Đô thị hóa là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vùng, và địa phương. Đến tháng 6 năm 2020, Việt Nam có 853 đô thị, bao gồm 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 20 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 43 đô thị loại III, 85 đô thị loại IV, 672 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa Việt Nam năm 2019 đạt mức 38,4%. Nhìn chung, quá trình đô thị hóa đã mang lại nhiều lợi ích, tạo ra các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Trong đó, các nguồn thu tại khu vực đô thị đóng góp khoảng 70% tổng thu ngân sách cả nước, tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 10 – 12%, cao gấp 1,2 – 1,5 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Như vậy, phát triển đô thị không những phản ánh những thay đổi đáng kể về diện mạo, mà còn đóng góp quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế, nhất là phát triển kinh tế dịch vụ, phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế nông thôn,…

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Hoàng Hồng Hiệp, Quyền Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ cho biết, trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ, quá trình đô thị hóa ở vùng Trung Bộ đã có những bước chuyển mạnh mẽ, nhất là ở khu vực phía Đông của vùng. Tính đến nay, toàn vùng Trung Bộ có thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I trực thuộc Trung ương; 05 đô thị loại I trực thuộc tỉnh là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang; 7 đô thị loại II, 11 đô thị loại III, 15 đô thị loại IV và khoảng 140 đô thị loại V. Chuỗi đô thị lớn của vùng Trung Bộ gắn liền với khu vực ven biển phía Đông, nơi hội tụ các điều kiện thuận lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội. Ngoài ra, khu vực này còn là nơi hội tụ các khu kinh tế lớn của vùng như Nghi Sơn, Đông Nam Nghệ An, Vũng Áng, Hồn La, Chân Mây – Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nam Phú Yên, Vân Phong và nhiều khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển mạnh. Đây là những tiền đề, nền tảng quan trọng thúc đẩy quá trình đô thị hóa của vùng.
Tuy nhiên, tiến trình đô thị hóa vùng Trung Bộ cũng đã và đang bộc lộ những tồn tại, hạn chế, và thách thức đáng kể như: Đô thị phát triển không đồng đều giữa các địa phương, giữa các khu vực; quy hoạch đô thị thiếu tính định hướng và thiếu tính liên kết giữa các đô thị; không gian xanh ngày càng bị thu hẹp; hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của người dân; Năng lực chính quyền đô thị chưa theo kịp với tốc độ phát triển đô thị nhanh chóng; quá trình đô thị hóa phát triển tự phát gây mất cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa dân số và việc làm, bất bình đẳng thu nhập gia tăng, gây áp lực về giải quyết nhu cầu nhà ở, trật tự an toàn xã hội, ô nhiễm môi trường, văn hóa lối sống.
TS. Hoàng Hồng Hiệp cho biết thêm, điều đáng lưu ý, xu hướng đô thị hóa của vùng tập trung chủ yếu ở khu vực duyên hải phía đông có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế; mang đến những vấn đề trong phát triển bền vững xã hội, trong đó có vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân cư, giữa các ngành kinh tế.
Thống kê năm 2008, chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 (20% dân số có thu nhập cao nhất) và nhóm 1 (20% dân số có thu nhập thấp nhất) là 6,95 lần, thì đến năm 2018 tăng lên 8,19 lần và giảm nhẹ ở năm 2020, còn 6,93 lần, do tác động của COVID-19. Bất bình đẳng thu nhập giữa các địa phương vùng Trung Bộ cũng có sự khác nhau đáng kể, khoảng cách giữa nhóm 5 và nhóm 1 của Quảng Bình là 10 lần; Quảng Trị 10,1 lần; Hà Tĩnh 8,5 lần...
TS. Hoàng Hồng Hiệp nhấn mạnh, để thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng miền, cần chú trọng đẩy mạnh công nghiệp ở khu vực nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến. Đây là định hướng quan trọng để nâng cao thu nhập bền vững cho đội ngũ công nhân, cho cộng đồng cư dân nông thôn. Từ đó, góp phần gia tăng thu nhập cho nhóm có thu nhập thấp nhất của vùng.
“Các địa phương nội vùng cần quan tâm thực hiện các chương trình đào tạo nghề cho các đối tượng thuộc nhóm thu nhập thấp, góp phần nâng cao năng lực nghề nghiệp cho các nhóm yếu thế, qua đó góp phần nâng cao thu nhập cho các nhóm này, giảm thiểu bất bình đẳng thu nhập một cách tương đối trong vùng.
