khoa học của Viện. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc không những là cơ quan ngôn luận của Viện mà còn là Diễn đàn của các nhà Trung Quốc học Việt Nam và thế giới.
Trong khuôn khổ hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN, Viện còn được giao phụ trách Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc và ASEAN (CACS), nhằm xây dựng mạng lưới nghiên cứu về Trung Quốc của các nước ASEAN và nghiên cứu về Đông Nam Á của Trung Quốc. Trong những năm qua CACS đã triển khai một số hoạt động trong đó có 2 hội thảo khoa học quốc tế, 2 công trình nghiên cứu chung. Kết quả của các hoạt động trên cũng đã được xuất bản thành 4 cuốn sách bằng tiếng Anh để trao đổi quốc tế.
Các sản phẩm khoa học do Viện chủ trì được công bố đã góp phần cung cấp những thông tin cơ bản, toàn diện và tương đối có hệ thống về Trung Quốc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, chính sách đối ngoại, an ninh quốc phòng của Trung Quốc v.v… qua đó góp phần làm cho người đọc Việt Nam có được cách nhìn khoa học, khách quan về Trung Quốc đương đại, nhất là về công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, đồng thời cũng là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh tiến sĩ và những người quan tâm tìm hiểu về Trung Quốc, qua đó góp phần đào tạo đội ngũ các nhà Trung Quốc học của Việt Nam. Dưới dây là những đóng góp trên một số lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu:
1. Về lĩnh vực kinh tế - xã hội Trung Quốc
Đây là một trong những lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm của Viện. Trong những năm qua, các đề tài được tập trung vào những vấn đề sau đây:
Một là, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình cải cách mở cửa và phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc, như: Những vấn đề nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến 2020; đánh giá sự trỗi dậy về kinh tế Trung Quốc và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam; vấn đề cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở Trung Quốc; vai trò của Nhà nước trong việc ứng phó với khủng hoảng tài chính tiền tệ; vấn đề chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, phát triển vùng miền, nông thôn - thành thị, vấn đề tam nông, hưng biên phú dân v.v...
Hai là, nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực xã hội của Trung Quốc, trong đó có việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng xã hội hài hòa ở Trung Quốc; nhân tố xã hội nảy sinh trong quá trình trỗi dậy của Trung Quốc; vấn đề dân sinh và những vấn đề xã hội nổi lên trong quá trình Trung Quốc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như phân tầng xã hội, chênh lệch giàu nghèo, bất ổn xã hội v.v...
Ba là, tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm hội nhập quốc tế của Trung Quốc trong đó có việc Trung Quốc trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), từ đó đề xuất những kiến nghị mang tính gợi mở đối với Việt Nam khi gia nhập WTO.
2. Về lĩnh vực chính trị Trung Quốc
Các đề tài nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, đáng chú ý là cải cách, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN, cải cách hành chính nhà nước theo hướng Chính phủ phục vụ, vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc; những đột phá về tư duy trong phát triển ở Trung Quốc, chống tham nhũng, hủ bại v.v... Những nghiên cứu này đã góp phần giúp bạn đọc Việt Nam hiểu thêm về chế độ chính trị của Trung Quốc, cũng như kinh nghiệm cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Trong số kinh nghiệm cải cách thể chế chính trị có kinh nghiệm trong việc nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản và phòng chống tham nhũng như: Đảng phải đi trước thời đại, Đảng thực hiện cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật và cầm quyền vì dân, xây dựng mô hình chính đảng học tập, xã hội học tập. Trong chống tham nhũng vừa phải coi trọng cả trừng trị và phòng ngừa, trong phòng ngừa tham những phải coi trọng xây dựng chế độ, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực – sao cho có thể “nhốt con hổ quyền lực vào trong chiếc lồng của chế độ”. Khác với kinh tế, ảnh hưởng của tham nhũng đối với chính trị là không thể tính toán được và hậu quả cũng vô cùng to lớn, bởi nó liên quan trực tiếp đến lòng tin của người dân và sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc v.v...
3. Về lịch sử Trung Quốc
Trong những năm qua, Viện cũng đã triển khai một số nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc qua các thời kỳ, bước đầu đạt được một số kết quả như: Nghiên cứu về lịch sử cận hiện đại Trung Quốc; Cách mạng Tân Hợi; 50 năm nước CHND Trung Hoa (1949 -1999); Quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ 1978 đến nay; Vai trò người Hoa Đông Nam Á trong sự phát triển của Trung Quốc (1978 - 2005); Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung Quốc (1978 - 2008) v.v…
4. Về văn hóa, văn học Trung Quốc
Cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác, lĩnh vực văn hóa, văn học Trung Quốc trong những năm qua cũng được Viện tập trung nghiên cứu, trong đó có một số đề tài cấp Bộ, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ đã được xuất bản. Trong lĩnh vực Văn hóa, Viện đã tiến hành nghiên cứu những vấn đề như: Xây dựng nền văn hóa XHCN mang đặc sắc Trung Quốc, xây dựng văn minh tinh thần, xây dựng văn hóa tiên tiến XHCN ở Trung Quốc; lễ hội truyền thống ở Trung Quốc, sức mạnh mềm văn hóa của Trung Quốc v.v... Trong lĩnh vực văn học Trung Quốc, Viện có một số nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ từ Tô Đông Pha, nghệ thuật kịch của Tào Ngu v.v...
5. Về các vùng lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao
Ngoài những nghiên cứu về Trung Quốc đại lục, Viện cũng rất chú trọng đến việc nghiên cứu về các vùng lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao, hợp tác giữa các vùng lãnh thổ này với đại lục Trung Quốc. Trong đó có nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế - xã hội Đài Loan; cải cách, phát triển giáo dục của Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao thời kỳ trước và sau khi chuyển giao chủ quyền; quan hệ kinh tế hai bờ eo biển Đài Loan; quan hệ hai bờ bốn bên (Đại lục, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao), hợp tác vùng Chu Giang mở rộng ở Trung Quốc v.v...
6. Về lĩnh vực đối ngoại, an ninh quốc phòng của Trung Quốc
Các đề tài của Viện tập trung vào việc tìm hiểu chính sách và quan hệ đối ngoại của Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay như: Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 20 năm đầu thế kỷ XXI, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm đảm bảo sự trỗi dậy của Trung Quốc giai đoạn 2011 - 2020 v.v... Trong đó nêu bật các nội dung như: Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế, tăng cường mở rộng vai trò, ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới, những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trước những điều chỉnh về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, Viện cũng tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu về các cặp quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ, Trung Quốc với Nga, Trung Quốc với Nhật Bản, Trung Quốc với ASEAN, chủ yếu là từ sau chiến tranh lạnh đến nay.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, an ninh quốc phòng của Trung Quốc cũng không ngừng được tăng cường, đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng đánh giá sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì vậy, Viện cũng đã bắt đầu tiến hành một số nghiên cứu về lĩnh vực này, như Nghiên cứu về sự trỗi dậy trong lĩnh vực an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong 10 năm đầu thế kỷ XXI, những định hướng lớn về quốc phòng của Trung Quốc, từ đó nêu ra những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo của thế kỷ XXI v.v...
7. Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Đây là lĩnh vực quan trọng được Viện quan tâm nghiên cứu nhất, bởi lẽ việc nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của Trung Quốc cuối cùng là nhằm phục vụ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Trong những năm qua, được sự đầu tư của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và một số tổ chức quốc tế, Viện đã phối hợp với một số địa phương ở Việt Nam và Trung Quốc triển khai nhiều đề tài, dự án, hội thảo về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Kết quả của những đề tài, dự án nghiên cứu, hội thảo đều được xuất bản như: Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế, văn hóa Việt Nam - Trung Quốc; Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; Vai trò của tỉnh Lào Cai trong hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng; “Phát triển hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt - Trung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - Trung Quốc; Hợp tác phát triển “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt Nam - Trung Quốc trong bối cảnh mới; Hiện trạng và triển vọng buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc, v.v...
Trong những năm gần đây, Viện đã tiến hành một số đề tài, nhiệm vụ cấp Bộ nghiên cứu về những vấn đề nổi bật trong quan hệ Trung Quốc - Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21 và triển vọng đến năm 2020; quan hệ Việt - Trung trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, những vấn đề đặt ra và đối sách xử lý của Việt Nam giai đoạn 2011-2020; tình hình thương mại biên giới của các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam), một số vấn đề về cơ chế hợp tác phát triển giữa các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc); quan hệ biên mậu giữa Tây Bắc (Việt Nam) với Vân Nam (Trung Quốc). Đồng thời, bộ sách Biên niên về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc (1960-1970; 1980-1991; 1991-2001) do Viện chủ trì biên soạn đã được dư luận hoan nghênh và đánh giá tốt.
Những nghiên cứu nêu trên của Viện đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân, trong đó có học giả hai nước Việt Nam - Trung Quốc; đóng góp nhất định vào việc nhận diện thực trạng quan hệ hai nước trên nhiều lĩnh vực, từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc phát triển ổn định và lành mạnh.
8. Những nghiên cứu và ứng dụng khác
Ngoài những nghiên cứu nêu trên, từ năm 2006 đến nay, mỗi năm Viện đều tiến hành nghiên cứu, cập nhật tình hình Trung Quốc trong năm trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, ngoại giao, an ninh quốc phòng, tình hình phát triển kinh tế - xã hội một số tỉnh biên giới của Trung Quốc tiếp giáp với Việt Nam. Kết quả của những nghiên cứu này giúp bạn đọc ở Việt Nam nắm được tình hình Trung Quốc qua từng năm.
Nhằm kết hợp giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo và tư vấn doanh nghiệp, năm 2012 Viện đã được Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội việt Nam cho phép thành lập “Trung tâm hợp tác nghiên cứu , đào tạo và tư vấn doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc”, hoạt động theo hình thức tự chủ về tài chính.
Năm 2012, ngay sau khi thành lập Trung tâm đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam thuộc Trường Đại học Công nghiệp Chiết Giang tổ chức “Diễn đàn doanh nghiệp Việt - Trung: Tiềm năng và cơ hội hợp tác” tại Hà Nội vào ngày 21 tháng 11 năm 2012. Diễn đàn đã góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp hai nước, đồng thời mở ra một hướng hoạt động mới của Viện là nghiên cứu gắn liền với thực tiễn.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng Viện cũng nghiêm túc kiểm điểm nhận thấy rằng: Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của Viện còn mang tính “chụp ảnh” nhiều hơn, dựa chủ yếu vào tài liệu của phía Trung Quốc, chưa đi sâu phân tích, đánh giá và tham khảo thêm tài liệu nước ngoài viết bằng tiếng Anh; phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận còn mang tính truyền thống, chưa mang tính hiện đại; chuyên ngành của đội ngũ cán bộ của Viện đa phần là lịch sử, văn học, Đông phương học... nên thường gặp khó khăn khi phân tích những vấn đề đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về kinh tế học, xã hội học, chính trị học, v.v... Ngoài ra, mọi hoạt động của Viện đều dựa vào nguồn đầu tư của Nhà nước thông qua Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nên dù có được tăng thêm hàng năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu - nhất là việc đi khảo sát thực tế ở Trung Quốc, dẫn đến tình trạng gọi là “nghiên cứu chay”, mang tính “tư biện”, “định tính” nhiều hơn.
Tất cả những hạn chế và khó khăn nêu trên làm cho chất lượng các sản phẩm khoa học của Viện cần được nâng cao hơn nữa.
III. LIÊN KẾT ĐÀO TẠO VỚI BÊN NGOÀI VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Về liên kết đào tạo.
Năm 2012, Viện Nghiên cứu Trung Quốc cùng với các Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á mở Mã ngành đào tạo Thạc sĩ châu Á học thuộc Học Viện Khoa học xã hội, bắt đầu triển khai đào tạo Thạc sĩ châu Á học.
Ngoài ra, cán bộ viên chức của Viện còn tham gia giảng dạy, hướng dẫn khoá luận đại học và sau đại học, tham gia các hội đồng chấm luận văn luận án ở các cơ sở đào tạo thuộc Viện KHXH Việt Nam trước đây (như Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới v.v...), Học viện Khoa học xã hội,Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Khoa Lịch sử, Khoa Đông phương học v.v...), Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, Trường đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa Ngữ Văn), Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Ngoại giao v.v...
2. Về hợp tác quốc tế.
Viện đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu của nước ngoài như Viện Viễn Đông Nga, Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Nhật Bản, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Đại học Công nghiệp Chiết Giang, Đại học Ký Nam, Học viện Hồng Hà Trung Quốc. Thông qua hợp tác, Viện đã cùng một số đối tác triển khai một số hoạt động khoa học chung như: Phối hợp với Viện Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga tiến hành dự án nghiên cứu về Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21, nghiên cứu so sánh chuyển đổi mô hình phát triển giữa Việt Nam, Nga và Trung Quốc, nghiên cứu về sức mạnh mềm Trung Quốc v.v... Phối hợp với Viện ngôn ngữ và văn hoá các nước Á Phi thuộc trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo (Nhật Bản) tổ chức Hội thảo khoa học “Hai hành lang một vành đai kinh tế Việt - Trung trong bối cảnh mới”, phối hợp với Học viện Hồng Hà tỉnh Vân Nam - Trung Quốc tiến hành hai đề tài nghiên cứu chung về Mậu dịch biên giới Việt - Trung; cơ chế hợp tác phát triển giữa các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam) với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), v.v...
Đặc biệt, một số cán bộ của Viện còn được mời tham gia giảng dạy và thuyết trình tại một số trường đại học ở nước ngoài, như: Đại học Bắc Kinh (Khoa quan hệ quốc tế), Học viện Hồng Hà thuộc tỉnh Vân Nam, Đại học Tài chính Giang Tây, Đại học Ký Nam, Đại học Chính trị công lập Đài Loan, Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Malaya, Đại học Kinh tế Osaka Nhật Bản v.v...
IV. HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
Trong những năm gần đây, nhằm tạo động lực làm việc mới cho cán bộ, viên chức, Viện đã triển khai một số hoạt động xã hội có ý nghĩa, như: Kết nghĩa với xã biên giới Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Liên tục 13 năm liền từ năm 2000 đến nay, hàng năm Viện đã phối hợp với Công đoàn và Chi đoàn thanh niên tổ chức cho cán bộ, viên chức đi thăm và tặng quà các em học sinh nghèo vượt khó, học giỏi tại xã, đồng thời giao lưu với các lực lượng làm nhiệm vụ tại địa bàn như đồn Biên phòng, Ban Quản lý kinh tế cửa khẩu, qua đó tăng thêm sự hiểu biết thực tiễn của cán bộ, viên chức và gia tăng tình cảm giữa cán bộ ở cơ quan Trung ương với những người làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Đặc biệt, từ năm 2009 đến nay, sau chuyến đi khảo sát thực tiễn của đồng chí Viện trưởng đến Trường Sa, Viện đã ký Thỏa thuận hợp tác về tuyên truyền biển đảo với Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân. Theo Thỏa thuận này, hàng năm Viện đều cử đoàn cán bộ, viên chức đi thăm và tặng quà cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hoà và Nhà giàn DK1. Viện còn làm đầu mối để nhiều cán bộ, viên chức thuộc các đơn vị khác của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tham gia các hoạt động vì Trường Sa thân yêu, qua đó làm tăng thêm nhận thức của mọi người về biển đảo, yêu mến biển đảo và sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Các hoạt động xã hội nêu trên đều đã góp phần làm tăng tình đoàn kết nội bộ, nâng cao uy tín của Viện trong xã hội, được dư luận hoan nghênh và đánh giá cao.
V. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ những thành tựu đạt được trong 20 năm qua, chúng tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, bám sát yêu cầu, đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và xã hội, dựa trên cơ sở tư vấn của Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã xác định phương hướng nghiên cứu cho từng năm và lâu dài. Trong quá trình triển khai các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu ở các cấp khác nhau, Viện đã thiết lập một cơ cấu nghiên cứu hợp lý, từ đó sắp xếp đội ngũ nghiên cứu sao cho phát huy được sức mạnh tập thể cũng như thế mạnh của mỗi cá nhân. Đặc biệt, Viện đã tranh thủ được ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài Viện, áp dụng một cách linh hoạt việc gắn kết giữa cơ cấu cứng và cơ cấu mềm. Từ đó góp phần làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của Viện đặt ra.
Ngoài ra, một trong những điểm sáng của Viện trong những năm qua là chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, viên chức bao gồm cả ở trong và ngoài nước, nhất là đào tạo thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học hàng ngày. Nhờ đó, trong những năm qua nhiều cán bộ, viên chức của Viện đã được nhận học hàm, học vị và các loại bằng cấp khác, góp phần tăng cường chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao vị thế của Viện trong nghiên cứu và giảng dạy về Trung Quốc học. Nhiều người được mời đi nghiên cứu và giảng dạy ở một số tổ chức nghiên cứu và trường Đại học ở nước ngoài. Điều này đã góp phần làm cho Viện trở thành “điểm đến” của các nhà Trung Quốc học Việt Nam và thế giới.
Hai là, để hoàn thành một khối lượng lớn công việc nêu trên, Ban lãnh đạo Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã phối hợp tốt với Chi bộ, các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên trong cơ quan, thường xuyên trao đổi, giao ban định kỳ, thực hiện đúng các quy chế đã ban hành, nhất là Quy chế về dân chủ cơ sở, qua đó góp phần tích cực vào việc ổn định cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng thời, Viện luôn giữ được truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, tìm mọi cách nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, viên chức trong Viện.
Ba là, Viện luôn gắn việc hưởng ứng, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước với việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao, từ đó đã khích lệ cán bộ, viên chức trong Viện thực hiện nghiêm túc và đạt kết quả tốt công tác nghiên cứu của mình. Việc thực hiện phong trào thi đua Xây dựng văn hóa công sở và Ngày làm việc 8 giờ chất lượng, phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chống tham nhũng, cuộc vận động xây dựng người cán bộ công chức, viên chức trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu đã được thực hiện gắn với các phong trào thi đua Lao động giỏi, lao động sáng tạo của đơn vị. Các phong trào này được tiến hành với phương thức đã nêu trên đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía Ban lãnh đạo Viện, Chi ủy, các đoàn thể liên quan và đoàn viên công đoàn Viện, từ đó giúp Viện luôn hoàn thành được các công việc được giao.
VI. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao, bám sát yêu cầu Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Viện Nghiên cứu Trung Quốc xác định một số định hướng lớn trong phát triển Viện như sau:
1. Về nghiên cứu khoa học
Đây là nhiệm vụ chính trị của Viện. Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời tích cực đổi mới phương pháp nghiên cứu và tiếp cận, coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, hệ đề tài nghiên cứu khoa học của Viện tập trung vào việc sẽ tiếp tục nhận diện, phân tích, dự báo về sự phát triển của Trung Quốc đến năm 2020 và 2030 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và điều chỉnh chính đối ngoại; những tác động từ sự phát triển hay trỗi dậy của Trung Quốc đối với cục diện thế giới, khu vực và Việt Nam; đồng thời đề xuất những kiến nghị với Đảng và Nhà nước nhằm tận dụng khai thác những cơ hội, giảm thiểu những thách thức từ sự phát triển của Trung Quốc.
2. Về xây dựng đội ngũ
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, đội ngũ cán bộ của Viện đã tăng nhanh về số lượng và nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên, số cán bộ nghiên cứu lâu năm có kinh nghiệm, có học hàm học vị nay đa số đã lớn tuổi, đến tuổi nghỉ hưu hoặc sắp nghỉ hưu. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách và trọng tâm trong thời gian tới là vừa nghiên cứu khoa học vừa tiếp tục xây dựng đội ngũ. Xây dựng đội ngũ vừa theo trường lớp để nhận học vị, vừa thông qua đào tạo tại chỗ kết hợp giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, vừa đáp ứng yêu cầu thi nâng ngạch viên chức. Điều quan trọng là việc đào tạo bồi dưỡng sẽ được cụ thể hóa đến từng người theo đúng định hướng nghiên cứu và nội dung công việc đã được xác định.
3. Về xây dựng cơ sở vật chất
Viện sẽ sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí được cấp để hoàn thiện cơ sở vật chất hiện có theo hướng hiện đại và thông lệ quốc tế. Trong đó, Viện sẽ tập trung vào việc xây dựng Thư viện điện tử, Phòng đọc mở, Cơ sở dữ liệu nghiên cứu cơ bản về Trung Quốc học, hệ thống quản lí hành chính và phục vụ nghiên cứu khoa học.
4. Về hợp tác quốc tế
Viện tiếp tục duy trì mối quan hệ đã có với các tổ chức và đơn vị nghiên cứu Trung Quốc ở các nước; đồng thời mở rộng thêm các đối tác khác. Hướng ưu tiên trong hợp tác quốc tế vẫn là các cơ sở nghiên cứu ở Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Xingapo, Hàn Quốc, Mỹ...; cố gắng xây dựng một số đối tác hợp tác mang tính chiến được để vừa tăng thêm nguồn lực cho công tác nghiên cứu, vừa góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ trẻ tâm huyết với nghề và có triển vọng trong nghiên cứu khoa học về Trung Quốc.
5. Về hoạt động xã hội
Viện tiếp tục duy trì mối quan hệ tốt với các địa phương biên giới, các ban ngành ở Trung ương. Trong đó sẽ gia hạn Thỏa thuận hợp tác về tuyên truyền biển đảo với Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân và kết nghĩa với xã biên giới Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra, Viện sẽ tiến hành mở rộng hoạt động kết nghĩa hoặc hợp tác với một số doanh nghiệp và địa phương khác, nhằm tạo sự kết nối giữa nghiên cứu cơ bản với thực tiễn, từ đó tăng thêm hiệu quả nghiên cứu khoa học, đồng thời tạo thêm động lực làm việc mới cho đội ngũ cán bộ của Viện.
Tóm lại, qua 20 năm xây dựng và phát triển, nhờ sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam cùng các cơ quan ban ngành ở Trung ương và địa phương, sự nỗ lực của tập thể cán bộ viên chức các thế hệ khác nhau, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Nhằm ghi nhận những đóng góp của Viện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Viện đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Lao động hạng Ba năm 2003, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2005 cùng nhiều phần thưởng khác cho các cá nhân: Huân chương Độc lập hạng Ba cho PGS. Văn Trọng, Huân chương Lao động hạng Nhì cho PGS. Nguyễn Huy Quý và GS.TS. Đỗ Tiến Sâm v.v…
Phát huy những thành tích đã đạt được, với tuổi 20 đầy sức sống – Viện sẽ tiếp tục cố gắng đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; đồng thời tích cực vun đắp cho tình hữu nghị Việt - Trung - “tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước”, để mối tình hữu nghị đó “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn.
Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN