Viện Tâm lý
  • VASS-70 năm (1953-2023)

Viện Tâm lý

10/07/2023

 I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ

Viện Tâm lý học chính thức được thành lập vào tháng 5/1993, nhưng sự chuẩn bị để ra đời bắt đầu từ năm 1970. Quá trình thành lập Viện Tâm lý học qua các giai đoạn sau :

1. Lịch sử hình thành và phát triển

1) Phòng Tâm lý học thuộc Viện Triết học

Từ đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, được sự quan tâm của lãnh đạo Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam trước hết là GS.VS. Nguyễn Khánh Toàn, GS. Vũ Khiêu, GS. Phạm Như Cương, Phòng Tâm lý học đã được thành lập tại Viện Triết học. Những cán bộ đầu tiên về làm việc tại Phòng Tâm lý học là những người tốt nghiệp ngành Tâm lý học tại các Trường Đại học Lêningrat, Kiev, Riadan (Liên Xô). 

Nhiệm vụ của phòng là: a/ Nghiên cứu những vấn đề lý luận của tâm lý học mác xít, những thành tựu của tâm lý học nước ngoài để từng bước hình thành cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học ở nước ta; b/ Nghiên cứu những vấn đề tâm lý nảy sinh trong thực tiễn đời sống xã hội, cùng các phòng ban khác của Viện Triết học đề xuất những luận cứ khoa học góp phần hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong quá trình hoạt động, Phòng Tâm lý học đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận sau: Xuất bản cuốn sách Chủ nghĩa Mác - Lê nin – Cơ sở phương pháp luận của tâm lý học (1977), tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Hoạt động và giao tiếp”, với sự tham gia của đông đảo những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học ở Hà Nội lúc bấy giờ.

2) Phòng Tâm lý học xã hội thuộc Viện Xã hội học

Từ năm 1985 -1989, Phòng Tâm lý học xã hội đã được thành lập tại Viện Xã hội học, trực thuộc UBKHXH Việt Nam. TS. Đỗ Long, Phó Viện trưởng Viện Xã hội học kiêm trưởng phòng Tâm lý học xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của phòng là nghiên cứu những khía cạnh tâm lý xã hội trong thực tiễn của đời sống xã hội.

Phòng đã thực hiện được một số đề tài cụ thể sau: Thái độ và hành vi trong lao động của xã viên HTX nông nghiệp, Những khía cạnh tâm lý xã hội của vấn đề nhà ở.

3) Ban Tâm lý học xã hội

Tháng 2/1990, Chủ nhiệm UBKHXH Việt Nam, GS. Phạm Như Cương đã ký Quyết định số 32 QĐ/TC-CB về việc thành lập Ban Tâm lý học xã hội, trực thuộc UBKHXH Việt Nam.

Đây là một cái mốc quan trọng đối với quá trình hình thành Viện Tâm lý học. Từ chỗ là Phòng trực thuộc Viện Triết học, sau đó là Viện Xã hội học đến chỗ là một đơn vị nghiên cứu độc lập trực thuộc UBKHXH Việt Nam.

Ban Tâm lý học xã hội đã tiến hành một số đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Về lý luận đã biên soạn và xuất bản các cuốn sách: Sổ tay tâm lý học (1990), Giám đốc – Những yếu tố của thành công, Nxb.KHXH, 1990. Ban đã thực hiện tốt một đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Diễn biến tâm lý nông dân dưới tác động của NQ 10/ Bộ chính trị.

4) Trung tâm Tâm lý học xã hội

Quá trình hình thành Viện Tâm lý học được đánh dấu bằng một mốc mới. Ngày 31/12/1991, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Duy Quý đã ký Quyết định số 508/KHXH-TC-ĐT về việc thành lập Trung tâm Tâm lý học xã hội, trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm Tâm lý học xã hội được mở rộng và nâng cao hơn các tổ chức trước đó.

Trong thời gian này, Trung tâm Tâm lý học xã hội đã thực hiện đề tài nghiên cứu: Tâm lý cộng đồng làng và di sản. Kết quả nghiên cứu của đề tài được xuất bản thành sách.

5) Viện Tâm lý học

Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, cũng như trưởng thành trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Viện Tâm lý học đã ra đời theo Nghị định 23/CP của Chính phủ do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 22/5/1993 về việc thành lập Trung tâm KHXH & NVQG.

Sự ra đời của Viện Tâm lý học đã đánh dấu một chặng đường phát triển cả về hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tâm lý học và sự phát triển về cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ nghiên cứu.

Viện Tâm lý học là Trung tâm nghiên cứu đầu ngành về Tâm lý học của đất nước, là cơ sở đào tạo sau đại học về tâm lý học. Hiện nay, Viện Tâm lý học có 6 phòng nghiên cứu khoa học và 4 phòng phục vụ nghiên cứu. Đó là, 1/ Phòng Tâm lý học đại cương; 2/ Phòng Tâm lý học xã hội; 3/ Phòng Tâm lý học nhân cách; 4/ Phòng Tâm lý học lứa tuổi; 5/ Phòng Tâm lý học kinh tế; 6/ Phòng Thực nghiệm và Ứng dụng tâm lý học; 7/ Phòng Tạp chí Tâm lý học; 8/ Phòng Hành chính - Tổng hợp; 9/ Phòng Tổ chức - Đào tạo; 10/ Phòng Thông tin - Thư viện.

2. Chức năng và nhiệm vụ

Viện Tâm lý học có các chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau:

- Nghiên cứu cơ bản nhằm góp phần phát triển lý luận của tâm lý học ở nước ta, cung cấp những căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Tổ chức nghiên cứu thực tiễn về các vấn đề tâm lý, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: Lao động sản xuất, tổ chức quản lý, giáo dục đào tạo, tư tưởng văn hoá … góp phần đắc lực vào việc hình thành các kiểu nhân cách mới của con người Việt Nam.

- Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học về tâm lý học.

II. NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU

Trong quá trình hình thành và phát triển, Viện đã triển khai một số hướng nghiên cứu và đã đạt được một số kết quả nhất định.

1. Tâm lý học xã hội

Tâm lý học xã hội là một hướng nghiên cứu trọng tâm và được tiến hành sớm trong quá trình phát triển của Viện. Điều này xuất phát từ những lý do cơ bản sau:

Thứ nhất, cũng như tâm lý học nói chung, phân ngành tâm lý học xã hội nước ta còn rất mới mẻ, các vấn đề lý luận cơ bản của nó chưa được xây dựng.

Thứ hai, những biến đổi về kinh tế - xã hội do công cuộc đổi mới đất nước đem lại đã tạo nên những thay đổi lớn và đa dạng về tâm lý của các tầng lớp dân cư. Những thay đổi tâm lý này tác động đến đời sống xã hội, trước hết là tác động đến nhận thức, tình cảm và hành vi của con người theo cả 2 chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Việc chỉ ra các yếu tố tâm lý xã hội có ảnh hưởng tích cực và những yếu tố tâm lý xã hội có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội là nhiệm vụ cấp bách và cơ bản của Viện Tâm lý học.

Trong những năm qua, hướng nghiên cứu về tâm lý học xã hội của Viện đã đạt được một số kết quả sau:

- Về nghiên cứu lý luận: Phân ngành tâm lý học xã hội ngày càng được thừa nhận trong nghiên cứu và đào tạo về tâm lý học ở nước ta. Nó đã được đưa vào giảng dạy như một bộ môn tâm lý cơ bản không chỉ ở các khoa tâm lý học của một số trường đại học, mà còn ở hầu hết các trường đại học, cao đẳng thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn. Do vậy, việc biên soạn những vấn đề lý luận cơ bản của tâm lý xã hội trong những năm qua đã trở nên rất bức xúc.

Nắm vững được nhu cầu này của xã hội, ngay từ khi thành lập Ban Tâm lý học xã hội (1989), các cán bộ của Ban đã tập trung giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản này.

Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu của tâm lý học xã hội Xô Viết, tâm lý học phương Tây và các tài liệu tham khảo ở trong nước, Viện Tâm lý học đã biên soạn một số cuốn sách về Tâm lý học xã hội như: Tâm lý học xã hội – Những vấn đề lý luận (1991), Tâm lý học xã hội – Những lĩnh vực ứng dụng (1991), Tâm lý học xã hội với quản lý doanh nghiệp (1995), Tâm lý học xã hội với quản lý (1995), Hồ Chí Minh – Những vấn đề tâm lý học (1998), Tâm lý học xã hội (2000), Các phương pháp của tâm lý học xã hội (1996) v.v…

Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản của tâm lý học xã hội như: Xác định đối tượng, phương pháp và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học xã hội, các hiện tượng tâm lý của các nhóm xã hội, các cơ chế, quy luật tâm lý tác động trong quan hệ liên nhân cách và trong đời sống xã hội … Những kết quả nghiên cứu lý luận này đã góp phần có ý nghĩa không chỉ vào việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội mà còn trong giảng dạy môn tâm lý học xã hội ở bậc đại học và sau đại học trong các trường đại học và học viện ở nước ta. Những nghiên cứu lý luận của Viện Tâm lý học đã góp phần xây dựng những vấn đề lý luận cơ bản của phân ngành tâm lý học xã hội ở nước ta hiện nay.

- Về nghiên cứu thực tiễn: Trong những năm qua Viện Tâm lý học đã tiến hành một số đề tài nghiên cứu về những biến đổi tâm lý xã hội của các tầng lớp cư dân trong khuôn khổ của các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Viện. Các nghiên cứu này tập trung giải quyết một số nội dung sau:

+  Nghiên cứu những biến động tâm lý của người nông dân nước ta trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Nông dân là nhóm xã hội đông đảo nhất ở nước ta, hiện nay vẫn chiếm trên 70% dân số cả nước. Do vậy, sự biến đổi tâm lý của nhóm xã hội này thể hiện những biến đổi cơ bản về tâm lý của các tầng lớp dân cư ở nước ta. Một số đề tài đã được Viện Tâm lý học tiến hành theo hướng này như: Diễn biến tâm lý của nông dân dưới tác động của NQ 10/Bộ Chính trị; Dự án điều tra cơ bản về tâm lý nông dân trong giai đoạn chuyển sang cơ chế thị trường; Sự hình thành tư duy sản xuất hàng hoá của các dân tộc thiểu số phía Bắc.

Kết quả nghiên cứu của các đề tài này cho thấy sự chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã và đang làm biến đổi rõ rệt tâm lý người nông dân. Đó là sự thay đổi nhận thức của người nông dân về cách thức sản xuất, về vai trò của khoa học kỹ thuật, về chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng. Đó là bước đầu thay đổi tư duy sản xuất. Từ tư duy tiểu nông manh mún, nhiều hộ gia đình đã bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hoá với quy mô khá lớn (mô hình sản xuất trang trại gia đình). Đó là sự biến đổi về cảm xúc. Đã có sự biến đổi nhất định trong quan hệ liên nhân cách trong làng xóm. Tình cảm “tình làng, nghĩa xóm” đậm đà ngày xưa đã có những thay đổi. Quan hệ này ngày nay đã bắt đầu mang mầu sắc của vật chất và tính cá nhân hơn là sự thuần khiết tình cảm và tính cộng đồng trước đây.

Kết quả nghiên cứu còn cho thấy tâm lý tiểu nông của người nông dân – Cái tâm lý được hình thành qua nhiều thế hệ ăn sâu vào nếp nghĩ, thói quen của con người không dễ dàng thay đổi. Tính manh mún, nhỏ lẻ, chỉ nhìn thấy những lợi ích trước mắt, tư tưởng ăn xổi ở thì, tính tuỳ tiện… vẫn còn biểu hiện khá rõ nét trong cách thức suy nghĩ và hành vi của người nông dân. Để thay đổi được tâm lý này chắc chắn là một quá trình lâu dài và gian khổ.

+ Nghiên cứu sự biến đổi tâm lý của khu vực đô thị. Dân cư khu vực đô thị tuy chỉ chiếm tỉ lệ không lớn trong dân số nước ta nhưng lại có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi họ là nhóm cư dân năng động hơn, nhạy bén hơn đối với cơ chế mới. Sự phân tầng xã hội cũng được thể hiện rõ nét nhất của khu vực này.

Theo hướng nghiên cứu này, Viện Tâm lý học đã tiến hành một số đề tài nghiên cứu như: Biến đổi tâm lý của các tầng lớp cư dân đô thị trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường; Diễn biến tâm lý của cán bộ công chức nhà nước; Động cơ thành đạt của các cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có những biến đổi lớn về nhận thức của các tầng lớp cư dân đô thị, trong đó có nhận thức về vấn đề giàu - nghèo, về làm giàu, kinh doanh, có sự thay đổi về định hướng giá trị. Sự sơ cứng, thụ động của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dần dần nhường chỗ cho sự năng động nhạy bén là một biểu hiện về thay đổi tâm lý của người dân. Nếu so với khu vực nông thôn thì sự biến đổi tâm lý ở khu vực đô thị diễn ra ở mức độ cao hơn, đa dạng, phong phú hơn. Sự thích nghi của cư dân đô thị với cơ chế thị trường là biểu hiện khác tiêu biểu cho sự biến đổi tâm lý của người dân. Trong sự thích nghi này thì sự thích nghi của thanh thiếu niên là rõ nét hơn. Sự thích nghi của tuổi trẻ không chỉ thể hiện trong sản xuất, kinh doanh mà cả trong lối sống và tiếp nhận các giá trị văn hoá từ bên ngoài.

+ Nghiên cứu về các hành vi lệch chuẩn. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, hệ thống luật pháp của chúng ta còn trong giai đoạn đổi mới và hoàn thiện. Do vậy, các hành vi lệch chuẩn có điều kiện nảy sinh và phát triển. Trong đời sống xã hội, các hành vi bạo lực, hành vi phạm pháp gia tăng, đặc biệt trong thanh thiếu niên.

Kết quả nghiên cứu của hầu hết các đề tài đều cho thấy nhiều người dân băn khoăn lo lắng về tình trạng an ninh trật tự (cả ở khu vực đô thị, lẫn nông thôn). Tình trạng thanh thiếu niên nghiện ma tuý đã trở thành nỗi lo của các gia đình, nhà trường và cả xã hội. Viện tổ chức nghiên cứu đề tài: Chân dung nhân cách của thanh niên nghiện ma tuý, bước đầu đã chỉ ra được những nguyên nhân tâm lý, những đặc điểm nhân cách của thanh niên nghiện ma tuý, việc cai nghiện ma tuý sẽ không hiệu quả nếu chỉ thuần tuý sử dụng các biện pháp hành chính mà không quan tâm đến các biện pháp tâm lý.

+ Nghiên cứu những khía cạnh tâm lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là lĩnh vực nghiên cứu rất mới mẻ ở nước ta, vì hoạt động kinh doanh chỉ thực sự phát triển khi chúng ta chuyển sang cơ chế mới. Các nghiên cứu của Viện đã tập trung tìm hiểu các vấn đề như: Nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, những phẩm chất tâm lý cần thiết của người quản lý trong tổ chức hoạt động kinh doanh, những khía cạnh tâm lý của quảng cáo, tiếp cận thị trường và dịch vụ.

+ Nghiên cứu về quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân. Hướng nghiên cứu này đã chỉ ra trong đời sống làng xã tồn tại mối quan hệ tương hỗ giữa cái cộng đồng và cái cá nhân thông qua hoạt động lao động sản xuất và giao tiếp hàng ngày.

Trong quan hệ cộng đồng và cá nhân có sự hiện hữu của “cái tôi” - Cái tôi trong mỗi cá thể và “cái tôi” trong các tập thể. “Cái tôi” của người Việt Nam thường xuất hiện chậm, nó mảnh mai, yếu ớt, nhỏ bé và bị che khuất bởi cái cộng đồng.

Những kết quả nghiên cứu này đã góp phần nhất định vào việc xây dựng cơ sở lý luận cho một phân ngành tâm lý học còn mới mẻ ở nước ta – Tâm lý học kinh doanh.

2. Tâm lý học gia đình và lứa tuổi

Cùng với việc biến đổi về kinh tế - xã hội của đất nước, sự biến đổi về mặt tâm lý của gia đình cũng diễn ra khá rõ nét. Việc nghiên cứu sự biến đổi tâm lý của gia đình là một nhiệm vụ quan trọng của khoa học tâm lý. Điều này xuất phát từ vai trò to lớn của gia đình trong đời sống xã hội, đặc biệt trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ em và đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội.

Nghiên cứu những khía cạnh tâm lý của gia đình và tâm lý lứa tuổi tập trung vào một số vấn đề lớn sau: Sự xung đột thế hệ trong gia đình; Sự giáo dục của gia đình và các hành vi lệch chuẩn của trẻ; ảnh hưởng của ly hôn đến tổn thương tâm lý của trẻ. Đặc biệt ngày càng có nhiều nghiên cứu sinh của Viện chọn đề tài gia đình làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.

Kết quả nghiên cứu về tâm lý gia đình của Viện Tâm lý học trong những năm qua đã đi đến một số nhận định đáng lưu ý sau:

- Mối quan hệ gia đình lỏng lẻo, thiếu sự chia sẻ, thiếu gắn kết giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ thiếu hiểu biết con cái,… là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi nghiện hút của trẻ.

- Những đứa trẻ trong gia đình có bố mẹ ly hôn tồn tại nhiều mức độ tổn thương tâm lý khác nhau. Các tổn thương tâm lý này ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ, trước hết là sự đánh giá cái tôi của trẻ. Sự tổn thương tâm lý của trẻ thể hiện về tổn thương nhận thức, tình cảm và tổn thương hành vi.

- Nghiên cứu về xung đột thế hệ trong gia đình cho thấy đa số các bậc cha mẹ và con cái trong gia đình có sự xung đột. Sự xung đột này khá đa dạng (xung đột về nhận thức, quan niệm, định hướng giá trị, xung đột về thưởng thức các nhu cầu tinh thần…). Trong số các xung đột trên thì xung đột thể hiện rõ nét nhất là xung đột về thói quan sinh hoạt, xung đột về thưởng thức âm nhạc, phim ảnh và cách thức ăn mặc của trẻ.

3. Tâm lý học quản lý

Trong những năm gần đây, một phân ngành tâm lý học mới được xã hội, những người nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học quan tâm là tâm lý học quản lý.

Lĩnh vực tâm lý này trở nên bức xúc, vì sự chuyển đổi cơ chế quản lý đã đặt ra trước những người quản lý những thay đổi lớn về mặt tâm lý. Đó là: Thay đổi về nhận thức. Trong cơ chế thị trường, những người quản lý đặc biệt là quản lý doanh nghiệp cần sự thay đổi lối tư duy manh mún của người tiểu nông để tiến tới lối tư duy của người sản xuất hàng hoá.

Trong cơ chế mới, đòi hỏi những người quản lý cần phải có những phẩm chất tâm lý mới về năng lực tổ chức, trước hết là sự năng động, nhạy bén, khả năng thuyết phục và kích thích người lao động, óc sáng tạo v.v…

Trong những năm qua, Viện Tâm lý học đã thực hiện một số đề tài nghiên cứu về tâm lý học quản lý cả từ góc độ lý luận lẫn thực tiễn. Các đề tài đã tập trung vào một số vấn đề sau:

- Những đặc điểm tâm lý của đối tượng quản lý: Đặc điểm khí chất, năng lực, tính cách… Sự ảnh hưởng của các đặc điểm tâm lý này đến hiệu quả làm việc của người lao động trong tập thể. Người lãnh đạo cần vận dụng các đặc điểm tâm lý của người lao động trong quá trình tổ chức hoạt động quản lý như thế nào.

- Những đặc điểm tâm lý xã hội của tập thể lao động. Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý hiện nay đã làm cho tập thể lao động xuất hiện một số đặc điểm tâm lý mới. Trong hoạt động quản lý của mình, người lãnh đạo cần am hiểu những đặc điểm tâm lý xã hội của tập thể để thuyết phục, khuyến khích và tập hợp các thành viên thực hiện các mục đích và nhiệm vụ chung của tập thể. Khi tổ chức hoạt động của tập thể, người lãnh đạo cần xây dựng ở các thành viên ý thức và trách nhiệm với tập thể, xây dựng bầu không khí tâm lý đoàn kết, thân mật, giữa các thành viên có sự cố kết cao.

Tìm hiểu năng lực tổ chức của người lãnh đạo. Hiệu quả hoạt động của tập thể phụ thuộc và quyết định bởi năng lực tổ chức của người lãnh đạo. Để có được năng lực tổ chức tốt đòi hỏi người lãnh đạo phải có những phẩm chất cần thiết. Một người lãnh đạo có uy tín phải là người có năng lực tổ chức tốt, có chuyên môn giỏi, biết sống và hy sinh cho tập thể của mình.

- Một vấn đề cơ bản khác cũng được quan tâm trong các nghiên cứu của Viện là giao tiếp giữa người lãnh đạo và những người bị lãnh đạo. Để tập hợp được các thành viên của tập thể, người lãnh đạo cần phải biết đánh giá, khen thưởng, động viên chính xác, kịp thời, biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những băn khoăn, thắc mắc của người dưới quyền.

Giao tiếp giữa người lãnh đạo và người dưới quyền là mối quan hệ hai chiều, tương hỗ. Điều này khác với cơ chế bao cấp là những người cấp dưới chỉ biết chấp hành, thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên một cách sơ cứng và thụ động; sự quan liêu, độc đoán đã trở thành một thói quen, một phong cách quản lý của những người lãnh đạo.

- Một vấn đề lý luận mới cũng được quan tâm nghiên cứu về tâm lý học quản lý là vấn đề ê kíp trong lãnh đạo. Việc nghiên cứu này trở nên cần thiết, vì trong xã hội có nhiều người hiểu không đúng về bản chất của khái niệm ê kíp. Họ cho rằng, đó là sự hợp tác có tính cánh hẩu, phe cánh của một số người trong tổ chức. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ê kíp là một loại nhóm nhỏ rất cần thiết trong lãnh đạo tập thể nói riêng và trong tổ chức nói chung. Vì, ê kíp là một nhóm nhỏ, ở đó, giữa các thành viên có sự tương hợp tâm lý cao và phối hợp hành động chặt chẽ. Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra những dấu hiệu tâm lý cơ bản của ê kíp lãnh đạo, quá trình hình thành ê kíp lãnh đạo… Có thể nói, lần đầu tiên những vấn đề lý luận cơ bản của ê kíp lãnh đạo đã được trình bày từ góc độ khoa học tâm lý ở nước ta.

4. Tâm lý học dân tộc và tôn giáo

Trong những năm gần đây, vấn đề dân tộc và tôn giáo đã trở thành những vấn đề rất bức xúc ở nhiều quốc gia trên thế giới, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội. Các xung đột sắc tộc và tôn giáo đã dẫn đến sự mất ổn định chính trị - xã hội của nhiều quốc gia. Ở nước ta hai vấn đề này đã và đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy, hai vấn đề dân tộc và tôn giáo được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.

Từ góc độ của khoa học tâm lý, Viện Tâm lý học đã tiến hành một số nghiên cứu lý luận và thực tiễn về dân tộc và tôn giáo. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã bước đầu xây dựng cơ sở lý luận cơ bản của hai phân ngành tâm lý học mới mẻ này. Cụ thể là:

- Về tâm lý học dân tộc đã xây dựng cơ sở lý luận như: Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học dân tộc, vấn đề ý thức, tình cảm và tính cách dân tộc, tri giác, giao tiếp và tiếp biến văn hoá giữa các dân tộc. Phân tích sự ảnh hưởng tích cực và hạn chế của các yếu tố tâm lý dân tộc đến sự phát triển kinh tế, văn hoá của các dân tộc nói riêng và các khu vực nói chung.

- Về tâm lý học tôn giáo tập trung giải quyết các vấn đề: Niềm tin, tình cảm tôn giáo, sự sùng bái tôn giáo và nhân cách tôn giáo. Điều quan trọng là, thông qua lăng kính tâm lý học, bản chất của niềm tin tôn giáo, động cơ của các hành vi tôn giáo đã được lý giải: Tại sao tôn giáo lại tồn tại dai dẳng và bền chắc trong đời sống xã hội; tại sao các tín đồ lại sẵn sàng hy sinh cho niềm tin tôn giáo của mình (tinh thần “tử vì đạo”)?

Kết quả nghiên cứu về tâm lý học dân tộc và tâm lý học tôn giáo đã trở thành cơ sở cho việc giảng dạy môn tâm lý học và tâm lý học tôn giáo ở nhiều trường đại học của nước ta hiện nay.

5. Tư vấn và trị liệu tâm lý

Đây là hướng nghiên cứu mới của Viện Tâm lý học, song nó đang hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Bởi lẽ, trong đời sống xã hội hiện nay sự biến đổi về kinh tế - xã hội đã dẫn đến nhiều biến đổi tâm lý của người dân, trong đó có những biến đổi tâm lý theo chiều hướng tiêu cực. Hiện tượng stress (căng thẳng thần kinh), rối nhiễu hành vi, hành vi lệch chuẩn… có xu  hướng ngày càng tăng ở tất cả các lứa tuổi, đặc biệt là ở thanh thiếu niên. Do vậy, nhu cầu tư vấn tâm lý và trị liệu tâm lý đã trở thành nhu cầu lớn của nhân dân. Xuất phát từ đòi hỏi này của xã hội, Viện Tâm lý học sẽ và đang tiến hành thành lập Trung tâm Tư vấn và Trị liệu tâm lý. Việc thực hiện hướng nghiên cứu này thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Tổ chức đào tạo, tập huấn cán bộ về kỹ năng tư vấn và trị liệu. Viện Tâm lý học đã kết hợp với Trường Tâm lý học thực hành Paris tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng về tư vấn và trị liệu tâm lý cho các cán bộ của Viện trong mấy năm gần đây. Ngoài ra, Viện còn mời thêm một số nhà tâm lý học của Mỹ, Úc, Singapore đến trao đổi về các vấn đề này.

- Bước đầu chữa trị một số ca rối nhiễu tâm lý và tư vấn một số vấn đề tâm lý mà khách hàng yêu cầu. Chính qua thực tiễn hoạt động này, mà kỹ năng thực hành của các cán bộ tăng lên.

- Kết hợp với bệnh viện Đống Đa, Bệnh viện Bạch Mai, Viện Sức khoẻ tâm thần TW… tiến hành trị liệu tâm lý cho nhiều ca đạt kết quả tốt. Một số cán bộ của Viện tham gia tư vấn tâm lý thông qua dịch vụ điện thoại 1080 đạt kết quả khả quan và bước đầu tích luỹ được các kinh nghiệm tư vấn.

6. Tạp chí Tâm lý học

Từ năm 1996, Tạp chí Tâm lý học của Viện đã chính thức ra mắt bạn đọc. Đây là Tạp chí chuyên ngành duy nhất của giới tâm lý học nước nhà, là cơ quan ngôn luận không chỉ của Viện Tâm lý học, mà là của chung giới tâm lý học Việt Nam. Tạp chí đã đăng tải các kết quả nghiên cứu lý luận, các thành tựu nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng tâm lý học của rất nhiều tác giả trong và ngoài Viện; đã giới thiệu các thành tựu về lý thuyết, về phương pháp, về sự hình thành và phát triển tâm lý học của nhiều nước trên thế giới hiện nay. Từ 4 số/ năm, Tạp chí đã xuất bản 6 số, tiến đến 9 số và hiện nay là 12 số/năm. Tạp chí được các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, NCS, sinh viên tâm lý học đánh giá tốt, cho đó là tài liệu tham khảo bổ ích cho hoạt động của mình do các chuyên mục ngày càng đa dạng, đề tài ngày càng phong phú, chất lượng ngày một nâng cao.

 Đánh giá chung

1. Quá trình xây dựng Viện Tâm lý học là quá trình phát triển về tổ chức. Những cán bộ đầu tiên được tập hợp lại để hình thành Ban Tâm lý học xã hội là những người được đào tạo cho hoạt động nghiên cứu ở các Viện Triết học, Viện Xã hội học. Tất cả cán bộ trẻ được tuyển chọn cho Ban Tâm  lý học xã hội đều đã tốt nghiệp các Khoa Tâm lý học của các Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva, Lêningrát, Rostov trên Sông Đông, Tasken, Budapest, Đại học sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dù ít về số lượng, non trẻ về tuổi đời, nhưng tất cả đã có sự thống nhất cao về định hướng giá trị. Đó là nghiên cứu tâm lý học để phục vụ cho sự phát triển của đất nước, của con người.

2. Từ sự thống nhất về định hướng giá trị đã đưa đến một sự đoàn kết nhất trí trong cơ quan giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa người trực tiếp làm công tác nghiên cứu và người gián tiếp phục vụ nghiên cứu, giữa người quản lý và cấp dưới, giữa các đồng chí đảng viên trong chi bộ với nhau, giữa họ với toàn thể anh chị em trong cơ quan. Không khí đoàn kết bao trùm lên mọi hoạt động và sinh hoạt của Viện, chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau khắc phục khó khăn, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu dù đó là đề tài chung của toàn Viện, của từng phòng hay của từng cá nhân. Hội nghị chuyên đề, hội thảo khoa học, nghiệm thu đề tài, đi nghiên cứu thực tế… tất cả đều được thực hiện với tinh thần đoàn kết thân ái, tương trợ giúp đỡ, đồng cam cộng khổ.

3. Thống nhất định hướng giá trị và đoàn kết nhất trí là những cơ sở đầu tiên và bao giờ cũng là những bảo đảm cần thiết để tiến hành mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động nghiên cứu khoa học. Dù còn non trẻ về tuổi nghề, về thâm niên công tác, hiểu biết còn hạn chế về thực tiễn cuộc sống, dù ít ỏi về số lượng và non yếu về chất lượng, nhưng ngay sau khi vừa thành lập, các phương hướng nghiên cứu đã được xác định, các đề tài nghiên cứu đã được triển khai. Để bù đắp cho những thiếu hụt trên, việc tổ chức nghiên cứu đã được tính toán cụ thể. Lúc đầu một đề tài đều do toàn Viện thực hiện, dù đó là nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu thực tiễn, là nghiên cứu lý luận hay nghiên cứu ứng dụng, là phổ biến tri thức hay quảng bá thông tin… đều do mọi người trong cơ quan cùng làm. Đương nhiên, công việc này đòi hỏi nhiều công sức của những người đi trước, người nhiều kinh nghiệm giúp người ít kinh nghiệm, người chắc tay nghề giúp người mới tập sự. Chỉ sau này khi các đề tài mang tính chuyên sâu hơn, các cán bộ trưởng thành hơn, thì đề tài mới được phân cho các phòng, các cá nhân thực hiện.

4. Sự phát triển của Viện Tâm lý học trong hơn hai mươi năm qua gắn liền với quá trình phấn đấu liên tục của cán bộ nghiên cứu trong Viện. Nhờ tinh thần say sưa học tập về chuyên môn, về ngoại ngữ, về phương pháp và kỹ năng nghiên cứu trong 3 lĩnh vực lý luận, thực nghiệm và ứng dụng, cán bộ của Viện đã có sự trưởng thành vượt bậc. Tất cả các đề tài đều ghi nhận công sức và đóng góp xứng đáng của anh chị em. Học tập tốt để nghiên cứu tốt, học tập qua sách vở, qua thực tiễn, qua kinh nghiệm của những người đi trước và kết quả học tập đã thể hiện rất rõ trong các luận án và luận văn đã bảo vệ, đã công bố trong các công trình nghiên cứu chung của Viện, của phòng và của từng cá nhân. Từ chỗ chỉ có một tiến sĩ, đến nay, Viện đã có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu đủ khả năng thực hiện các đề tài một cách độc lập với  2 GS.TS, 2 PGS.TS, 9 TS và 3 Ths và 12 NCS đang làm luận án tiến sĩ và thạc sĩ tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Với đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo tốt, có tâm huyết, cống hiến hết mình cho khoa học, Viện Tâm lý học có thể thực hiện các đề tài nghiên cứu ngày một chuyên sâu hơn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn hơn.

5. Sự kết hợp, phối hợp thể hiện rõ trong quan hệ giữa các bộ phận trong Viện, giữa các Viện trong Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, giữa Viện Tâm lý học với các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học ở Hà Nội và các thành phố khác, giữa Viện Tâm lý học với các tổ chức quốc tế, với các quỹ của Nhật Bản, với các nhà tâm lý học của Liên Xô và Nga, Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Singapore, Canada, Úc, Đài Loan… Hoạt động hợp tác quốc tế đã có tác dụng không nhỏ trong công tác đào tạo cán bộ nói riêng, trong sự phát triển của Viện nói chung. Thể hiện rõ nhất của sự phối hợp và kết hợp này là sự cộng tác nhiệt tình qua hoạt động của tạp chí Tâm lý học. Rất nhiều bạn đồng nghiệp từ các vị lãnh đạo chủ chốt đại diện cho giới tâm lý học của nước nhà đến nghiên cứu sinh và sinh viên tâm lý học đã thường xuyên gửi bài, góp ý kiến xây dựng cho Tạp chí “Tâm lý học”. Không có sự phối hợp và kết hợp nói trên chắc chắn Viện sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tự khẳng định để phát triển của mình.

Hơn hai mươi năm qua kể từ khi thành lập Ban Tâm lý học xã hội trực thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam trước đây và ngày nay là Viện Tâm lý học, nhờ sự quan tâm và chỉ đạo của Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (trước đây là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Tâm lý học đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận với những đóng góp tích cực vào việc phát triển khoa học tâm lý của nước nhà, vào việc xác định những căn cứ lý luận làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Viện Tâm lý học đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng III. Đó chính là nguồn cổ vũ lớn lao khích lệ cán bộ nhân viên của Viện vững bước đi lên cùng với sự phát triển của đất nước.

III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN TÂM LÝ HỌC GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

1. Thực trạng phát triển của Viện Tâm lý học giai đoạn 2001 - 2012

1) Những thành tựu chủ yếu

a) Hoạt động nghiên cứu khoa học

Trong thập kỷ qua, Viện Tâm lý học đã tiến hành một số đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ và cấp cơ sở. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã cung cấp những luận cứ khoa học cho việc lý giải một số vấn đề xã hội của đất nước từ góc độ của khoa học tâm lý. Đó là các vấn đề cơ bản sau : Tâm lý của các dân tộc, trước hết là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ (Tư duy của các dân tộc, tính cách dân tộc, giao tiếp giữa các dân tộc, tri giác dân tộc, tiếp biến văn hoá của các dân tộc…); Những biến đổi tâm lý của người nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường (Thay đổi tư duy, lối sống, tâm trạng, sự thích ứng với việc thay đổi nghề, những trở ngại tâm lý của nông dân đối với việc thực hiện cơ chế thị trường…); Tâm lý của giai cấp công nhân (Việc làm thu nhập và những vấn đề tâm lý nảy sinh, tác phong, kỷ luật lao động, sự thích ứng với điều kiện sản xuất hiện đại, khía cạnh tâm lý của đình công, bãi công trong của công nhân trong các doanh nghiệp…); Tâm lý của trí thức (Động cơ làm việc, nhu cầu thăng tiến, tâm trạng, niềm tin của trí thức, khả năng thích ứng của trí thức đối với cuộc sống…)v.v…

 Từ kết quả nghiên cứu trên, Viện đã đề xuất các kiến nghị và giải pháp để giải quyết những vấn đề mà các nghiên cứu đặt ra nhằm phát huy các yếu tố tâm lý tích cực và hạn chế các yếu tố tâm lý tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Các hướng nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu đều cố gắng bám sát thực tiễn đời sống của đất nước, bám sát những vấn đề xã hội nảy sinh, những vấn đề tâm lý có tác động nhiều đối với sự phát triển của đất nước, hội nhập quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Viện đã tiến hành nhiều hoạt động mang tính ứng dụng như: Đào tạo kỹ năng sống cho các nhóm xã hội khác nhau, tư vấn và trị liệu tâm lý cho trẻ em, thanh thiếu niên có những rối nhiễu tâm lý, đào tạo ở bậc đại học và sau đại học chuyên ngành tâm lý học…

Trong những năm qua, Viện Tâm lý học luôn hoàn thành tốt các đề tài nghiên cứu được giao. Các đề tài đều hoàn thành trước thời hạn ghi trong hợp đồng, đạt kết quả khá hoặc xuất sắc. 

b) Hoạt động xây dựng cơ quan

Cùng với việc tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học, Viện đã tiến hành các hoạt động phát triển Viện về tổ chức như :

Phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu của Viện. Số lượng cán bộ nghiên cứu của viện tăng đáng kể trong những năm qua. Hầu hết các cán bộ nghiên cứu được khuyến khích và tạo điều kiện đi đào tạo trình độ sau đại học ở nước ngoài và trong nước. Đến nay, tất cả cán bộ nghiên cứu đều đã có trình độ tiến sĩ, thạc sỹ hoặc đang theo học chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sỹ ở trong và ngoài nước, không còn cán bộ có trình độ cử nhân. Đội ngũ cán bộ phục vụ nghiên cứu cũng được chú ý phát triển về số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ nghiên cứu khoa học. Cùng với việc đào tạo cán bộ về chuyên môn, Viện còn chú trọng đào tạo cán bộ về trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, công nghệ thông tin…

Thành lập các phòng nghiên cứu phù hợp với yêu cầu nghiên cứu của ngành tâm lý học. Chú trọng phát triển các phòng ứng dụng tâm lý học. Hiện nay, Viện có 3 phòng ứng dụng tâm lý học (Phòng Tâm lý học thực nghiệm, Phòng Tâm lý học ứng dụng, Phòng Tâm lý học lâm sàng).

Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế. Viện thường xuyên có các hoạt động trao đổi khoa học với một số tổ chức và trường đại học nước ngoài như: Mỹ, Nhật, Úc, Pháp, Anh… Tổ chức các đoàn cán bộ sang trao đổi khoa học với các nhà khoa học nước ngoài, mời các nhà khoa học nước ngoài đến Viện trao đổi khoa học, đào tạo kỹ năng và phương pháp nghiên cứu cho cán bộ của Viện.

Tăng cường phối hợp hoạt động giữa chính quyền, chi bộ với tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên để thực hiện các nhiệm vụ của Viện.

2) Một số hạn chế

Bên cạnh những thành tựu cơ bản trên, trong sự phát triển của Viện những năm qua vẫn còn một số hạn chế sau:

- Hoạt động nghiên cứu khoa học đôi khi chưa lý giải hết những vấn đề xã hội nảy sinh xét từ góc độ tâm lý học. Hoạt động nghiên cứu của Viện đôi khi chưa theo kịp sự diễn biến tâm lý phức tạp của đời sống xã hội trong điều kiện của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

- Sự kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng của Viện còn chưa tốt. Các nghiên cứu còn nặng về ứng dụng. Các nghiên cứu cơ bản nhằm hình thành những vấn đề lý luận tâm lý học một cách hệ thống và có tính chất mới mẻ còn hạn chế.

- Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào giải quyết các vấn đề xã hội chưa thật cao. Một số sản phẩm còn dừng lại ở mức xuất bản, công bố trên báo chí, chưa đưa vào giải quyếtt những vấn đề cụ thể của cuộc sống…

- Viện còn thiếu những cán bộ nghiên cứu ở tầm các chuyên gia. Sự phát triển hoạt động chuyên môn của các cán bộ nghiên cứu trẻ còn hạn chế.

2. Chiến lược phát triển của Viện Tâm lý học giai đoạn 2013-2020

1) Bối cảnh quốc tế và trong nước

a) Bối cảnh quốc tế

Việc nghiên cứu và phát triển ngành tâm lý học ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp về chính trị, kinh tế và văn hoá. Những biến động này vừa tác động có lợi, vừa tác động tiêu cực đến hoạt động nghiên cứu và phát triển của tâm lý học thế giới nói chung và tâm lý học Việt Nam nói riêng.

Do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nên hoạt động nghiên cứu và đào tạo của ngành tâm lý học gặp nhiều khó khăn, trong đó có những quốc gia có nền tâm lý học phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Nhật…

Việc tài trợ cho các dự án nghiên cứu, hội thảo quốc tế, trao đổi khoa học… về tâm lý học của các nước cho Việt Nam bị hạn chế rất nhiều.

b) Tình hình trong nước

Do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế Việt Nam nên việc cung cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo ngành tâm lý học trong nước cũng gặp khó khăn.

Vấn đề dân tộc và tôn giáo, cũng như các biến đổi xã hội khác của đất nước do tác động từ bên ngoài có những diễn biến phức tạp đòi hỏi nghiên cứu tâm lý học phải nhanh nhạy và bám sát thực tiễn nhiều hơn nữa.

Bên cạnh những khó khăn trên vẫn có nhiều thuận lợi, như sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với khoa học và công nghệ, sự quan tâm của Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đối với việc phát triển ngành tâm lý học nước nhà nói chung và đối với Viện Tâm lý học nói riêng.

c) Những yêu cầu mới đặt ra đối với Viện Tâm lý học

Bối cảnh quốc tế và trong nước đặt ra cho Viện Tâm lý học những nhiệm vụ và yêu cầu mới. Đó là :

- Nghiên cứu những vấn đề tâm lý nảy sinh của các tầng lớp cư dân trong đời sống xã hội, nhất là những vấn đề tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội, góp phần làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Từ kết quả nghiên cứu trong thời gian qua, xây dựng, phát triển những vấn đề lý luận cơ bản của tâm lý học Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay.

- Tâm lý học cần góp phần nhiều hơn nữa cho việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao của đất nước, đào tạo những kỹ năng sống cho các nhóm xã hội khác nhau.

- Nghiên cứu từ góc độ tâm lý học sự hòa nhập, xung đột và tiếp biến văn hóa ở nước ta hiện nay, góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp nhận những giá trị mới phù hợp.  

2) Quan điểm và mục tiêu phát triển

a. Quan điểm phát triển

Một là, vận dụng những quan điểm tâm lý học hiện đại, tiên tiến để giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối với ngành tâm lý học Việt Nam.

Hai là, những vấn đề nghiên cứu phải xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu phát triển của đất nước, đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế.

Ba là, phát huy năng lực cán bộ Viện Tâm lý học để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, bên cạnh đó cũng cần kết hợp với những chuyên gia có kinh nghiệm bên ngoài cùng thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

Bốn là, mở rộng dân chủ, đẩy mạnh đổi mới, phát huy tối đa nhân tố con người trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Năm là, hướng tới xây dựng một nền tâm lý học Việt Nam – Một nền tâm lý học phản ánh tâm lý của con người, đất nước Việt Nam, kế thừa được những tinh hoa của tâm lý học thế giới. Phát triển và xây dựng cơ sở lý luận cho những phân ngành tâm lý học mang tính đặc thù của Việt Nam như Tâm lý học văn hóa, Tâm lý học dân tộc, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học giao tiếp…

b. Mục tiêu chiến lược

Thứ nhất, phát triển Viện Tâm lý học trở thành một đơn vị nghiên cứu hàng đầu về nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu ứng dụng, tham mưu chính sách cũng như đào tạo nguồn nhân lực về khoa học tâm lý.

Thứ hai, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học của Viện Tâm lý học cả về số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, các nhà khoa học kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ khoa học quan trọng, tham gia có hiệu quả hợp tác và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, công bố những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cao để khẳng định vị thế, vai trò, uy tín và ảnh hưởng của Viện Tâm lý học với giới khoa học tâm lý trong và ngoài nước.

3) Định hướng và nhiệm vụ nghiên cứu

a) Định hướng nghiên cứu

Một là, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của tâm lý học nhằm xây dựng nền tâm lý học Việt Nam ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ góc độ tâm lý học, chú trọng nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các tầng lớp xã hội khác nhau nhằm đưa ra bức tranh chung về tâm lý của người Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Ba là, tăng cường công tác ứng dụng tâm lý học để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội. Phấn đấu đến năm 2020 đưa lĩnh vực khoa học này trở thành một lĩnh vực chủ chốt của Viện Tâm lý học.  

b) Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhằm phát triển nền tâm lý học Việt Nam theo kịp với nền tâm lý học thế giới.

- Giới thiệu những thành tựu nghiên cứu mới về lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học thế giới.

- Nghiên cứu những khía cạnh tâm lý liên quan đến con người, các nhóm xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Cụ thể là nghiên cứu tâm lý của các dân tộc, của các tầng lớp xã hội: Nông dân, công nhân, thanh niên, trí thức, doanh nhân…

- Nghiên cứu triển khai và ứng dụng các tri thức tâm lý học vào giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, nổi cộm trong đời sống xã hội.

- Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực tâm lý học, thực hiện đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

- Góp ý, phản biện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ tâm lý phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện Tâm lý học.

- Tổ chức thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học.

- Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong và ngoài nước.

3. Giải pháp và kiến nghị

1) Giải pháp

a) Quy hoạch về tổ chức của Viện Tâm lý học

Để phù hợp với yêu cầu phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện Tâm lý học mà Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã phê duyệt, Viện Tâm lý học sẽ thay đổi về cơ cấu tổ chức từ 14 phòng xuống còn 11 phòng như đề án. Sắp xếp lại nhân sự các phòng cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu và phù hợp với năng lực của các cá nhân.

Đến năm 2020, số cán bộ của Viện sẽ tăng từ 34 người hiện nay lên 40 người để đảm bảo mỗi phòng nghiên cứu có từ 4 người trở lên.

Quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý cấp Viện, cấp Phòng để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu.

b) Quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực khoa học của Viện

Bên cạnh việc quy hoạch và phát triển Viện về cơ cấu tổ chức, Viện sẽ tăng cường phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện. Phấn đấu đến năm 2020 các cán bộ nghiên cứu của Viện đều có trình độ tiến sĩ, nhiều cán bộ có học vị giáo sư và phó giáo sư. Viện có những hình thức động viên cán bộ đi đào tạo trình độ sau đại học ở trong và ngoài nước, đặc biệt là đào tạo ở nước ngoài.    Viện chú ý bồi dưỡng để trong thời gian tới có một số cán bộ nghiên cứu có trình độ cao – các chuyên gia về các phân ngành tâm lý học.

Bồi dưỡng các kiến thức về chính trị, quản lý nhà nước, tin học… cho cán bộ của Viện. Chú trọng bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ cơ quan.

Viện chú trọng bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ về chuyên môn và các kiến thức khác, phân công các cán bộ lâu năm có kinh nghiệm kèm cặp, bồi dưỡng cán bộ trẻ về phương pháp, kỹ năng và kinh nghiệm nghiên cứu.

Kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng. Cố gắng xây dựng những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu mới phù hợp với điều kiện của đất nước và con người Việt Nam. Viện Tâm lý học phấn đấu trở thành một trong những đơn vị đi đầu trong việc giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra từ góc độ tâm lý học.

Chú ý việc nâng cao thu nhập và đời sống của cán bộ trong Viện thông qua việc tìm kiếm các đề tài, dự án nghiên cứu trong và ngoài nước. Viện xem đây là điều kiện để cán bộ yên tâm công tác và có động lực phấn đấu về chuyên môn.

c) Phát triển các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu

Phấn đấu trong những năm tới các cán bộ nghiên cứu đều có máy tính tốt, mỗi phòng nghiên cứu có 2 máy in, có đầy đủ điều hòa nhiệt độ, quạt…

Phấn đấu đến năm 2015, Viện sẽ có một số phòng để tiến hành thực nghiệm tâm lý. Trong các phòng thực nghiệm có đầy đủ điều kiện để phục vụ cho thực nghiệm như: Máy camera, bàn ghế, máy tính, máy ảnh…

Xây dựng thư viện của Viện Tâm lý học thành thư viện chuyên ngành hàng đầu về tâm lý học ở nước ta. Để làm được điều này, Viện sẽ đề nghị với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho phép mở rộng diện tích của thư viện, trang bị thêm các trang thiết bị cần thiết cho thư viện như: Máy điều hòa nhiệt độ, máy hút ẩm, giá sách, đèn chiếu, tăng cường kinh phí cho việc bảo quản sách …

Xây dựng Tạp chí Tâm lý học trở thành tạp chí chuyên ngành hàng đầu ở Việt Nam, thành nơi công bố các kết quả nghiên cứu và là diễn đàn của giới tâm lý học Việt Nam.

Xây dựng và phát triển Website của Viện Tâm lý học. Website trở thành diễn đàn cho các cán bộ của Viện và các nhà tâm lý học ở các trường, viện nghiên cứu, các cơ quan trao đổi về học thuật. Website trở thành nơi quảng bá hình ảnh của Viện, thông báo những kết quả, thông tin nghiên cứu và đào tạo mới của Viện. Viện cố gắng đầu tư kinh phí phù hợp cho yêu cầu hoạt động của Website.

d) Tăng cường và mở rộng hoạt động hợp tác của Viện

Trong thời gian tới, Viện tăng cường hơn nữa hoạt động hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học, các cơ quan trong nước để phát triển và mở rộng hoạt động nghiên cứu của Viện theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa.

Viện cũng tăng cường hợp tác với các nhà tâm lý học nước ngoài nhằm trao đổi học thuật, tiếp thu các tri thức, phương pháp và kỹ năng nghiên cứu, đào tạo của tâm lý học hiện đại thế giới. Tăng cường hợp tác để các cán bộ của Viện có thêm các dự án nghiên cứu.

e) Đổi mới các quy định, cơ chế nhằm phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện

Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, các quy định của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và yêu cầu thực tế của cơ quan, Viện sẽ xây dựng, bổ sung một số quy định về hoạt động khoa học, quản lý nhân sự, quản lý tài chính của cơ quan để tạo điều kiện cho các hoạt động này đạt được hiệu quả cao, động viên cán bộ cơ quan tích cực tham gia vào các hoạt động của Viện.

Đổi mới sự lãnh đạo của Chi bộ đối với hoạt động nghiên cứu và xây dựng cơ quan để phát huy tiềm năng của các cá nhân, tập thể cơ quan. Thực hiện tốt hơn việc công khai minh bạch, dân chủ trong các hoạt động của Viện.

Kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả hơn giữa chi bộ, chính quyền, công đoàn và đoàn thanh niên trong Viện. Tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa các tổ chức trong Viện nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra.

2) Kiến nghị

Để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trên, Viện Tâm lý học trân trọng đề nghị Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam một số vấn đề sau:

- Tăng cường thêm biên chế cho Viện Tâm lý học trong thời gian tới, để Viện có thể đạt được yêu cầu về phát triển tổ chức của Viện.

- Mở rộng, thêm phòng cho thư viện của Viện để có nơi trưng bày sách, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục vụ độc giả và bảo quản sách.

- Tăng cường đầu tư mua sắm cho Viện để có thể trang bị cho các phòng nghiên cứu tốt hơn.

- Xem xét, từng bước sửa chữa, tu bổ nhà H1 hiện đang bị xuống cấp nặng để cải thiện điều kiện làm việc của cán bộ.

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

Các tin đã đưa ngày: