Viện Xã hội học
  • VASS-70 năm (1953-2023)

Viện Xã hội học

01/07/2023

I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN

Viện Xã hội học được thành lập ngày 9/9/1983 trên cơ sở tổ chức tiền thân là Ban Xã hội học hình thành từ năm 1977. Vào thời điểm ra đời, Viện Xã hội học là đơn vị đầu tiên trong cả nước xây dựng ngành nghiên cứu xã hội học. Hầu hết lực lượng cán bộ của Viện trong thời gian đó chưa được đào tạo về xã hội học. Không ít cán bộ trong Viện thuộc các chuyên ngành khác như Triết học, Văn học, Tâm lý học, Kinh tế học,… Trước tình hình đó, các nhà lãnh đạo Viện đã chú trọng vừa đào tạo cán bộ tại chỗ (chủ yếu bằng con đường tự học và học hỏi lẫn nhau), vừa cử cán bộ đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài. Đồng thời, Viện tăng cường tuyển chọn các sách, tạp chí, tài liệu chuyên ngành xã hội học và các ngành khoa học xã hội khác ở nước ngoài và chuyển ngữ sang tiếng Việt. Vừa tiến hành các nghiên cứu lý thuyết về những vấn đề cơ bản của chuyên ngành xã hội học, Viện vừa thực hiện các nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, giải quyết những vấn đề xã hội cụ thể. Việc quảng bá tri thức xã hội học quốc tế, giới thiệu ngành xã hội học tại Việt Nam đến với công chúng trong nước cũng rất được chú ý trong giai đoạn này. 

Viện luôn chú trọng mời các nhà khoa học xã hội trong nước có kinh nghiệm từ các ngành khoa học quốc tế và trong khu vực đến tọa đàm, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm thông qua các buổi tập huấn, tư vấn chuyên gia quốc tế. Trong vòng mười năm đầu thành lập, Viện đã tổ chức thành công nhiều nghiên cứu điền dã lớn, đóng góp vào quá trình hoạch định chính sách về dân số, nhà ở, gia đình,… Viện đặc biệt nhấn mạnh chiến lược hợp tác quốc tế đa phương thông qua đào tạo cán bộ ở nước ngoài, tìm kiếm cơ hội hợp tác nghiên cứu chung giữa Viện với các trường đại học ngoài nước và các tổ chức quốc tế.

Qua 30 năm xây dựng và phát triển, Viện Xã hội học đã thực hiện hàng trăm các chương trình, đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước và tương đương. Các xuất bản phẩm bao gồm hơn 120 số Tạp chí và xấp xỉ 100 đầu sách do các nhà nghiên cứu của Viện xuất bản kể từ ngày thành lập. Trong đó, khoảng một nửa số sách này được xuất bản trong vòng 10 năm qua. Điểm đáng chú ý là Viện đã có được những cuốn sách xã hội học chuyên ngành phục vụ cho đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu như lịch sử, lý thuyết xã hội học, xã hội học gia đình, xã hội học dân số, xã hội học văn hóa, xã hội học về giới, xã hội học nông thôn, xã hội học đô thị, chính sách xã hội... Các bài giảng không ngừng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo xã hội học ngày càng nâng cao. Viện cũng là địa chỉ đầu tiên ở Việt Nam tổ chức đào tạo tiến sĩ xã hội học trong nước. Cho đến nay, đội ngũ chuyên gia nghiên cứu của Viện hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, trong số 58 cán bộ trong biên chế của Viện, 41% là các Giáo sư, Phó Giáo sư, tiến sĩ. Hơn 1/3 số cán bộ trẻ được tuyển dụng mới trong 10 năm qua, trong số đó 77% có trình độ từ thạc sĩ trở lên.

Vị thế và vai trò của ngành xã hội học còn được tăng cường cùng với  đóng góp của Tạp chí Xã hội học, được ra đời và phát triển từ năm 1983. Cho đến nay, Tạp chí vẫn là cơ quan ngôn luận duy nhất của ngành xã hội học Việt Nam, góp phần giới thiệu các kết quả nghiên cứu mới nhất của giới xã hội trong nước, truyền bá tri thức xã hội học quốc tế.  

Thư viện của Viện Xã hội học đứng đầu về lưu trữ tài liệu chuyên ngành xã hội học trong cả nước. Hiện tại, thư viện sở hữu 13.000 đầu sách với 9.000 cuốn sách và 400 cuốn từ điển các loại. Ngoài ra còn có 99 đầu tạp chí phân theo 60 chủ đề lớn. Gần nửa trong số này là sách ngoại văn chuyên ngành xã hội học và các chuyên ngành khoa học xã hội khác có liên quan. Mỗi năm, Thư viện Xã hội học đón khoảng 1500 lượt bạn đọc. Toàn bộ sách, tài liệu được mã hóa và đưa vào máy tính. Hệ thống tra cứu, tìm kiếm mã số sách, tư liệu trên máy vi tính đem lại sự thuận tiện cho người sử dụng. Thư viện thường xuyên cập nhật các thông tin xã hội học trong và ngoài nước. Các tài liệu điện tử được lưu trữ, cập nhật, và giới thiệu thường xuyên với bạn học. Có thể tra cứu tài liệu của thư viện qua mạng LAN và trang web của Viện.

Viện Xã hội học qua các thời kỳ:

Trước 1986: Trong giai đoạn trước Đổi mới, Viện tập trung xây dựng ngành xã hội học mới mẻ ở Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu xã hội học đầu tiên ở Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô trước đây, Đức, Ấn Độ, Bỉ, Bungari và Hungary.

Đây là thời kỳ mở đầu và nhận diện một bộ môn khoa học mới, tìm tòi hướng phát triển cho ngành xã hội học ở Việt Nam. Thời kỳ này tập trung xây dựng lực lượng nghiên cứu xã hội học. Từ năm 1983, cùng với việc thành lập Viện Xã hội học, Tạp chí Xã hội học ra đời đã góp phần tích cực truyền bá, phổ biến những tri thức xã hội học trên phạm vi cả nước.

1986 - 2000: Khẳng định vị trí của ngành xã hội học ở Việt Nam. Trong thời kỳ này, nhiều cán bộ được đào tạo tiến sĩ ở các nước như Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Thụy Điển… trở về nước công tác, xây dựng các phòng nghiên cứu chuyên môn. Đây cũng là thời kỳ đánh dấu thế hệ tiến sĩ xã hội học đầu tiên được đào tạo trong nước tại cơ sở đào tạo của Viện. 

Đây là thời kỳ bắt đầu có nhiều xuất bản phẩm về nghiên cứu xã hội học của các cán bộ trong Viện. Nhiều bài viết của cán bộ trong và ngoài Viện được thường xuyên đăng tải trên Tạp chí bên cạnh các thông tin về thành tựu xã hội học thế giới và các thông tin liên quan đến xã hội học… Các công trình trong giai đoạn này đã đóng góp quyết định và là sự chuẩn bị cần thiết cho sự phát triển đi lên của Viện trong sự nghiệp Đổi mới đất nước.

2001 - 2010: Đẩy mạnh các nghiên cứu phát triển và tư vấn chính sách cho các cơ quan của chính phủ, các tổ chức trong nước và quốc tế. IOS thời kỳ này bổ sung một thế hệ cán bộ mới trẻ và năng động. Một số được đào tạo ở Mỹ, Pháp, Úc, Nhật… Đây là thời kỳ mà Viện Xã hội học đã đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực: tổ chức, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, xuất bản phẩm phục vụ công cuộc Đổi mới, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, phát triển ngành một cách mạnh mẽ, phát huy ảnh hưởng của đơn vị trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

Từ 2011 - đến nay: Đẩy mạnh nghiên cứu theo hướng chuyên ngành và liên ngành, phát triển nguồn nhân lực trẻ của Viện. Viện sẽ tăng cường chuyển tải kết quả nghiên cứu đến các nhà hoạch định chính sách, các đối tác quốc tế và hội nhập với các viện nghiên cứu, các trường đại học ở nước ngoài. Xu thế này phản ánh định hướng hội nhập sâu rộng với quốc tế của Viện với vị trí là một cơ quan nghiên cứu đầu ngành về xã hội học.

Trong thời kỳ này, Viện tiếp tục điều chỉnh phương hướng nghiên cứu, cơ cấu tổ chức phù hợp với nguồn nhân lực hiện có. Các cán bộ nghiên cứu trẻ được tăng cường về chất chuẩn bị cho một bước chuyển giao mới trong tương lai gần. Các kết quả nghiên cứu khoa học của Viện trong thời kỳ này sẽ hướng vào những vấn đề mới đặt ra trong mối liên hệ với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam, những vấn đề được toàn cầu quan tâm như biến đổi khí hậu, môi trường, sức khỏe, di dân, an sinh xã hội…

II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ

  1. Vị trí, chức năng, tính chất hoạt động

              Viện Xã hội học là tổ chức nghiên cứu khoa học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về phát triển xã hội và quản lý xã hội ở Việt Nam, nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; kết hợp nghiên cứu với đào tạo đội ngũ chuyên gia về chuyên ngành xã hội học, tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực về xã hội học của cả nước; tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ công về những vấn đề kinh tế - xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện; mở rộng quan hệ hợp tác và thúc đẩy hội nhập quốc tế về nghiên cứu và đạo tạo xã hội học.

              Viện Xã hội học có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật, hoạt động từ ngân sách nhà nước; là đơn vị kế hoạch tài chính của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Viện có Trụ sở chính đặt tại Số 1 Liễu Giai, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh: Institute of Sociology (viết tắt: IOS).

              2. Nhiệm vụ và quyền hạn

              Viện Xã hội học có những nhiệm vụ chính:

              Trình Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển của Viện Xã hội học và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của xã hội Việt Nam từ góc độ xã hội học; góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trong quá trình phát triển ở nước ta.

Kết hợp nghiên cứu với đào tạo đội ngũ chuyên gia về chuyên ngành xã hội học;tham gia đào tạo đại học và sau đại học, góp phần phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các tổ chức khác ở trong và ngoài nước.