Ngoài ra, với lợi thế là vùng duyên hải có nhiều tiềm năng trong giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, vùng Trung Bộ có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút các dòng vốn FDI thâm dụng vốn và công nghệ, qua đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động trong các doanh nghiệp FDI, và các nhóm dân cư hưởng lợi gián tiếp từ dự án FDI”, TS. Hoàng Hồng Hiệp đề xuất.
Cũng tại Hội thảo, Quyền Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ, TS. Hoàng Hồng Hiệp gợi ý các quý vị đại biểu, các nhà khoa học tập trung thảo luận chuyên sâu một số vấn đề chủ yếu như: (i) Làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển đô thị, kinh nghiệm quốc tế và bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển đô thị vùng Trung Bộ; (ii) Làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển đô thị ở các địa phương vùng Trung Bộ thời gian qua; (iii) Đề xuất, gợi mở một số định hướng, giải pháp phát triển bền vững đô thị ở vùng Trung Bộ trong bối cảnh mới….
Các đại biểu phát biểu, trình bày báo cáo tại Hội thảo
Hội thảo đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và nhà quản lý đến từ các trường Đại học, Viện nghiên cứu, cơ quan Trung ương và địa phương trong Vùng. Thông qua Hội thảo, Ban tổ chức đã lựa chọn 34 tham luận khoa học chất lượng để biên tập và xuất bản kỷ yếu có chỉ số ISBN. Các nghiên cứu đã cho thấy một bức tranh đầy màu sắc về thực trạng và xu hướng phát triển đô thị của vùng Trung Bộ dưới nhiều góc độ, lăng kính, với các tiếp cận đa chiều.
Hội thảo đồng thời cũng là diễn đàn để các học giả cùng nhau trao đổi, chia sẻ các vấn đề lý luận, thực tiễn, xu hướng phát triển đô thị và định hướng, đề xuất giải pháp phát triển bền vững đô thị ở vùng Trung Bộ trong bối cảnh mới.
Hội thảo cũng nhận được rất nhiều ý kiến trao đổi, bình luận, chia sẻ chân thành, cởi mở, thiết thực từ chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước trên nhiều chiều cạnh của vấn đề phát triển đô thị vùng Trung Bộ. Đặc biệt là những vấn đề tồn tại, thách thức trong quá trình phát triển đô thị của vùng, đó là: sự phát triển đô thị không đồng đều giữa các địa phương, giữa các khu vực, chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực Duyên hải phía Đông; thiếu tính định hướng và liên kết trong quy hoạch giữa các đô thị; thu hẹp không gian xanh; hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của người dân; năng lực chính quyền đô thị chưa theo kịp với tốc độ phát triển đô thị nhanh chóng; sự mất cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa dân số và việc làm, bất bình đẳng thu nhập gia tăng, gây áp lực về giải quyết nhu cầu nhà ở, trật tự an toàn xã hội, ô nhiễm môi trường, văn hóa lối sống do quá trình đô thị hóa phát triển tự phát;…
Bên cạnh đó, các ý kiến trao đổi tại Hội thảo cho rằng cần phải tiếp cận phát triển đô thị bền vững trên 3 trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường và chú trọng vai trò trung tâm bao trùm của khung thể chế pháp lý; hình thành liên kết chuỗi đô thị, liên vùng và tiểu vùng để tạo thành một hệ thống đô thị đồng bộ, với vai trò lan tỏa phát triển của một số đô thị hạt nhân; vấn đề quy hoạch, quản lý quy hoạch và dự báo, quản lý rủi ro về thiên tai trong phát triển đô thị; sự quan tâm đủ mức cho không gian văn hóa, thực hành văn hóa trong không gian đô thị. Bên cạnh đó, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn cho rằng cần tập trung nâng cao thu nhập, giảm thiểu sự phân cực quá mức, bất bình đẳng thu nhập một cách tương đối giữa các nhóm cư dân, khu vực trong vùng là một định hướng quan trọng.

Thông qua Hội thảo các vấn đề về học thuật, thực tiễn và kinh nghiệm về phát triển đô thị miền Trung trong bối cảnh hiện nay được trao đổi, bàn luận. Đây là các vấn đề học thuật hữu ích đối với các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và nhà hoạt động thực tiễn cho cách nhìn nhận đa chiều về vấn phát triển đô thị của Vùng. Các kết quả nghiên cứu này góp phần định hướng và đề xuất các giải pháp khả thi để phát triển đô thị bền vững ở miền Trung trong bối cảnh mới, góp phần thúc đẩy phát triển Vùng theo hướng nhanh và bền vững. Đồng thời thông qua Hội thảo những ý tưởng, định hướng nghiên cứu mới được gợi mở, hứa hẹn phát sinh nhiều dự án, hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn.
Ban Biên tập