Góp ý và phản biện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ công về những vấn đề kinh tế - xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện.

Hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành.

Ký kết thực hiện các hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và các quy chế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định; quản lý tư liệu, thư viện của Viện Xã hội học; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học.

Quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị; tài sản và kinh phí của Viện Xã hội học theo quy định của Nhà nước và theo sự phân cấp quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Thực hiện các nhiệm khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

III. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU

Trong 30 năm qua, Viện Xã hội học đã hình thành và triển khai một số hướng nghiên cứu chính với 10 đóng góp chủ yếu sau đây:

1. Cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội và định hướng giá trị

Vào những năm đầu tiên tiến hành công cuộc Đổi mới, việc nghiên cứu cơ cấu xã hội ở Viện Xã hội học được triển khai theo hướng tìm hiểu sự phân tầng xã hội ở Việt Nam. Các nghiên cứu của Viện vừa cung cấp hệ thống lý thuyết về hiện tượng phân tầng xã hội vừa cung cấp cứ liệu thực tế cho chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Những nghiên cứu này được thực hiện trên hai quan điểm. Thứ nhất, về mặt kinh tế: sự khác biệt xã hội trong phân tầng xã hội gắn liền với tính đa dạng của nền kinh tế và tính năng động của nó, phản ánh những chiến lược kinh tế và những hệ quả khác nhau của chúng. Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận động lực của kinh tế thị trường. Thứ hai, về mặt xã hội: những khác biệt xã hội cũng được nhìn nhận theo hai hướng. Một mặt, phân tầng xã hội thể hiện sự thành công về kinh tế của các nhóm xã hội mới, như giới kinh doanh, dịch vụ, các nhà tư vấn, những ngành kinh tế độc quyền, gắn với thị trường. Mặt khác, là việc xuất hiện những nhóm xã hội yếu thế, bị thiệt thòi, dễ bị tổn thương do tác động của kinh tế thị trường. Từ đây, sự tương phản giàu - nghèo đã dẫn đến những hệ quả tiêu cực như sự cách biệt xã hội, tình trạng được thụ hưởng không tương xứng những thành quả của Đổi mới, phát sinh những tiêu cực xã hội như tham nhũng, mất dân chủ, những tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm và những vấn đề xã hội đặt ra khác.

Hiện trạng phân tầng xã hội (PTXH) ở Việt Nam phản ánh rõ nét đặc điểm của thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mức chênh lệch giữa các tầng lớp chưa lớn, tốc độ tăng chênh lệch chưa cao. Tuy nhiên, những khác biệt này đang ngày càng gia tăng theo cái gọi là “nguyên lý ưu thế tích hợp” theo đó, nhóm người đã ở một vị trí có ưu thế sẽ có nhiều khả năng hơn những nhóm khác để vượt lên trên bậc thang PTXH.

Người dân thừa nhận PTXH, phân hoá giàu - nghèo như là một xu hướng mang tính quy luật trong mọi xã hội, đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường. Từ một cách nhìn tích cực hơn, PTXH cũng có thể  được nhìn nhận như là hệ quả của quá trình trong đó, cơ chế thị trường (dưới sự điều tiết của Nhà nước) tìm kiếm và thực hiện một sự công bằng xã hội hiện thực.

Nhìn chung, có thể khẳng định rằng ở Việt Nam đang tồn tại khá phổ biến sự phân tầng xã hội theo mức sống. Tính phổ biến của hiện tượng thể hiện ở chỗ: sự phân tầng này diễn ra ở mọi địa bàn (đô thị, nông thôn, vùng / miền địa lý - lãnh thổ, các khu vực,...), trong suốt quá trình phát triển và trong mọi bộ phận hợp thành của cơ cấu xã hội.

2. Những vấn đề biến đổi dân số và chính sách dân số

Lĩnh vực nghiên cứu chiều cạnh xã hội của vấn đề dân số được Viện Xã hội học quan tâm ngay từ đầu những năm 80. Tuy nhiên, chuyên ngành xã hội học dân số thực sự phát huy kể từ năm 1983 cùng với việc thành lập Viện Xã hội học và phòng chuyên môn nghiên cứu chủ đề này.  Lần đầu tiên chuyên ngành xã hội học dân số được hình thành và phát triển ở Việt Nam, thu hút sự chú ý và quan tâm của các nhà lập chính sách, các cơ quan quản lý và giới khoa học. Cùng với những bước tiến đầu tiên của Viện trong chương trình nghiên cứu cơ bản tại nông thôn đồng bằng Bắc bộ, kể từ giữa thập niên 80 Viện đã tiến hành các nghiên cứu khởi đầu về dân số tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. 

Những kết quả và phát hiện bước đầu đã khẳng định vai trò không thể thiếu của xã hội học dân số như một chuyên ngành nghiên cứu cơ bản. Những công trình thực nghiệm trong thời kỳ này đã nâng cao vị thế của Viện Xã hội học trên lĩnh vực dân số và kế hoạch hoá gia đình. Lần đầu tiên, Viện đã tham gia với tư cách là cơ quan phản biện cho việc hoạch định chương trình Dân số - Kế hoạch hoá gia đình do Uỷ ban Quốc gia Dân số chủ trì. Các cán bộ của Viện đã tham gia xây dựng chiến lược truyền thông dân số đầu tiên của Việt Nam, góp phần đưa nó trở thành một chính sách cơ bản và nòng cốt cho việc triển khai chương trình dân số trong những năm 90. Nhận thấy tầm quan trọng của xã hội học dân số, đồng thời ghi nhận những đột phá thành công của Viện trên lĩnh vực này, Chính phủ và Quỹ dân số Liên hợp quốc đã quyết định hỗ trợ cho Viện dự án dân số VIE/88/P05 "Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội về dân số ở Việt Nam". Với sự hợp tác của Đại học Tổng hợp quốc gia Ôxtrâylia, dự án VIE/88/P05 đã tạo điều kiện để phát triển một hướng đi đúng đắn trong lĩnh vực xã hội học dân số, kế hoạch hoá gia đình và phát triển. Các khoá đào tạo, huấn luyện trong khuôn khổ dự án đã tập hợp và tạo điều kiện cho nhiều cán bộ nghiên cứu trong và ngoài Viện đến từ hai miền đất nước tiếp cận được những kiến thức cơ bản về xã hội học dân số. Đây cũng là lần đầu tiên, thông qua sự hỗ trợ của dự án, Viện có thêm được cơ sở vật chất, nguồn lực phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo cơ bản, tạo tiền đề cho việc xây dựng và phát triển Viện vững mạnh sau này.  

Hơn 20 năm qua, đánh dấu quá trình hình thành, trưởng thành và phát triển của chuyên ngành xã hội học dân số. Thời kỳ 10 năm đầu phát triển (1987-1996) đánh dấu những thành tựu của Viện Xã hội học trong các hoạt động nghiên cứu, đào tạo với nội dung "Dân số, mức sinh và kế hoạch hoá gia đình trong thời kỳ Đổi mới đất nước." Đây là một trong những chương trình nghiên cứu dài hạn do Uỷ ban Quốc gia dân số, Bộ Y tế cùng với các đoàn thể quần chúng liên kết thực hiện.  Viện Xã hội học đã tham gia trong các đề tài cơ bản do các cơ quan Chính phủ chủ trì. Bằng những nghiên cứu sâu có tính chất đột phá, Viện đã đưa ra được những luận điểm cơ bản. Chẳng hạn, từ năm 1990, trong khi các cơ quan lập chính sách còn chưa xác định được hướng tiếp cận đối với công tác dân số, Viện đã đưa ra câu trả lời cụ thể và đúng đắn: để có thể giảm sinh một cách bền vững, Chính phủ không thể y tế hoá chương trình dân số mà phải xã hội hoá công tác dân số. Những năm sau đó, khi nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đang chuyển mình đi lên với những đổi mới kinh tế - xã hội, các phân tích về tác động chính sách của Viện đã dự báo chính xác rằng chính sách khoán trong nông nghiệp không làm gia tăng mức sinh và nhu cầu sinh đẻ của người nông dân. Thực tế cuộc sống đã khẳng định điều luận điểm này, cùng với những cải thiện trong thu nhập và mức sống, tỷ lệ  sinh ở khu vực nông thôn đã giảm nhanh và giảm bền vững trong thập niên qua.  Song song với công tác nghiên cứu, thông qua các dự án do Quỹ dân số Liên hợp quốc hỗ trợ cho Việt Nam, trong thời kỳ này Viện đã đẩy mạnh công tác đào tạo và giảng dạy về dân số học cho các cán bộ trong và ngoài Viện. Những cuốn sách Các phương pháp đánh giá chương trình kế hoạch hoá gia đình (1996), Dân số đồng bằng Bắc bộ - những nghiên cứu từ góc độ xã hội học (1996), Tuyển chọn những bài viết về dân số học xã hội (1995) được Viện xuất bản đã trở thành nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về xã hội học dân số trong thời kỳ này.

Sự phát triển tiếp theo của Viện trên lĩnh vực nghiên cứu dân số được thể hiện qua những thành tựu nghiên cứu trong giai đoạn từ 1997 đến nay. Trong giai đoạn này Việt Nam đã bước sang giai đoạn quá độ dân số với sự suy giảm mạnh về mức sinh và mức chết. Cùng với quá trình đó, di chuyển dân số - lao động đã trở thành một thực tế khách quan, có tác động mạnh mẽ đến  đời sống và các quá trình kinh tế - xã hội của đất nước. Bám sát thực tế, Viện đã chủ động mở ra một hướng nghiên cứu mới với chủ đề "Di dân và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", qua đó tiếp tục phát huy được thế mạnh và vai trò đi đầu trong việc  triển khai những công trình nghiên cứu về di dân và phát triển. Dự án hợp tác giữa Viện Xã hội học và Đại học Tổng hợp Brown, Hoa Kỳ là một trong những chương trình nghiên cứu và đào tạo sâu về chủ đề di dân, đô thị hóa, mức sinh và địa vị phụ nữ. Chẳng hạn đó là các kết luận và kiến nghị như: Di động dân số là một cấu thành khách quan của quá trình phát triển; Di dân có đóng góp tích cực vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo và phát triển nông thôn; Quản lý dân số và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể có hiệu quả nếu dựa trên cơ sở phân biệt tình trạng di dân và cư trú; Di dân nông thôn-thành thị không làm gia tăng tỷ lệ sinh và ảnh hưởng đến các mục tiêu dân số ở thành thị, xu hướng giảm sinh là bền vững; v.v…

Những quan điểm khoa học và khuyến nghị chính sách qua chương trình nghiên cứu di dân đã nhận được sự hưởng ứng, tham khảo và sử dụng rộng rãi của các bộ ngành hoạt động trong lĩnh vực này như Văn phòng Quốc hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, v.v… Viện đã xuất bản một số cuốn sách chuyên đề như Di dân ở Việt Nam: Tiếp cận lý thuyết và minh chứng từ một cuộc điều tra (2001), Di dân nội địa và đô thị hoá ở Việt Nam (2001), Di dân và các sự kiện của vòng đời (2005) giúp giới thiệu các kết quả nghiên cứu trong và ngoài Viện. Nhiều hội nghị, hội thảo quốc gia, khu vực hay toàn cầu đều có sự tham gia thường xuyên của những cán bộ xã hội học trên lĩnh vực dân số và di dân, góp phần khẳng định vị thế và nâng cao vai trò của Viện trong lĩnh vực dân số trên bình diện trong nước và khu vực.

Hiện nay trên lĩnh vực dân số, Viện Xã hội học đang thực hiện Đề tài cấp nhà nước thuộc Chương trình nghiên cứu Tây Nguyên 3 của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Với chủ đề Dân số và di dân trong phát triển bền vững Tây Nguyên (2013-2014), đề tài nhằm làm rõ thực trạng phát triển dân số và tình hình di dân sau gần 30 năm Đổi mới, phân tích đánh giá các chính sách dân số và di dân trên địa bàn quan trọng này. Từ đó dự báo xu hướng dân số và di dân trong mối liên hệ với phát triển bền vững, đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp trên lĩnh vực này.

3. Những vấn đề xã hội học đô thị

Nghiên cứu những vấn đề xã hội của đô thị là một trong những chủ đề trọng tâm của Viện Xã hội học ngay từ những năm đầu thành lập. Phát huy thế mạnh của các phương pháp xã hội học trong việc phân tích và lý giải những vấn đề xã hội, những nghiên cứu của Viện đã chỉ ra những bất cập giữa quản lý kinh tế và quản lý xã hội tại các đô thị, đưa ra những khuyến nghị cho giới hoạch định chính sách quản lý đô thị. Đồng thời các nghiên cứu này đã góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan có trách nhiệm trong việc quản lý các quá trình xã hội ở đô thị.

Các nghiên cứu của Viện đã chỉ ra rằng, mặc dù Việt Nam có mức độ đô thị hoá còn thấp, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam cũng đã tạo ra được khuôn mẫu phát triển mới với các đặc trưng cơ bản như: quy mô gia đình nhỏ hơn; hôn nhân ngày càng ít phổ biến hơn và tuổi kết hôn lần đầu cao hơn; các mối quan hệ thân tộc lỏng lẻo hơn; mức sinh thấp hơn, đặc biệt là ở các nhóm tuổi trẻ; lối sống ngày càng phụ thuộc vào dịch vụ công cộng; chất lượng sống của các gia đình đô thị cao hơn; sự phân cực điều kiện sống cao hơn; trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn, đặc biệt là ở các bậc học vấn và chuyên môn cao. Đi kèm với những thay đổi này là sự hình thành các nhu cầu mới của dân cư đô thị, từ nhu cầu nhà ở, nhu cầu đi lại, sinh hoạt, học tập, v.v..Nhiều phát hiện nghiên cứu đã góp phần luận chứng cho các giải pháp quản lý đô thị tại một số thành phố nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của dân cư.

Một khía cạnh khác trong nghiên cứu đô thị là vấn đề nghèo khổ đô thị. Trên cơ sở phân tích thành phần xã hội - nghề nghiệp của nhóm người nghèo, các đặc trưng về thu nhập, mức sống, nhà ở, và chăm sóc sức khỏe của họ, các nghiên cứu đã khẳng định khả năng tự vươn lên, tính năng động của người nghèo. Để giúp người nghèo phát huy hết vai trò của họ trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, cần có những chính sách như: chính sách lao động và việc làm; chính sách quy hoạch đô thị; chính sách phát triển hoạt động phục vụ công cộng ở các khu có đông dân cư nghèo; chính sách tín dụng nhỏ; và đặc biệt là chính sách động viên sự tham gia của người dân trong việc cải thiện điều kiện sống của cộng đồng.

Viện Xã hội học là một trong những đơn vị đi đầu trong việc nghiên cứu khả năng tham gia của cộng đồng trong việc lập quy hoạch, xây dựng, và quản lý đô thị. Đây là một vấn đề còn rất mới ở Việt Nam, việc nghiên cứu và triển khai vận dụng nó có một ý nghĩa bức bách. Trong khuôn khổ của Dự án VIE/95/050, nghiên cứu của Viện đã góp phần khẳng định tiềm năng to lớn của các cộng đồng dân cư đô thị vào việc lập quy hoạch, đóng góp công sức, vốn đầu tư cho xây dựng các yếu tố cơ sở hạ tầng và công tác quản lý phát triển đô thị tại địa phương. Những phát hiện này đã giúp cho các cấp quản lý đô thị có những giải pháp quản lý nhằm phát huy sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý đô thị.

Nghiên cứu những khía cạnh xã hội về nhà ở là một hướng nghiên cứu quan trọng trong của Viện Xã hội học. Ngay từ cuối những năm 1970, Viện (lúc đó là Ban Xã hội học) đã đảm nhiệm đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước  Những khía cạnh xã hội của vấn đề ở  thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước 26 - 01 (được triển khai trong các năm 1978-1985). Đề tài tập trung vào hai hướng: thứ nhất, mối quan hệ hữu cơ giữa cơ cấu dân cư, lối sống dân cư với nhà ở ; và thứ hai, chính sách vĩ mô trong lĩnh vực nhà ở. Những kiến nghị từ nghiên cứu đã được trình lên các đồng chí có trách nhiệm trong TƯ và Tiểu ban văn kiện Đại hội VI (1986). Kết quả nghiên cứu theo hướng thứ nhất đã tạo ra cơ sở dữ liệu quí cho lĩnh vực thiết kế nhà ở và qui hoạch đô thị, được đưa vào giáo trình Xã hội học đô thị của trường đại học Kiến trúc Hà Nội. Hướng nghiên cứu thứ hai của đề tài đã tập trung luận chứng cho đề xuất chính sách nhằm xoá bỏ từng bước chế độ bao cấp về nhà ở. Những đề xuất này đã có ảnh hưởng tới giới hoạch định chính sách về nhà ở và thực tiễn đã chứng tỏ quan điểm đúng đắn của nó: chính sách bao cấp về nhà ở đã được xoá bỏ sau đó.

Trong giai đoạn sau Đổi mới, nghiên cứu xã hội học về nhà ở đã từng bước tiếp cận được với những khuynh hướng nghiên cứu quốc tế thông qua các dự án hợp tác. Một số dự án nghiên cứu như “Nhà ở cho người nghèo đô thị” (1994), “Nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu về phát triển đô thị 1998 - 2000” không chỉ giúp nâng cao năng lực nghiên cứu, tiếp cận với trình độ quốc tế của cán bộ xã hội học, mở ra các hướng nghiên cứu mới mà còn cung cấp tài liệu, phổ biến kiến thức xã hội học cho hàng loạt cán bộ quản lý đô thị, thiết kế kiến trúc, qui hoạch đô thị, sinh viên xã hội học. Việc thực hiện các dự án này đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao năng lực cho các cán bộ quản lý đô thị các cấp.

Đề tài Hiện trạng quản lý, sử dụng và nhu cầu nhà ở của dân cư Hà Nội (1997) thực hiện theo đề nghị của UBND thành phố Hà Nội và Sở nhà đất Hà Nội, đã cung cấp những cơ sở dữ liệu cho Chương trình phát triển nhà ở Hà Nội đến năm 2010. Một số cán bộ xã hội học đô thị đã là những chuyên gia tư vấn cho một số chương trình và dự án về phát triển đô thị. Nhiều hội nghị quốc tế, quốc gia hay hội thảo trong nước về lĩnh vưc này đã có sự tham gia thường xuyên của các cán bộ xã hội học.

Nhìn chung, các nghiên cứu của Viện về những khía cạnh xã hội của đời sống đô thị đã có những đóng góp cho sự truyền bá và khuyến khích việc trang bị kiến thức xã hội học nói chung, xã hội học đô thị, xã hội học nhà ở nói riêng cho các nhà kiến trúc, quy hoạch đô thị, phổ biến việc ứng dụng nghiên cứu xã hội học trong lĩnh vực phát triển đô thị, cũng như góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho các chính sách, chương trình phát triển đô thị và nhà ở Việt Nam.

4. Những vấn đề xã hội học nông thôn

Ngay từ ngày đầu thành lập, Viện đã xem nghiên cứu về nông thôn là một trong những hướng nghiên cứu then chốt.  Hệ vấn đề chung của hướng nghiên cứu này là sự biến đổi và phát triển xã hội nông thôn theo định hướng thị trường hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trên định hướng chung đó, Viện đã triển khai đồng bộ các hoạt động, chú ý kết hợp ba chức năng cơ bản, đó là: nghiên cứu, tư vấn và đào tạo chuyên ngành Xã hội học Nông thôn. Về thành quả nghiên cứu thực nghiệm có thể tóm tắt theo một số vấn đề quan trọng như sau:

1) Chuyển đổi cơ cấu lao động, nghề nghiệp xã hội nông thôn, chủ yếu  ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra 3 xu hướng chuyển dịch của cơ cấu lao động - nghề nghiệp ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng: a/ Xu hướng đa dạng hóa (hỗn hợp) việc làm - nghề nghiệp, tức là người dân tìm kiếm mọi việc làm có thể được để tạo ra các nguồn thu nhập cho gia đình. b/ Xu hướng kết hợp giữa các loại việc làm với nhau, tạo thành nhóm nghề liên hoàn hỗ trợ và phát huy hiệu quả lẫn nhau. c/ Xu hướng chuyên môn hóa việc làm-nghề nghiệp, tức là đi sâu vào một nghề độc lập, yêu cầu có trình độ tay nghề cao hơn, hiệu quả kinh tế mang lại cũng lớn hơn. Nền tảng căn bản của 3 xu hướng trên vẫn là tư tưởng trọng nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm gốc của cư dân nông thôn còn được bảo lưu khá nặng nề.

Xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động - nghề nghiệp xã hội nông thôn trên đây đã có tác động lớn đến quá trình và các nhân tố của phân tầng xã hội theo mức sống ở nông thôn. Sự chuyển biến từ hộ thuần nông, thu nhập từ nông nghiệp là chính sang hộ thu nhập từ hoạt động phi nông ngày càng tăng là nguyên nhân chính làm tăng thu nhập. Trong phạm vi rộng hơn và lâu dài hơn, yếu tố tác động mạnh nhất này có lẽ sẽ được "dịch chuyển" sang yếu tố học vấn và năng lực biết tính toán làm ăn (yếu tố dân trí). Lúc đó, nhân tố ngành nghề sẽ nhường chỗ cho học vấn và dân trí. Hay nói chính xác hơn, nó phụ thuộc trực tiếp vào học vấn và dân trí. Đó rất có thể là xu hướng vận động gắn liền với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, Viện đang thực hiện đề tài cấp Nhà nước trong Chương trình Tây Nguyên 3 với tên gọi Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn (2012 - 2014) nhằm tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn tại khu vực Tây Nguyên, trên cơ sở đó luận giải nguyên nhân tình trạng phát triển kém bền vững của khu vực này.

2) Phân hóa giàu - nghèo, phân tầng mức sống ở nông thôn. Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu - nghèo cũng đang diễn ra ở cả nông thôn và đô thị. So sánh diễn biến đói nghèo sau thời kỳ 5 năm (1993 - 1998) trên phạm vi cả nước, cho thấy động thái của diễn biến đói nghèo là: từ năm 1993, tình trạng đói nghèo tương đối ổn định trì trệ; đến năm 1998, tình trạng đói đã tương đối khả quan hơn và đi đến kết luận rằng: kết quả xóa Đói đang trong xu hướng vững chắc, nhưng kết quả giảm Nghèo còn bấp bênh.

Nhóm dân cư đói nghèo vẫn còn khá cao và tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Tình trạng phân tầng đô thị (giàu) - nông thôn (nghèo) vẫn đang có xu hướng gia tăng. Hiện nay, trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, điều này lại càng được khắc sâu thêm. Nhận định này được làm rõ hơn qua kết quả nghiên cứu về phân tầng mức sống trong cả nước đã góp phần bổ sung và làm sáng tỏ nhận thức về thực trạng phân hóa giàu - nghèo ở Việt Nam hiện nay là phân hóa vùng/khu vực. Hoặc đặc điểm nổi bật của vấn đề phân hóa giàu - nghèo là phân hóa vùng/khu vực.

Chủ đề phân tầng mức sống ở nông thôn được nghiên cứu trong tương quan so sánh với đô thị, hoặc so sánh các vùng/miền trong cả nước. Ngay từ năm 1993, một nhận định có tính chất khái quát về bức tranh phân tầng mức sống ở Việt Nam đã được hình thành. Đến năm 1995 và 1998, nhận định này được hoàn chỉnh như sau: Theo chiều không gian từ nam ra bắc, từ đồng bằng lên miền núi thì sự phân hóa ở các tỉnh phía nam rõ hơn ngoài bắc, đồng bằng rõ hơn miền núi. Nếu lấy đô thị làm tâm và theo chiều từ đô thị về nông thôn, về tiếp vùng sâu vùng xa, thì sự phân hóa ở đô thị diễn ra mạnh nhất, càng lan tỏa ra các vùng nông thôn xung quanh càng yếu dần và hầu như còn phẳng lặng ở vùng miền núi. Nhận định này được ổn định cho đến nay và được những số liệu thực nghiệm chứng minh cho sự đúng đắn của nó.

3) Phát triển cộng đồng làng - xã, vùng, miền ở nông thôn. Kết quả của hướng nghiên cứu này là một nhận định tổng quát về bản chất và đặc điểm xu thế phát triển xã hội nông thôn Việt Nam đã được đưa ra như sau: Xã hội nông thôn là một xã hội hỗn hợp, coi trọng tính cố kết cộng đồng làng - xã và đoàn kết xã hội. Sự biến đổi, phát triển của xã hội nông thôn diễn tiến theo hướng tăng độ đa dạng và thay đổi kiểu thống nhất xã hội. Thực chất của sự phát triển nông thôn ngày nay là sự chuyển đổi từ xã hội hỗn hợp truyền thống trọng nông nghiệp, nông thôn sang xã hội hỗn hợp hiện đại trọng công nghiệp, đô thị nhằm nâng cao năng lực con người và chất lượng cuộc sống. Thị trường hóa, đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là tất yếu lôgích khách quan. Vấn đề là cần nghiên cứu lựa chọn thị trường hóa, đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thích hợp với xu thế thời đại toàn cầu hóa và yêu cầu phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.

5. Hệ thống chính trị và dân chủ cơ sở

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực là một yêu cầu bức thiết trong thực tiễn phát triển nước ta hiện nay. Tại các địa bàn cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn, việc lãnh đạo và quản lý nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội là một nhiệm vụ hết sức phức tạp, đang đặt trên vai hệ thống chính trị cơ sở. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hệ thống chính trị cơ sở là cần thiết để góp phần nhận diện thực trạng và những vấn đề mà hệ thống này đang trải nghiệm. Nhìn từ góc độ phát triển, những nghiên cứu như vậy nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường dân chủ và sức mạnh của các thể chế chính trị xã hội cơ sở.

Nghiên cứu đầu tiên theo hướng này đã được Viện Xã hội học tiến hành lần đầu tiên về sự kiện Thái Bình. Đây là một hướng nghiên cứu mới, tập trung vào những mối quan hệ giữa người dân và cán bộ, vấn đề dân chủ cơ sở, công bằng và bình đẳng xã hội. Báo cáo: “Khảo sát về sự kiện Thái Bình” (tháng 6,7-1997) đã phân tích toàn diện vấn đề này và đề ra những khuyến nghị tới các cơ quan có trách nhiệm

Trong những năm gần đây, chủ đề này được mở rộng hơn, bắt nhịp với nhu cầu nhận diện về quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.  Viện đã tập trung vào một số khảo sát liên quan tới chủ đề hệ thống chính trị cơ sở nông thôn qua ý kiến người dân, dân chủ cơ sở, bầu cử Hội đồng nhân dân ở làng xã, mâu thuẫn và các biện pháp giải quyết mâu thuẫn trong các cộng đồng ở Việt Nam.

Những nghiên cứu trên đã góp phần nhận diện thực trạng hoạt động của bộ máy chính trị cơ sở và chỉ ra tính phức tạp của quá trình dân chủ hoá ở cơ sở hiện nay.  Các nghiên cứu này phát hiện rằng khoảng cách về kinh tế và vị thế xã hội ngày càng có xu hướng rộng ra có thể sẽ làm tăng khoảng cách về ý thức chính trị. Và từ những khác biệt có thể tiềm ẩn những mâu thuẫn và xung đột. Nghiên cứu cũng cho thấy những quan niệm đang chuyển đổi về phẩm chất của người cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở. Tuy đã có những biến đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, người dân vẫn còn lưu giữ quan niệm về người cán bộ dựa trên những khuôn mẫu giá trị đạo đức trước đây. Khuôn mẫu này chú trọng nhiều hơn tới sự bảo lưu cái hiện có, chưa nhấn mạnh các yếu tố của sự phát triển. Trong khi đó, bên cạnh các giá trị đạo đức, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, cái  cần khuyến khích chính là hệ giá trị chức năng, là các động lực thúc đẩy sự phát triển.

Các nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức quần chúng trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Chẳng hạn, vai trò của tổ chức đảng và của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng trong việc giải quyết các mâu thuẫn tại cơ sở.  Các nghiên cứu cũng cho thấy lối sống theo tình cảm (trọng tình, nghĩa mà không dựa trên luật pháp), ngại thay đổi vẫn đang là cái chi phối chủ yếu hành vi, thái độ của người dân trong đời sống chính trị địa phương. Điều này cho thấy làng - một đơn vị xã hội cổ truyền, tuy đang trải qua nhiều biến đổi, song vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay.

Thông qua nghiên cứu, Viện Xã hội học đã đưa ra được những khuyến nghị về tăng cường năng lực của các thể chế xã hội cấp cơ sở. Các khuyến nghị nhấn mạnh đến nhu cầu thể chế hoá các hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở như cần ban hành pháp lệnh về hệ thống chính trị cơ sở. Tổ chức đảng cơ sở cần có khả năng quyền hạn rộng rãi hơn trong việc ra những quyết định về bầu cử, đặc biệt là về nhân sự. Những nghiên cứu này, đặc biệt là về hệ thống chính trị nông thôn, đã góp phần đóng góp luận cứ khoa học xã hội cho Hội nghị Trung ương 5, khoá IX của Đảng.

6. Các vấn đề xã hội học văn hóa

Trong thời kỳ Đổi mới, văn hóa đã phát huy được vai trò như một động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.  Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong lĩnh vực kinh tế, đời sống văn hoá tinh thần của đất nước cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, chính ở đây đã có sự đánh giá rất khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng trong tiến trình đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu trên cả hai phương diện kinh tế và văn hoá. Trong khi đó, loại ý kiến thứ hai lại khẳng định sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước “được mùa” về kinh tế, nhưng lại “mất mùa” về văn hoá, đời sống văn hóa xuống cấp trên nhiều mặt. Xã hội Việt Nam đã có sự phân hoá rất mạnh mẽ  với sự phân hóa giàu nghèo; trong việc hưởng thụ văn hoá thì có sự khác biệt giữa vùng nông thôn và đô thị; cùng với việc phục hưng các giá trị truyền thống, nhiều địa phương đã làm sống dậy các hủ tục mê tín, dị đoan; một bộ phận cư dân, nhất là lớp trẻ, còn chịu sự tác động của các thứ văn hoá ngoại nhập lai căng, xa lạ với phong tục truyền thống của dân tộc, v.v…

Góp phần trả lời câu hỏi trên, đồng thời chuẩn bị cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, trong nhiều năm các nghiên cứu về văn hoá dưới góc độ xã hội học đã tập trung vào một số hướng cơ bản sau đây:

1)  Nghiên cứu về giá trị văn hóa và sự phục hưng các giá trị truyền thống nhằm xác định rõ những xu hướng và cơ chế hình thành các phong trào xã hội trong thời kỳ đổi mới. Kết quả nghiên cứu chỉ rõ: a) Sự đề cao các quan hệ gia đình, cộng đồng, đề cao hiệu quả kinh tế, đạo đức, học thức, v.v… là những biểu hiện tích cực gắn với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường; b) Những thay đổi của các giá trị văn hóa về cơ bản vẫn gắn với các giá trị của chủ nghĩa xã hội và các giá trị truyền thống đã được thừa nhận; c) Việc đề cao các giá trị truyền thống đã khơi dậy dòng chảy của văn hoá dân tộc trong đời sống của các thế hệ hôm nay và mai sau; d) Những giá trị này luôn tạo nên sự đồng thuận xã hội và chính trị, do đó cũng góp phần định hướng cho sự lựa chọn mô hình phát triển của Việt Nam với các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2) Triển khai các nghiên cứu cơ bản nhằm xây dựng cơ sở cho chuyên ngành xã hội học tôn giáo ở Việt Nam. Trên hướng này, các nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu ảnh hưởng của tôn giáo tới lối sống của các nhóm cư dân được coi là tích cực khi những ảnh hưởng đó làm tăng cường sự cố kết cộng đồng. Gắn bó chặt chẽ với hướng tiếp cận này là các nghiên cứu về sự biến đổi của các mô hình phong tục như lễ cưới, lễ tang, lễ hội dưới tác động của cơ chế thị trường. Nhìn chung, các nghiên cứu ở hướng này đã đáp ứng những nhu cầu nhận thức và quản lý xã hội trong thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt đã góp phần vào việc đổi mới các qui chế về lễ cưới, lễ tang, lễ hội ở Hà Nội cũng như ở một vài địa phương khác. Bằng sự kết hợp giữa tri thức và kinh nghiệm, văn hóa đã đóng vai trò định hướng và làm nền cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3) Nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào quá trình sáng tạo, lưu truyền và phân phối văn hoá. Các nghiên cứu ở hướng này chỉ ra rằng nếu sự vận hành của văn hoá diễn ra một chiều từ phía Nhà nước đến người dân trong thời kỳ bao cấp đã tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại, thì phương thức cùng tham gia trong những năm gần đây không những động viên được sức người, sức của, mà quan trọng hơn còn phát huy được những tố chất thông minh và sáng tạo, những tri thức và kinh nghiệm của mọi địa phương và mọi người trong cuộc. Việc tham gia ngày càng đông đảo của các tầng lớp, các nhóm cư dân khác nhau vào các công đoạn sáng tạo, lưu truyền và phân phối văn hoá cũng là một phương tiện phản ánh quá trình phát huy dân chủ trong đời sống ở cơ sở mà Đảng và Nhà nước ta đang thực thi.

7. Những vấn đề xã hội học gia đình

Nội dung của các nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam là những vấn đề của sự biến đổi gia đình, những chiều cạnh của sự biến đổi, những hậu quả của nó đối với cá nhân và xã hội dưới tác động của của những yếu tố xã hội như chuyển đổi định hướng giá trị, quá độ dân số, biến đổi công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Những vấn đề này được xem xét từ quan điểm cơ cấu - chức năng, quan điểm xung đột cũng như quan điểm giới.

Phân tích những biến đổi trong cơ cấu gia đình cho thấy sự khác nhau về đặc điểm gia đình giữa đô thị và nông thôn. Những đặc điểm của cơ cấu gia đình như sự hình thành gia đình, đặc điểm nghề nghiệp của vợ chồng, quy mô gia đình, số con, thu nhập hộ gia đình, nơi ở là những yếu tố tiềm năng ảnh hưởng đến phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình ở khu vực đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn đầu của thập niên 90. Quy mô gia đình trung bình và số lao động trung bình của hộ gia đình ở khu vực đô thị cao hơn so với ở nông thôn. Điều đó không chỉ do ảnh hưởng của của những yếu tố nhân khẩu học như mức sinh, tuổi thọ bình quân, mà còn do những yếu tố xã hội khác như như mô hình sống chung, điều kiện ở, đất đai có sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn, đặc biệt sau chính sách khoán hộ.

Những tác động của yếu tố di cư, thay đổi định hướng giá trị, hậu quả của quá độ dân số cũng dẫn đến sự đa dạng của loại hình và tổ chức gia đình. Tác động của di cư đến biến đổi vai trò giới trong gia đình, đặc biệt là sự điều chỉnh chức năng gia đình sau di cư. Những biến đổi gần đây do di cư cũng xuất hiện loại gia đình khuyết thiếu chỉ có bố hoặc mẹ cùng với con cái, hoặc ông bà chăm sóc cháu ở quê.

Quyền lực trong hôn nhân là một khía quan trọng trong quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình. Đặc điểm chung của mô hình quan hệ quyền lực trong hôn nhân hiện nay, ở cả đô thị và nông thôn là có sự chia sẻ về trách nhiệm và quyền quyết định. Tuy nhiên, sự tác động của các yếu tố cá nhân, kinh tế, xã hội, cơ cấu gia đình trong điều kiện xã hội biến đổi thường dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ vai trò và mâu thuẫn giữa vợ và chồng. Đôi khi những mâu thuẫn giữa vợ và chồng chuyển thành khủng hoảng và bạo lực khi có sự đấu tranh về quyền lực giữa vợ và chồng. Hai yếu tố quan trọng nhất góp phần gây ra bạo lực trong gia đình là khó khăn về kinh tế và lạm dụng rượu của nam giới.

Trong chức năng xã hội hoá của gia đình, một trong những vấn đề còn ít được nghiên cứu là chức năng xã hội hoá giới. Phân tích quan niệm và thực tế nuôi con của cha mẹ cho thấy sự khác biệt giới trong các chuẩn mực, kỳ vọng, đối xử, và những thành kiến dẫn đến xã hội hoá bất bình đẳng giới dai dẳng trong tuổi ấu thơ. Quá trình xã hội hoá này dẫn đến sự phát triển nhân cách không cân bằng và không đầy đủ trong cả trẻ em gái và trẻ em trai.

Kết quả chính trong các nghiên cứu xã hội học về gia đình trong những năm qua cho thấy những biến đổi trong một số lĩnh vực, từ sự hình thành gia đình đến các quan hệ gia đình và nhóm họ hàng. Những biến đổi ấy cho thấy khả năng thích nghi của gia đình trước xu thế của những biến đổi xã hội như thay đổi công nghệ, quá độ dân số, mức cơ động xã hội, chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa gia đình như một thiết chế với các thiết chế xã hội  khác. Những biến đổi trong cơ cấu và chức năng gia đình mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển của cá nhân và ổn định của xã hội. Tuy nhiên, thích nghi với những điều kiện xã hội đang biến đổi không phải là như nhau đối với mọi gia đình. Sự tồn tại của những thành kiến giới, những khó khăn về kinh tế là những yếu tố dẫn đến bạo lực trong gia đình và bất bình đẳng giới còn tồn tại.

8. Những vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe

Từ bình diện xã hội học, nhiều nghiên cứu của Viện đã sớm quan tâm đến chủ đề Sức khoẻ. Trong những năm đầu tiên, các tiếp cận nghiên cứu về dân số đã có những phát hiện xung quanh việc đổi mới hệ thống Chăm sóc sức khoẻ (CSSK). Khảo sát về hệ thống chăm sóc sức khoẻ và Kế hoạch hoá gia đình ở nông thôn miền núi, miền Trung (1992) đã đưa ra kết luận: Chỉ có thể đổi mới, nâng cấp, hoàn thiện một hệ thống CSSK cộng đồng trên cơ sở đổi mới nâng cấp toàn bộ hệ thống CSSK nói chung, và đến lượt mình, hệ thống CSSK nói chung  muốn đổi mới, hoàn thiện cũng phải đặt trong bối cảnh đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội rộng lớn của cả cộng đồng. Các nghiên cứu của cũng đã chỉ ra được đối tượng số một của những nghiên cứu theo chiều sâu là gia đình và khẳng định vai trò hết sức quan trọng của gia đình trong CSSK cộng đồng.

Cũng từ những nghiên cứu xung quanh vấn đề hệ thống CSSK cộng đồng, nhìn từ góc độ đổi mới và phát triển, mối quan hệ y tế nhà nước và y tế tư nhân đã được nhìn nhận, phân tích một cách khoa học, cung cấp những cứ liệu cho các hoạch định chính sách về sức khoẻ và CSSK. Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu của Viện tập trung vào lĩnh vực sức khoẻ sinh sản, hành vi chăm sóc sức khoẻ, giá trị sức khoẻ trong thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường cũng như một số vấn đề khác nảy sinh từ đời sống xã hội đương đại liên quan đến HIV/AIDS, tệ nạn ma tuý, mại dâm v.v... Những nghiên cứu về dân số và sức khoẻ tại các địa bàn miền núi đã cho thấy hiểu biết của người dân còn chưa đầy đủ, nhất là về căn bệnh HIV/AIDS và các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản bước đầu có kết quả tốt. Hành vi chăm sóc thai sản vẫn mang đậm dấu ấn tập tục và tín ngưỡng. Các nghiên cứu về Sức khoẻ và Hành vi CSSK của cư dân ở nông thôn khu vực đồng bằng cho thấy hành vi CSSK của cư dân là một hệ thống ứng xử biến đổi khó khăn. Trong đó, có xu hướng tiến bộ nhất trong chuyển đổi là các hành vi dinh dưỡng, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, có liên quan đến sức khoẻ người phụ nữ tại cộng đồng.

Từ các nghiên cứu này đã đưa ra một số khuyến nghị đối với việc hình thành chiến lược truyền thông dân số - sức khoẻ hiện nay. Giải pháp nền tảng là các hoạt động truyền thông CSSK/SKSS cần được lồng ghép trong một chương trình phát triển toàn diện. Ngoài ra, cùng với việc phủ sóng truyền hình trên toàn lãnh thổ, cần tăng cường hoạt động của các kênh truyền thông lưu động, các kênh truyền thông không chính thức như gia đình, họ hàng, những người có uy tín trong cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cũng đã gợi ý rằng cần có các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc với những thông điệp về CSSK/SKSS được thiết kế phù hợp với thực tế cuộc sống của người dân tộc và các đặc điểm văn hoá và có sự tham gia của người dân tộc. Nhiều đề xuất đã được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm sử dụng trong việc xây dựng chiến lược dân số và chăm sóc sức khoẻ những năm đầu thế kỷ 21.

9. Những vấn đề chính sách xã hội và công tác xã hội

Hướng nghiên cứu về chính sách xã hội đã được Viện chú ý từ nửa đầu những năm 80. Vào năm 1986, lần đầu tiên thuật ngữ chính sách xã hội được sử dụng trong các văn kiện chính thức của Đại hội Đảng lần thứ VI và trở thành một tiểu mục độc lập trong Báo cáo Chính trị của Đại hội.

Lĩnh vực nghiên cứu này đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ của giới nghiên cứu và những người làm chính sách trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 80 và thời kỳ bước đầu đổi mới đầu những năm 90. Tuy nhiên, lĩnh vực nghiên cứu chính sách xã hội vào thời điểm đó còn yếu cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm, cũng như không có sự kết nối giữa chúng. Trong bối cảnh đó, Viện đã mở rộng cơ sở dữ liệu, tập trung nghiên cứu về lý thuyết, lịch sử và thực tiễn nghiên cứu chính sách xã hội của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Từ năm 1992-1993, Viện đã đề xuất một quan niệm mang tính lý thuyết về chính sách xã hội, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu thực tế chính sách xã hội Việt Nam phù hợp hơn với quá trình chuyển từ hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm này còn tạo cơ sở cho việc hình thành nên một khung phân tích cho các nghiên cứu chính sách xã hội về mặt thực nghiệm.

Từ năm 1992, Viện đã chỉ ra tầm quan trọng của học thuyết chính sách xã hội trong một quốc gia, đã khuyến nghị rằng sự quá độ của xã hội Việt Nam sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng lại học thuyết chính sách xã hội.  Nghiên cứu của Viện đã giới thiệu với bạn đọc Việt Nam những mô hình chính sách xã hội tiêu biểu trên thế giới và gợi ý rằng mô hình chính sách xã hội của Việt Nam cần xuất phát từ thực tế của đất nước đồng thời tham khảo những mô hình quốc tế tiêu biểu.

Các nhà nghiên cứu của Viện Xã hội học trong lĩnh vực này đã có những nỗ lực đề xuất khái niệm phúc lợi xã hội như là một phạm trù lý luận then chốt để khái quát hoá thực tiễn chính sách xã hội và công tác xã hội (1999). Họ cũng đã đưa ra lý thuyết về ba mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam, về sự thay thế và pha trộn hỗn hợp của ba mô hình này trong tiến trình lịch sử hiện đại cũng như trong thực tế hiện nay ở Việt Nam. Lý thuyết này đã được áp dụng trong một số công trình nghiên cứu về Tư tưởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh, chính sách phúc lợi người cao tuổi, phúc lợi doanh nghiệp, hệ thống y tế vùng cao, khu vực các tổ chức xã hội dân sự.

Bên cạnh những phát triển lý thuyết cho bộ môn chính sách xã hội, Viện đã triển khai những công trình thực nghiệm liên quan đến các bộ phận hợp thành của hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia (ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi doanh nghiệp), cũng như liên quan đến những nhóm xã hội đối tượng của chính sách xã hội (người cao tuổi, trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nghèo).  Những nghiên cứu này giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh sống và chính sách phúc lợi xã hội của Nhà nước đối với các nhóm đối tượng.

Những nghiên cứu đầu tiên về người có tuổi đã được Viện Xã hội học tiến hành từ đầu những năm 80. Bước sang thập niên 90, Viện đã phát triển lĩnh vực nghiên cứu này thành một chương trình nghiên cứu dài hạn, nhờ đó Viện trở thành một cơ quan nghiên cứu xã hội hàng đầu về vấn đề người cao tuổi ở Việt Nam. Nhiều kiến nghị của Chương trình này sau đó vài năm đã được thực tế chấp nhận. Chẳng hạn, vào năm 1992, các nhà nghiên cứu của Viện đề xuất rằng cần thành lập Hội người cao tuổi để thống nhất các phong trào của nhóm người này ở các địa phương, cần có một tờ báo riêng cho người cao tuổi, cần khôi phục các hệ thống bảo hiểm xã hội cho người già ở nông thôn và cho những người lao động đã làm việc trong khu vực hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, cần đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh sống của người cao tuổi nông thôn và phụ nữ có tuổi.  Nhiều trong số những kiến nghị trên đã xuất hiện trong cuộc sống: năm 1995, Hội người cao tuổi Việt Nam và tờ báo "Người cao tuổi" đã ra đời; từ năm 1997 Hội Phụ nữ đã có những chương trình riêng giúp đỡ phụ nữ có tuổi ở nông thôn; nhiều cố gắng ở các địa phương nhằm phát triển hình thức bảo hiểm xã hội cho nông thôn và khu vực ngoài quốc doanh phi nông nghiệp, mặc dù những cố gắng này còn đang gặp nhiều thách thức.

Phân tích của Viện tiến hành năm 1999 về xu hướng già hoá và chính sách người có tuổi ở Việt Nam đã phát hiện rằng xu hướng già hoá dân số của Việt Nam sẽ chỉ bắt đầu mạnh mẽ sau năm 2010. Song, xu hướng tăng mạnh tỷ lệ nhóm người già hơn (trên 75 tuổi) trong nhóm người cao tuổi nói chung (trên 60 tuổi) đã thể hiện rõ ngay từ cuối thập niên 90 và sẽ đậm nét hơn nữa trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Ngoài ra, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi trong số người già cũng sẽ rất cao ở Việt Nam. Dựa vào phân tích trên đây, Viện đã kiến nghị cần sớm có những nỗ lực để chủ động đương đầu với thực tế già hoá dân cư. Phân tích này cũng chỉ ra rằng mặc dù trong những năm 90 đã có những tiến triển đáng khích lệ trong các chính sách khác nhau của Nhà nước đối với nhóm người cao tuổi, song Việt Nam vẫn đang thiếu hai văn kiện quan trọng: một văn kiện mô tả định hướng chính sách già hoá dân cư tổng quát và một chương trình hành động quốc gia cho vấn đề này. Những phân tích và kiến nghị nêu trên đã nhận được sự đồng tình rộng rãi của các đối tác của Viện trong lĩnh vực này như UNFPA, HelpAge International, Hội người cao tuổi Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.

Trong thập niên 90, Viện Xã hội học đã có những đóng góp đáng chú ý trong việc phát triển những hiểu biết về lĩnh vực công tác xã hội. Đây là thập niên có sự chuyển biến mạnh mẽ về quan niệm và thực tiễn công tác xã hội.  Nhiều tổ chức đoàn thể hoạt động trong lĩnh vực này đã nhận thấy rằng thời kỳ Đổi mới đòi hỏi họ phải chuyển mình mạnh mẽ, thay đổi tận gốc rễ cách nhìn và cách làm công tác xã hội. Tuy nhiên, nhiều đoàn thể xã hội còn lúng túng trong phương hướng, quan niệm, phương pháp và bước đi. Mặt khác, sự trợ giúp quốc tế ngày càng tăng cũng dẫn đến những đòi hỏi mới về quan niệm và thực hành công tác xã hội hiện đại. Về mặt này, trong một thời gian dài, Việt Nam hầu như không hề biết đến những tiến triển mới trong quan niệm và thực tiễn công tác xã hội trong các nước đã phát triển cũng như các nước đang phát triển dựa trên nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, Viện đã có một loạt những xuất bản phẩm và lớp tập huấn, giới thiệu về lý thuyết và phương pháp luận công tác xã hội hiện đại. Viện cũng đã tiến hành nhiều nghiên cứu trường hợp về các mô hình công tác xã hội trong thực tế Việt Nam. Những nỗ lực này đã đóng góp vào việc lấp các khoảng trống trong tri thức và kỹ năng về công tác xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. 

Một đóng góp đáng chú ý của Viện trong lĩnh vực này là việc nhấn mạnh đến yêu cầu hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và thực hành chính sách xã hội và công tác xã hội. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các nhà vạch chính sách xã hội và làm công tác xã hội làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hoạt động chính trị.  Chỉ có một số trường bồi dưỡng nghiệp vụ với nội dung chuyên môn nghèo nàn cho cán bộ làm việc trong các Bộ và đoàn thể liên quan đến chính sách xã hội và công tác xã hội. Trong khi đó hầu như mọi trường đại học đều không có mã số và chương trình đào tạo về chính sách xã hội và công tác xã hội. Xuất phát từ tình hình này, Viện đã khuyến nghị cần nhanh chóng thành lập các khoa hay trường công tác xã hội trong các trường đại học, xúc tiến xây dựng chương trình đào tạo chính quy cho bộ môn chính sách xã hội và công tác xã hội. Việc thành lập phòng An sinh xã hội và Công tác xã hội trong thời gian gần đây là một giải pháp cơ bản cho việc hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá lĩnh vực nghiên cứu quan trọng này.

10. Các nghiên cứu đánh giá tác động xã hội và thẩm định chính sách

Khẳng định chức năng phục vụ xây dựng chính sách của Xã hội học, trong 20 năm qua, Viện Xã hội học đã tham gia tích cực vào các nghiên cứu có quan hệ trực tiếp với việc hoạch định chính sách và thẩm định chính sách của nhà nước. Ngoài những nghiên cứu đầu tiên về các khía cạnh xã hội của nhà ở thuộc Chương trình Tiến bộ Khoa học kỹ thuật trọng điểm cấp Nhà nước 26-01 năm 1980 - 1985, có thể kể đến các nghiên cứu thuộc Chương trình phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên trong những năm 1980; Nghiên cứu thẩm định xã hội phục vụ công trình Dự án Thuỷ điện Sơn La, trong những năm 1998 - 1999.

Một nhiệm vụ nghiên cứu khác làm tham gia Tư vấn giám sát độc lập việc giải phóng mặt bằng và Tái định cư thuộc Dự án Giao thông nông thôn giai đoạn 1 và 2 (vốn vay của NHTG) từ năm 1999 đến nay. Kết quả giám sát đã khẳng định những ảnh hưởng tích cực của việc thực hiện dự án đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống dân cư tại các địa phương thực hiện dự án.    

Đây là dự án Giao thông nông thôn có quy mô lớn đầu tiên của Việt Nam và cũng là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng khuôn khổ chính sách (theo thoả thuận giữ chính phủ và NHTG) quan tâm đến các tác động về mặt xã hội. Dự án cũng áp dụng một cách tiếp cận mới: quan tâm đến ý kiến của người dân ở cơ sở. Do đó, việc đánh giá tác động một cách toàn diện có ý nghĩa quan trọng. Các nhóm giám sát của Viện Xã hội học đã chỉ ra những thiếu sót trong việc giải phóng mặt bằng và đền bù; những sai sót thiếu thông tin đầy đủ và kịp thời đến người dân theo quy định; việc thiếu coi trọng bàn bạc thảo luận với người dân trong khi chọn các giải pháp giải phóng mặt bằng,v.v…

Viện đã tiến hành một nghiên cứu khảo sát tương tự đối với Chương trình Điện khí hoá nông thôn cùng với Tổng công ty Điện lực Việt Nam và Ngân hàng Thế giới. Nghiên cứu tập trung vào đánh giá tác động giảm nghèo của Chương trình này trên quy mô toàn quốc. Kết quả cho thấy tác động tích cực của điện khí hóa ở nông thôn các tỉnh miền núi, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em trong các gia đình nghèo. Viện đã đề xuất các khuyến nghị với Cơ quan quản lý dự án và Ngân hàng Thế giới nhằm thực hiện các can thiệp sâu hơn trong dự án đảm bảo phát triển bền vững về môi trường và kinh tế - xã hội.

Một nghiên cứu khác có liên quan đến việc thẩm định thực tiễn là dự án đánh giá “Tác động kinh tế - xã hội của việc xây dựng đường quốc lộ số 5 đến các cộng đồng dân cư quanh vùng”. Cuộc khảo sát của Viện đã chỉ ra những tác dụng tích cực của Dự án đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các cộng đồng dân cư ven đường 5. Cuộc sống của cư dân sống ở hai bên đường 5 đã bước đầu được cải thiện. Những phát hiện của nhóm nghiên cứu đã được cơ quan chủ đầu tư nhìn nhận một cách tích cực. Các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập về thiết kế, thi công, cũng như tổ chức cuộc sống cư dân đã được tiến hành sau đó. Về mặt lý thuyết, kết quả nghiên cứu của Viện đã chỉ ra hệ quả tất yếu của sự không đồng bộ giữa quá trình đô thị hoá kỹ thuật với quá trình đô thị hoá về đời  sống kinh tế, văn hoá và xã hội. Sự yếu kém  của trật tự giao thông, của ô nhiễm môi trường và sự mất thăng bằng  về hoàn cảnh sống sau nâng cấp đường 5 chính là khuyết tật của quá trình đô thị hoá cưỡng bức vì nó đã không  được chuẩn bị chu đáo về tinh thần, tổ chức và xã hội.

Thông qua các hoạt động giám sát loại này, Viện Xã hội học đã khẳng định được vai trò như một tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp, liên hệ mật thiết với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chứ không phải là một đơn vị nghiên cứu hàn lâm thuần túy. Những kết quả công việc của Viện cũng góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật và những đơn vị hoạt động kinh doanh về tầm quan trọng của yếu tố xã hội trong phát triển bền vững đất nước.

IV.  MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CƠ BẢN CỦA VIỆN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

Viện Xã hội học có sứ mệnh đưa ra những sản phẩm nghiên cứu đặc sắc, có chất lượng cao, có tính lan tỏa và làm căn cứ cho các cơ quan hoạch định chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội. Với mục tiêu này, trong những năm tới, Viện cần đưa ra những trục nghiên cứu chiến lược làm định hướng xuyên suốt cho chương trình nghiên cứu của Viện. Trên cơ sở định hướng đó, Viện hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, chuyên sâu để thực hiện các chương trình nghiên cứu.

Từ nay cho đến năm 2020, bên cạnh việc triển khai thực hiện hệ các đề tài cấp Bộ và cấp cơ sở hàng năm, và những nhiệm vụ đột xuất được giao, Viện sẽ tập trung thực hiện các nghiên cứu đánh giá tác động xã hội của quá trình phát triển và hội nhập, biến đổi cơ cấu xã hội và bất bình đẳng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, thực hiện điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của người dân về các vấn đề xã hội, cũng như nhận thức và thái độ người dân đối với các quyết định, chính sách được ban hành hiện nay. Trên cơ sở cơ cấu tổ chức và các nhóm nghiên cứu chuyên ngành được hình thành và điều chỉnh gần đây, Viện sẽ chủ động triển khai những hướng nghiên cứu sau đây:

            1. Những vấn đề xã hội trong quá trình phát triển và hội nhập

Đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện. Thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối Đổi mới đã thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã bước ra khỏi giai đoạn khủng hoảng và đã có những bước phát triển to lớn. Tiềm lực kinh tế của đất nước đã được tăng cường. Hệ thống chính trị được củng cố, các vấn đề xã hội được giải quyết từng bước. Trên trường quốc tế, hội nhập quốc tế đã mang lại nhiều cơ hội cho sự phát triển của đất nước. Với những thành tựu như vậy, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những tiền đề, điều kiện và vận hội mới.

Bên cạnh những thành tựu thu được, nhiều vấn đề xã hội đã phát sinh cùng với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cần được xem xét, nghiên cứu. Song song với những yếu kém, thiếu sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhiều vấn đề xã hội chưa được khắc phục hoặc giải quyết triệt để, dẫn đến sự tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định về kinh tế - xã hội và kể cả chính trị. Trong khi đời sống kinh tế được cải thiện thì các vấn đề văn hóa, xã hội lại đi xuống. Hàng loạt vấn đề xã hội có liên quan trực tiếp và cấp thiết trong đời sống xã hội như thu nhập, việc làm, nhà ở, đất đai, giáo dục, y tế, tội phạm, tệ nạn xã hội… chưa được nghiên cứu thấu đáo, phân tích và dự báo trên cơ sở khoa học. Với lý do đó, Viện sẽ nghiên cứu các vấn đề xã hội trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, xây dựng cơ sở khoa học cho mô hình quản lý xã hội và phát triển xã hội trong giai đoạn phát triển mới.

2. An sinh xã hội và công tác xã hội trong phát triển bền vững của đất nước

Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội (ASXH) là một trong những nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2011- 2020. Mục tiêu của chính sách an sinh xã hội là đảm bảo mọi người dân có mức sống trung bình, không rơi vào tình trạng bần cùng hóa, kể cả trong trường hợp rủi ro bất thường. Nhà nước đảm bảo việc xây dựng một mạng lưới ASXH, đảm bảo cho mọi người có một cuộc sống an toàn.

Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy, tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững không phải là mục tiêu dễ dàng thực hiện. Từ cuối năm 2007 cho đến nay, do những vấn đề đã tích tụ từ nhiều năm trước, cộng với những diễn biến không thuận của nền kinh tế thế giới, hậu quả ngày càng rõ của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, cho nên tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta đã bộc lộ những nhân tố bất ổn. Trong những năm qua, những nỗ lực kiềm chế lạm phát, thì nguy cơ giảm phát lại tiếp tục đe dọa. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu diễn ra ngay trước ngưỡng cửa của giai đoạn phát triển 2011-2020. Suy giảm kinh tế lại tác động trực tiếp đến Việt Nam do nền kinh tế đang cần phải đẩy mạnh những hoạt động xuất khẩu. Tình trạng mất việc làm và thu nhập thấp có tác động xấu đến những người làm công ăn lương. Việc làm suy giảm đồng nghĩa với việc người dân mất đi thu nhập tương xứng và một số hộ cận nghèo mới sẽ bổ sung vào danh sách nghèo. Tình trạng ô nhiễm môi trường, hiệu ứng nhà kính, nước biển dâng dẫn đến những thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước, đe dọa sinh kế và ổn định đời sống xã hội.  Hơn nữa, những năm gần đây sự thay đổi thời tiết bất thường, thiên tai, dịch bệnh luôn  rình rập làm cho đời sống xã hội gặp rất nhiều khó khăn, đối tượng chịu tác động ngày càng mở rộng.

Trước những thách thức nói trên, Nhà nước đang cố gắng xây dựng hệ thống ASXH đa tầng và linh hoạt bao gồm hệ thống Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, thị trường lao động  chủ động; quy định mức lương tối thiểu; trợ giúp xã hội; chương trình giảm nghèo... và tăng cường sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các chương trình và cấu phần ASXH. Hàng loạt chính sách ASXH được ban hành như bảo hiểm y tế, chính sách việc làm và đảm bảo thu nhập; chính sách xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Tuy nhiên để có thể đưa các chính sách xã hội vào cuộc sống, cần có được một đội ngũ nhân viên làm công tác xã hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ những người gặp khó khăn hoặc những đối tượng yếu thế bị đẩy ra ngoài lề xã hội (người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, phụ nữ, người già ...). Sứ mạng của ngành công tác xã hội là nỗ lực hành động nhằm giảm thiểu những rào cản trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội đối với cá nhân, nhóm xã hội cũng như cộng đồng. Tuy nhiên, đội ngũ công tác xã hội nước ta còn thiếu và yếu về tay nghề, chưa được đào tạo cơ bản. Đội ngũ nhân viên này phát triển có tính tự phát chủ yếu đến từ các tổ chức đoàn thể, quần chúng. Vì lý do đó, các giải pháp an sinh xã hội còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.

Bằng việc hình thành Phòng nghiên cứu An sinh xã hội và Công tác xã hội (CTXH), Viện Xã hội học sẽ thực hiện các nghiên cứu cơ bản về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở Việt Nam. Viện thực hiện cách tiếp cận quyền, xác định an sinh xã hội và đảm bảo xã hội được như một quyền cơ bản của con người. ASXH và CTXH cần hướng vào sự phát triển con người và là một yếu tố của phát triển bền vững. Thực hiện tốt chính sách ASXH nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần tăng trưởng và giảm nghèo bền vững. Đầu tư cho chính sách ASXH và CTXH cũng chính là đầu tư cho phát triển con người. Viện sẽ tập trung vào việc hoàn thiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho nông dân, cho người cao tuổi, cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản trên cơ sở gắn kết, lồng ghép ASXH trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói riêng.

3. Biến đổi cơ cấu xã hội và sự gia tăng bất bình đẳng xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Sau hơn 25 năm đổi mới và phát triển với những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, quá trình biến đổi xã hội Việt Nam đang diễn ra một cách toàn diện. Cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc Đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt về cơ cấu xã hội.  Xã hội Việt Nam đang trải qua những biến đổi lớn về cơ cấu, đó là sự mất cân đối về cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội và đặc biệt, sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; bất bình đẳng giới và bất bình đẳng xã hội gắn liền với sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống.

Có thể nói những thành tựu của công cuộc Đổi mới cũng như những vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu xã hội; song đồng thời cũng vừa là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi xã hội mạnh mẽ hơn nữa. Hội nhập quốc tế đã mang lại những lợi ích về tăng trưởng kinh tế, song những lợi ích của tăng trưởng không phân bổ không đồng đều giữa cả các vùng, miền và giữa các giai tầng xã hội. Mặc dù các thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được thế  giới ghi nhận và đánh giá cao, song giảm nghèo không bền vững. Cơ cấu xã hội mới xuất hiện các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương, sự mất dần bản sắc ở không ít tộc người thiểu số. Đối với người lao động có thu nhập thấp, thành phần chiếm đa số trong dân, ngoài việc lo cái ăn, cái mặc, đi lại hàng ngày, gánh nặng chi phí về giáo dục và y tế kéo mức sống của họ xuống thấp hơn nữa. Trong khi đó, có sự chênh lệch ngày càng lớn trong việc phân phối thành quả của đổi mới, trong đó người nghèo ít được chia sẻ những thành quả của tăng trưởng. Nguy cơ bị loại trừ là hiện hữu đối với các nhóm yếu thế.

Cơ cấu xã hội và bất bình đẳng xã hội là một vấn đề cơ bản trong quá trình phát triển bền vững mà nước ta đang hướng tới. Vai trò của mô hình liên kết nông thôn - đô thị trong quá trình phát triển cũng là một trong những định hướng ưu tiên cần nghiên cứu. Viện Xã hội học sẽ tăng cường nghiên cứu trong chủ đề quan trọng này nhằm đưa ra những dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu ở xã hội Việt Nam trong những năm tới. Đây là cơ sở rất quan trọng cho việc định hướng các chính sách cho quá trình phát triển trong các giai đoạn tiếp theo. Nghiên cứu sẽ đánh giá thực trạng, phân tích những tác động, đưa ra dự báo và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam theo hướng tích cực, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối và chiến lược phát triển đất nước nhanh, bền vững từ nay cho đến năm 2020.

4. Dân số, nguồn nhân lực và sức khỏe dân cư dưới tác động của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường

Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020.  Tuy nhiên, cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt. Tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất trong nguồn nhân lực ngày càng gay gắt. Trong số hơn 20 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 60 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,5 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ.

Trong khi đó, thị trường lao động của nước ta hiện có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu. Nguyên nhân là do thiếu thông tin cung cầu lao động, thiếu dịch vụ việc làm, chi phí xin việc khá cao không cho phép tuyển được người thực tài. Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức và kỷ luật lao động không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Do vậy, học viên sau khi được đào tạo nghề và sinh viên tốt nghiệp đại học rất khó tìm được việc làm phù hợp, thậm chí rơi vào tình trạng thất nghiệp với tấm bằng trong tay. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, công nghệ thông tin kém... Đây là một nghịch lý mặc dù phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đã được xác định là một trong ba khâu đột phá của chiến lược tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam.

 Liên quan đến vấn đề dân số, đây là một trong những lĩnh vực nghiên cứu có bề dày của Viện Xã hội học, bắt đầu ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Đáng chú ý là, sau 30 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Viện đã và đang tiếp tục tiến hành những nghiên cứu dân số từ góc độ xã hội. Chủ đề dân số sẽ được Viện tiếp tục chú trọng trong những nghiên cứu sắp tới, với ưu tiên tìm hiểu mối liên hệ giữa sức khỏe và chất lượng dân số. Đặc biệt, mối liên hệ này cần được xem xét trong bối cảnh biến đổi khí hậu và môi trường suy thoái nhanh hiện nay. Câu hỏi đặt ra là liệu có thể đảm bảo quan hệ hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường? Liệu vấn đề dân số có được quản lý hiệu quả cả về lượng và chất? Làm thế nào để hình thành các dự báo về dân số và xã hội trong điều kiện biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường? Đây là những câu hỏi chưa thể có được lời giả ngay, nhất là trong một môi trường khó đoán định với nhiều rủi ro.

5. Tiến hành các điều tra về dư luận xã hội nhằm tập hợp ý kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước

Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy từ khi các nhà nước xuất hiện, hầu như không có quốc gia nào giữ được ổn định chính trị - xã hội hoặc sự tồn tại lâu dài nếu các chủ trương, quyết sách của quốc gia đó không phù hợp lòng dân. Có nhiều phương thức để nắm bắt tâm tư, ý chí và nguyện vọng của nhân dân trong đó điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của nhân dân một cách khoa học là cách thức nắm bắt phản hồi dư luận nhanh và tin cậy nhất hiện nay. Tuy nhiên, một trong những hạn chế hiện nay trong điều tra dư luận xã hội ở nước ta là thiếu khả năng thực hiện nhanh, trong một khoảng thời gian ngắn cuộc điều tra dư luận xã hội có kích cỡ mẫu thông thường (từ 1500 đến 2000 người) nhưng vẫn đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu khoa học và tính khách quan trong kết quả thu được. Cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, số liệu và kết quả nghiên cứu chưa được quy định rõ ràng nên hiệu quả của các cuộc điều tra dư luận không cao. Điều này cũng có nghĩa là tính kịp thời và độ tin cậy của thông tin điều tra dư luận xã hội khó được đảm bảo. Do những nguyên nhân khác nhau, các kết quả điều tra dư luận thường không rõ về mặt định tính và không đầy đủ về mặt định lượng, kết quả phân tích trong các báo cáo điều tra dư luận xã hội chưa sâu, và vì vậy chưa phản ánh được hết các loại ý kiến trong xã hội đối với vấn đề cần quan tâm, tìm hiểu.

Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề quan trọng rất cần được trưng cầu ý kiến của nhân dân và nắm bắt được phản hồi từ thực tiễn khách quan để tham khảo trước khi đưa ra những quyết định, chính sách có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và đại đa số người dân. Cần tạo được niềm tin trong dân rằng các chính sách, giải pháp nhằm đạt các mục tiêu phát triển có tính khả thi cao, đồng thời cho người dân thấy bộ máy hành chính công quyền và đội ngũ cán bộ công chức có đủ năng lực và trách nhiệm để thực hiện các chính sách, giải pháp đó. Người dân sẽ ủng hộ và đồng thuận hơn khi tiếng nói của họ được lắng nghe, khi những ý kiến đề xuất được xem xét trong quá trình ra quyết định và xây dựng chính sách. Để thực hiện mục tiêu đó, điều tra dư luận xã hội có vai trò không thể thiếu được trong hoạt động nghiên cứu của Viện Xã hội học từ nay cho đến năm 2020.

Với thế mạnh về phương pháp nghiên cứu, Viện sẽ tăng cường chất lượng điều tra dư luận xã hội, đảm bảo nắm bắt kịp thời, đầy đủ và chính xác tâm tư, ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Viện chú trọng ưu tiên những nội dung điều tra liên quan đến các chính sách có quan hệ trực tiếp đến cuộc sống của người dân và xã hội. Những vấn đề như an toàn giao thông, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tạo việc làm, đảm bảo vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường, quản lý nghiêm đất đai, nhà ở, và tài nguyên thiên nhiên… luôn là những vấn đề “nóng bỏng” hàng ngày, được xã hội chú ý và người dân quan tâm. Bên cạnh đó, việc đo lường vấn đề lòng tin thì đương nhiên Viện sẽ thực hiện liên kết chặt chẽ với các cơ quan có chức năng, nghiệp vụ, thẩm quyền điều tra dư luận xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Quốc hội, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đơn vị khác trong Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu dư luận xã hội, đáp ứng kịp thời mong muốn và nguyện vọng của người dân trong xây dựng và quá trình phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

Các tin đã đưa ngày: