Lê Phương Hòa*
Mở đầu
Dịch Covid với khả năng lây nhiễm lớn đã gần như bao phủ khắp thế giới, tác động tiêu cực lên mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi đất nước, mỗi người dân. Ở Việt Nam, dù được coi là một trong những quốc gia có những biện pháp khống chế dịch hiệu quả và là một trong những nước hiếm hoi được đánh giá vẫn giữ được tăng trưởng dương trong năm 2020 cũng chịu những tác động tiêu cực trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trong các nhóm, lao động nữ di cư làm việc tại khu vực phi chính thức là đối tượng dễ bị tổn thương nhất bởi đặc điểm nhân khẩu cũng như đặc trưng sinh kế của họ. Nghiên cứu này sẽ tập trung đánh giá tác động của Covid lên các vấn đề an sinh xã hội của người lao động trên các mặt việc làm, thu nhập, chất lượng sống (chỗ ở, chăm sóc y tế, kết nối xã hội…tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Với sự hỗ trợ về tài chính từ RLS nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát xã hội học triển khai trên 600 mẫu định lượng và tiến hành phỏng vấn sâu để xây dựng lên 12 câu chuyện điển hình.
Nghiên cứu tập trung vào ba câu hỏi chính sau:
-
Covid 19 đã tác động như thế nào lên các mặt của an sinh xã hội của lao động nữ di cư khu vực phi chính thức?
-
Lao động nữ di cư khu vực phi chính thức đã thích ứng như thế nào trước đại dịch Covid 19?
-
Có những gợi ý chính sách nào để hỗ trợ nhóm lao động nữ di cư khu vực phi chính thức?
1. Tác động chung của Covid 19 đối với Việt Nam
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia kiểm soát tốt dịch Covid-19 ngay từ đầu thời điểm dịch khởi phát ở Trung Quốc (đầu năm 2020). Cho đến giữa tháng 9/2020 dịch đã được kiểm soát tương đối trên phạm vi toàn quốc sau làn sóng dịch thứ hai bùng phát tại Đà Nẵng trung tuần tháng 7 vừa qua. Hoạt động kinh tế - xã hội của người dân và doanh nghiệp đã dần quay trở lại nhịp độ bình thường với những biện pháp kiểm soát thận trọng. Mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trong công tác phòng chống dịch bệnh cũng như đảm bảo kinh tế, an sinh - xã hội, nhưng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, các cấu trúc kinh tế và trật tự thế giới có sự điều chỉnh và thay đổi sâu sắc, chúng ta không tránh khỏi những ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến nền kinh tế, xã hội nói chung, đời sống người dân nói riêng.
Đối với kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu u ám, Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm sáng nhờ công tác phòng chống dịch chủ động và hiệu quả. So với các quốc gia khác, Việt Nam chịu ảnh hưởng ít hơn nhưng tổng quát chung thì vẫn rất lớn. GDP tiếp tục tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 2020, đạt mức 1,8% nhưng là mức thấp nhất trong ba thập kỷ qua. Tính chung 8 tháng đầu năm 2020, cả nước có 88,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước với vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp là 13,8 tỷ đồng, tăng 8,7%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 27,9%; doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể giảm 5,9% và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm 1,9%[1].
Đại dịch đã tác động lên hầu hết các khu vực kinh tế như dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, xuống mức chưa từng có, đây là những ngành kinh tế trọng yếu của Việt Nam. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp có tốc độ tăng trưởng 1,2%, đóng góp được 11,9% cho tăng trưởng kinh tế tổng thể, ngành công nghiệp tăng trưởng 3,0% (tương đương với mức đóng góp 73,1%), còn ngành dịch vụ chỉ tăng trưởng 0,6% (tương đương với mức đóng góp 15,0%). So với các mức bình quân trong thời gian qua, ngành dịch vụ chịu tác động tiêu cực lớn hơn với mức đóng góp giảm 6,3% so với năm trước[2], còn ngành nông nghiệp lại tương đối được miễn nhiễm với mức đóng góp cho tăng trưởng GDP không thay đổi theo thời gian.
Hoạt động vận tải trong tháng 8 chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng 7 với mức giảm 19,3% lượng hành khách vận chuyển và giảm 3,4% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tính chung 8 tháng năm 2020, vận chuyển hành khách giảm 29,3% và vận chuyển hàng hóa giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế đến trong tháng 8 đạt 16,3 nghìn lượt người, tăng 16,9% so với tháng trước nhưng vẫn giảm 98,9% so với cùng kỳ năm 2019 do Việt Nam chưa mở cửa du lịch quốc tế. 8 tháng khách quốc tế đến nước ta chỉ đạt gần 3,8 triệu lượt người, giảm 66,6% so với cùng kỳ năm trước[3].
Tác động lên các vấn đề xã hôi
- Lao động, việc làm
Theo báo cáo của tổng cục thống kê, trong quý II năm 2020 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, giảm 2,2 triệu người so với quý trước và giảm 2,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 6-2020, có tới 30,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19[4], bao gồm bị mất việc, bị giảm giờ làm, giảm thu nhập… Đây là năm ghi nhận mức giảm sâu kỷ lục của lực lượng lao động từ trước đến nay. Tính đến tháng 6 năm 2020, cả nước có 30,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm những người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập, v.v… Ảnh hưởng do giảm thu nhập chiếm tỷ trọng cao nhất với 57,3% tổng số người bị ảnh hưởng (tương ứng 17,6 triệu người). Trong tổng số 30,8 triệu người bị ảnh hưởng, có 28,7 triệu người có việc làm; 897,5 nghìn người thất nghiệp và 1,2 triệu người nằm ngoài lực lượng lao động (không tham gia hoạt động kinh tế).
Trên 80% lao động trong khu vực phi chính thức, đa số là những nhóm yếu thế không có việc làm do các doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động kinh doanh để thực hiện các quy định về giãn cách xã hội. Giãn cách xã hội diễn ra cũng là lúc hàng loạt những người người nghèo, buôn bán hè phố, khuyết tật, công nhân lao động, công nhân nhập cư, người già và trẻ em bán vé số thất nghiệp và mất hoàn toàn nguồn thu nhập nuôi sống họ và gia đình.
- Thu nhập
Ảnh hưởng do giảm thu nhập chiếm tỷ trọng cao nhất với 57,3% tổng số người bị ảnh hưởng (tương ứng 17,6 triệu người)... Khu vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch Covid-19 với 72,0% lao động bị ảnh hưởng. Tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng, với 67,8% lao động bị ảnh hưởng; tỷ lệ lao động bị ảnh hưởng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 25,1%.
Thống kê[5] cho thấy, năm 2020 là lần đầu tiên trong giai đoạn 2015 - 2020 ghi nhận thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý II giảm đi so cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động là 5,2 triệu đồng, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong thị trường lao động đang phải gánh chịu những tác động kinh tế nặng nề nhất của đại dịch. Người lao động phi chính thức bị giảm thu nhập nhiều hơn so với lao động chính thức, với mức giảm tương ứng là 8,4% và 4,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Người lao động càng có bằng cấp, trình độ cao hơn, thì bị giảm thu nhập ít hơn.
- Giáo dục, y tế
Đại dịch Covid-19 cũng ảnh hưởng đến các lĩnh vực giáo dục khiến các trường học phải tạm thời đóng cửa, ảnh hưởng đến việc đến trường của 20 triệu học sinh và sinh viên; Tính đến ngày 8 tháng 2, có 62 trên 63 tỉnh, thành phố của cả nước tiếp tục cho học sinh nghỉ học đến hết 16 tháng 2 để phòng, ngừa dịch bệnh. Đến ngày 13 tháng 3, nhiều tỉnh thành trong cả nước lại tiếp tục cho học sinh nghỉ học đến hết tháng 3, riêng thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục cho học sinh nghỉ học đến 5 tháng 4. Cũng trong ngày hôm đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn hỏa tốc đến các địa phương về việc điều chỉnh khung kế hoạch thời gian năm học 2019 - 2020. Việc cho học sinh nghỉ học dài ngày một mặt đáp ứng yêu cầu an toàn cho con cái của các bậc phụ huynh nhưng lại gây ra sự xáo trộn trong sinh hoạt và đi làm của phụ huynh.
Covid-19 cũng đã khiến nhiều trường chuyển sang hình thức dạy và học trực tuyến, nhất là bật trung học và đại học, điều này một mặt gây khó khan trong chuyển đổi cơ sở hạ tầng nhưng mặt khác, lại là sức ép tốt để các trường tiếp cận công nghệ dạy và học từ xa. Sau đợt Covid-19 thứ nhất, dường như các trường và học sinh, phụ huynh đã dần làm quen với thương thức này với hình thức dạy chủ yếu qua ứng dụng Zoom và Team.
Đối với ngành y tế, tuyến đầu của công tác phòng chống dịch trong thời gian qua đã rất nỗ lực trong phòng chống dịch và đạt được những thành tựu to lớn, khẳng định y tế của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên đối với người dân, trong thời gian dịch việc tiếp cận dịch vụ y tế cũng bị hạn chế dẫn đến việc chữa trị đối với một số bệnh thông thường bị ảnh hưởng… Đặc biệt khi có sự lây nhiễm ở các bệnh viện như Bạch Mai hay các bệnh viện ở Đà Nẵng trong tháng 7 và tháng 8 vừa qua.
2. Đặc điểm của lao động nữ di cư khu vực phi chính thức
Kết quả nghiên cứu cho thấy lao động nữ di cư làm nghề tự do có đặc trưng sau:
Độ tuổi
Độ tuổi lao động di cư nữ tự do tập trung vào khoảng 30 - 55 tuổi, chiếm 66,9% cơ cấu được hỏi, đặc biệt số lao động nữ từ 55 tuổi trở lên chiếm 25%, đây là nhóm theo quy định của Việt Nam là nằm ngoài độ tuổi lao động. Rõ ràng với lao động tự do không có giới hạn về tuổi tác. Điều đáng nói là nhóm từ 19 - 29 tuổi chiếm tỷ lệ rất thấp trong lao động di cư nữ làm nghề tự do mặc dù theo các báo cáo về di cư thì đây là nhóm chiếm tỷ lệ di cư cao trong nữ. Mặc dù cần thêm dữ liệu thống kê tổng hơn nhưng điều này cũng cho thấy với lao động nữ di cư, độ tuổi trên 30 khó tìm việc làm ổn định
Trình độ học vấn. Đa số lao động nữ di cư trong khu vực phi chính thức có trình độ học vấn thấp trong đó chủ yếu có trình độ dưới Trung học cơ sở, chỉ có 14,17% tôt nghiệp Trung học phổ thông và 2,77% trên trung cấp. Điều này phù hợp với các nghiên cứu về di cư trước đây đã khẳng định học vấn là một trong những rào cản trong việc lựa chọn nghề nghiệp ở nơi đến của người di cư. Do không có trình độ nên khi di cư ra khu vực thành phố họ chỉ có thể làm những công việc không đòi hỏi tính chuyên môn
Tình trạng hôn nhân. Đa số lao động đều đang có gia đình và đã có con, nhưng phần lớn di cư không đi cùng gia đình mà đi làm để lấy tiền gửi về quê. Cuộc sống một mình ở thành phố lớn sẽ khó khăn hơn nhiều khi họ phải vừa đi làm kiếm tiền nuôi sống bản thân, vừa phải gửi tiền về quê cho người thân
Đặc điểm di cư nơi đi và đến. Trong số 600 người tham gia phỏng vấn chủ yếu là di cư khác tỉnh (từ tỉnh khác đến Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), chỉ có 50 người tại Hà Nội di cư nội tỉnh từ nông thôn ra thành phố, đây cũng là điểm khác biệt của Hà Nội sau khi mở rộng thành phố sáp nhập Hà Tây. Có thể thấy, xu hướng di cư của nhóm này là tư nông thôn ra thành phố hay từ nơi kém phát triển ra nơi phát triển hơn với mục tiêu tìm kiếm việc làm và thu nhập. Hầu hết lao động di cư đều thuê trọ theo tháng và thường ở chung nhau với chỗ ở thiếu tiện nghi. Một số rất ít lao động nữ di cư tự do được người thân cho ở nhờ.
Trong số những người được khảo sát, có hơn 2/3 có đăng ký tạm trú với địa phương. Tuy nhiên, số lượng có đăng ký ở TP. Hồ Chí Minh là 81,33% trong khi ở Hà Nội chỉ đạt gần 60%. Đây là bài toán đặt ra cho quản lý đô thị, đồng thời cũng khiến người lao động khó tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội công khi không có khai báo tạm trú chính thức với địa phương đến
Nguyên nhân di cư. Về nguyên nhân di cư, trong các cuộc phòng vấn và qua các câu chuyện điển hình đều cho thấy nguyên nhân chủ yếu liên quan đến thu nhập và việc làm. Trong khi ở quê khó tìm việc làm hoặc có việc nhưng không đủ sống thì ở thành phố, với nghề lao động tự do khá chủ động, và dẫn thu nhập không cao nhưng vấn tốt hơn ở quê nhà. Một đặc điểm khá nổi bật khác của nhóm di cư này thường là những người cùng làng, cùng xã rủ nhau lên thành phố để kiếm tiền. Điều này phù hợp với đặc trưng văn hóa làng xã hiện vẫn được bảo lưu ở nông thôn Việt Nam.
Đặc trưng công việc. Nghề nghiệp chủ yếu là bán hàng rong (bán hoa quả, tào phớ, bán đồ gia dụng) chiếm 53,0% người được hỏi trong đó tỷ lệ bán hàng rong ở Hà Nội là 41% trong khi ở TP. Hồ Chí Minh là 65%. Nhóm nghề phổ biến tiếp theo là thu mua phế liệu (đồng nát) với 37,17% trong đó tỷ lệ này ở Hà Nội là 43% và TP. Hồ Chí Minh là 31,33%. Giúp việc là nhóm nghề chiếm 6,83% nhưng khá phổ biến ở Hà Nội. Một số nghề khác như bán vé số (chỉ có ở TP. Hồ Chí Minh), bàn hàng online, may ở lề đường chiếm tỷ lệ nhỏ. Đặc điểm nghề nghiệp của lao động tự do di cư nữ là họ thường làm những nghề giản đơn, không đòi hỏi kỹ năng, trừ một số ít người làm giúp việc, nhân viên bán hàng thì đa phần chủ động hoàn toàn về thời gian và cách thức bố trí công việc của mình.
Với những công việc tự do, khả năng tiếp cận công việc dễ dàng nhưng lại rất rủi ro. Chẳng hạn như đối với đối tượng bán hàng rong, do lấn chiếm lòng đường, vỉa hè nên khi có lực lượng trật tự đi dẹp thì họ phải chạy cùng hàng hóa, chưa kể họ là đối tượng dễ bị cướp giật và tai nạn giao thông. Đối với những người thu mua phế liệu, đồng nát, nhặt rác thường tiếp cận nhiều với nguồn rác thải nên thường đối mặt với các vấn đề rủi ro y tế. Những nghề làm thuê khác do không có giao ước lao động nên dễ gặp rủi ro việc làm
Phương tiện phổ biến mà lao động nữ di cư làm việc tại khu vực chính thức sử dụng là xe đạp, tiếp theo là đi bộ và xe máy. Ở TP. Hồ Chí Minh, với đặc trưng nghề bán vé số, số ngươi đi bộ chiếm 41% trong khi số này ở Hà Nội chỉ 13,3%. Ở Hà Nội với nghề thu mua phế liệu nhiều hơn nên xe đạp được sử dụng nhiều hơn với 61,7% so với 28,7%. Vì người lao động thường lựa chọn chỗ ở gần chỗ mưu sinh nên phương tiện di chuyển cũng chủ yếu phục vụ mục đích mưu sinh tương ứng. Số người có xe máy cũng không nhiều.
3. Tác động của dịch Covid 19
Thu nhập, việc làm
Do đặc tính công việc là lao động tự do nên khi dịch Covid bùng phát đã tác động mạnh đến việc làm của nhóm làm động này, chỉ có 18.67% cho biết công việc vẫn không có gì thay đổi, tập trung ở nhóm lao động làm giúp việc. Việc hạn chế đi lại, cách ly của Chính phủ ảnh hưởng đến 27,17% việc làm của nhóm lao động này, mức độ ảnh hưởng có sự khác biệt lớn giữa Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, trong đó 49% người được hỏi cho biệt công việc của họ bị ảnh hưởng bởi lệnh phong tỏa, đây thường là những người bán hàng rong và vé số. Hơn ½ số lao động cho biết trong đợt dịch họ tạm thời không vó việc hoặc bị chấm dứt việc, tỷ lệ này ở Ha Nội cao hơn nhiều so với TP. Hồ Chí Minh với số liệu tương ứng là 83,4% so với 18,7%. Số liệu khảo sát cho thấy mức độ ảnh hưởng công việc với người lao động tại Hà Nội nặng nề hơn Hồ Chí Minh rất nhiều.
Thu nhập của nhóm lao động nữ di cư trong khu vực phi chính thức bị giảm nhiều do tác động của dịch Covid. 38,5% người lao động thuộc nhóm này cho biết họ bị giảm thu nhập nhiều và có đến 48,33% không có thu nhập trong thời kỳ dịch, trong đó 84,33% người lao động ở Hà Nội cho biết họ không có thu nhập. Đây là con số rất lớn cho thấy Covid đã ảnh hưởng nặng nề lên thu nhập của người lao động nữ di cư ở khu vực phi chính thức. Nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất về thu nhập là những người bán hàng rong, Thu mua phế liệu do trong thời gian dịch covid công việc ít, người ra đường mua hàng ít.
Thu nhập bình quân giảm mạnh, nhất là ở Hà Nội giảm từ 4.556.677 xuống còn 1.686.306 đ/người/tháng, chưa bằng ½ mức lương tối thiểu vùng (4.420.000 đồng/tháng). Thu nhập giảm sâu tác động mạnh đến vấn đề an sinh xã hội của người lao động, nhất là khi họ thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhất trong số lao động hiện nay. Lý do chính của việc giảm hoặc mất thu nhập là do giãn cách xã hội.
Lý do chính được các lao động nữ di cư trong khu vực phi chính thức dẫn đến việc giảm hoặc mất thu nhập là do giãn cách xã hội. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm nghề lao động tự do của nhóm này một khi không được ra đường hoặc khách không ra đường thì họ không có kế mưu sinh.
Chi tiêu và chất lượng sống
Trên thực tế cắt giảm chi tiêu dường như là lựa chọn và do đó, chất lượng sống và sinh hoạt của họ cũng đi xuống, an sinh không được đảm bảo, điều này thể hiện qua các khía cạnh của an sinh xã hội như sau:
Đối với ăn uống. Đa phần người lao động cho biết chi phí cho ăn uống giảm xuống, trong đó hơn 1/3 người được hỏi cho biết họ phải cắt giảm, nhiều chi phí liên quan đến ăn uống. Liên quan đến lý chi phí ăn uống giảm 75,8% cho biết do phải cắt giảm chi tiêu do những khó khăn do Covid gây nên, 50,4% những người trả lời cho biết họ không đủ tiền để mua đủ nhu cầu bình thường nên phải giảm chi phí ăn uống. Việc không đủ chi phí để đáp ứng nhu cầu ăn uống bình thường cho thấy tình trạng cực kỳ khó khăn của người lao động, ngay cả với nhu cầu tối thiểu là ăn uống để tái tạo sức lao động, cũng không đạt được ở mức bình thường.
Những điều chỉnh liên quan đến ăn uống của người lao động trong đó lựa chọn giảm thịt được lựa chọn nhiều nhất (72,33%) trong bối cảnh giá thịt tăng[6] và để tiết kiệm chi phí. Ăn nhiều rau hơn hay ăn mỳ tôm nhiều hơn là những lựa chọn tiếp theo, thậm chí có đến 30 người lao động cho biết họ phải giảm bữa, gộp bữa. Số người được cung cấp thực phẩm ở quê không nhiều. Ngay cả trong tâm dịch đợt 1 nhưng số người tích trữ đồ ăn do sợ thiếu hụt cũng không nhiều (35.67%), điều này một phần là do tâm lý không quan ngại về sự thiếu hụt đồ ăn nhưng phần lớn là do hạn chế về tài chính và điều kiện cất giữ, bảo quản khi người lao động ở thuê đều là những chỗ không tiện nghi.
Về chỗ ở. Rất ít người thay đổi chỗ ở do dịch (9,7% số người trả lời có thay đổi chỗ ở) bởi chỗ ở được lựa chọn thường liên quan đến địa bàn lao động của họ và hơn nữa những người lao động di cư thường sống thành cụm có sự tương hỗ lẫn nhau nên việc thay đổi nơi ở thường ít khi xảy ra trừ những điều kiện đặc biệt. Theo số liệu khảo sát thì hầu hết người lao động cho biết họ không gặp khó khăn về chỗ ở, nếu có chủ yếu là do thu nhập thấp hơn hoặc thậm chí không có,, trong khi vẫn phải trả tiền nhà.
Đối với nguồn điện nước đang sử dụng, theo số liệu khảo sát có sự thay đổi không đáng kể về nguồn điện, nước trước và sau dịch, điều này phù hợp với việc người lao động gần như không có sự dịch chuyển chỗ ở.
Liên quan đến sử dụng nước sạch, 72,67% người được hỏi sử dụng nước sạch (so với 73% trước dịch là thay đổi rất ít với 2 trường hợp chuyển nơi ở tại TP. Hồ Chí Minh), tỷ lệ này ở Hà Nội đạt 78,67% cao hơn TP. Hồ Chí Minh với 67,33%. Nguồn nước mà 20,17% đáp viên trả lời sử dụng nguồn nước khác thì nguồn nước chủ yếu là từ giếng đào, nước mưa, nước ao, hồ… Việc sửa dụng nước không có nguồn gốc hay không có nguồn nước cố định ảnh hướng lớn đến chất lượng sống của người lao động. Sử dụng nước sạch là một trong những tiêu chí cơ bản của an sinh, của nghèo đa chiều đã không được đảm bảo với 100% người dân ở đô thị lớn.
Việc sử dụng điện trước và sau dịch cũng có sự thay đổi nhẹ với số người dùng theo nhu cầu giảm từ 68% còn 63%, trong khi số lượng phải dùng hạn chế do điều kiện kinh tế tăng theo tỷ lệ tương ứng. Sự thay đổi này diễn ra nhiều hơn ở Hà Nội so với TP. Hồ Chí Minh.
Điều đáng nói, dịch Covid đã khiến cho người lao động quan tâm đến vấn đề sức khỏe nhiều hơn khi 86,33% cho biết đã quan tâm hơn đến vấn đề sức khỏe, đặt biệt người lao động ở TP. Hồ Chí Minh có đến 96% người dân cho biết có sự thay đổi. Covid với khả năng lây lan và những tác động tiêu cực lớn của nó buộc người dân phải thay đổi về sự quan tâm đối với sức khỏe.
Sự thay đổi này khá rõ trước những phản ứng của người lao động trong việc lựa chọn biển pháp y tế nếu bị ốm nhẹ như cảm cúm, đây là hiện tượng tương đồng với các biểu hiện khi nhiễm Covid. Nếu trước dịch chỉ có 10% lựa chọn đến cơ sở ý tế thì sau dịch số này tăng lên 17%, với mức tăng cao ở Hà Nội từ 14% lên 22,6%. Con số này tăng tương ứng với số giảm những người tự ý mua thuốc theo kinh nghiệm của bản thân. Tuy nhiên, đa số vẫn lựa chọn ra hiệu thuốc hỏi ý kiến người bán thuốc. Đây chính là đặc điểm, thói quen khá đặc trưng chung của người dân hiện nay, nếu có nhu cầu về thông tin ý tế thì người dân thường lựa chọn tự ý mua thuốc với sự tư vấn của người bán thuốc.
Khi dịch bùng phát, cũng như hầu hết người dân đa phần người lao động đều cảm thấy lo lắng, chỉ có 7% cho biết họ không lo lắng gì, đặc biệt 30,67% cho biết họ cũng có hơi lo lắng nhưng lại tin rằng mình không bị nhiễm. Với những người cảm thấy lo lắng và cần sự giúp đỡ thì đa phần dựa vào người thân, họ hàng. Điều đặc biệt là 18,8% người được hỏi ở TP. Hồ Chí Minh cho biết họ tìm sự giúp đỡ từ người thuê lao động, trong khi con số này ở Hà Nội là 0%. Ở chiều người lại, không người lao động nào ở TP. Hồ Chí Minh tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính quyền, trong khi 22,2% người lao động được hỏi ở Hà Nội tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính quyền. Các tổ chức xã hội cũng được mong chờ hơn ở TP. Hồ Chí Minh với 6,3% lựa chọn trong khi con số này ở Hà Nội là 0%. Điều này cho thấy đặc điểm khá riêng về hoạt động trợ giúp của chính quyền, tổ chức xã hội và người dân ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Trong thời kỳ cao điểm dịch, người lao động đã biết cách phòng dịch theo khuyến cáo rất tốt. 99,67% cho biết họ đeo khẩu trang khi đi ra ngoài, tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nên 73,83% cho biết họ sử dụng khẩu trang vải thay cho khẩu trang y tế, gần 90% cho biết họ thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, không chạm tay vào mắt, mũi, miệng. Những biện pháp khác như súc miệng, họng, hạn chế tiếp xúc nơi đông người cũng được gần 70% số người lựa chọn. Điều này một lần nữa khẳng định thành công của công tác tuyên truyền chống dịch của Chính phủ và sự đồng lòng của người dân trong công cuộc phòng, chống dịch Covid 19.
4. Sự thích ứng của lao động nữ di cư trước tác động của COVID
Lựa chọn ở lại hay về quê
Khi được hỏi lựa chọn ở lại hay về quê khi có thông tin dịch thì 55,67% lựa chọn ở lại thành phố. Tuy nhiên số liệu có sự chênh lệch lớn giữa 2 thành phố lớn. Nếu 70,67% lao động ở Hà Nội lựa chọn về quê thì chỉ có 18% lao động ở TP. Hồ Chí Minh lựa chọn phương án này. Mối liên hệ giữa người lao động ở tp Hồ Chí Minh với nơi di cư đến dường như chặt chẽ hơn, điều này cũng được minh chứng qua tỷ lệ đăng ký tạm trú của người lao động nữ di cư ở TP. Hồ Chí Minh cao hơn ở Hà Nội. Với những người ở lại, khó khăn nhất mà họ gặp phải là bị hạn chế đi lại. Với những người bán hàng rong, vé số hay đồng nát thì điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập, 30,5% những khó khăn do thiếu đồ ăn trong đó mức độ khó khăn của Hà Nội cao hơn TP. Hồ Chí Minh, đây cũng chính là một trong những lý do khiến người di cứ đến Hà Nội lựa chọn về quê nhiều hơn ở TP. Hồ Chí Minh.
Lựa chọn chuyển đổi nghề
Số lao động chuyển nghề do tác động của dịch Covid không cao, và với những người chuyển đổi nghề nghiệp thì họ cũng chỉ chuyển sang những nghề lao động giản đơn khác vẫn thuôc nhóm lao động tự do. Đánh giá mức độ khó khăn trong việc chuyển đổi nghề, 88,23% cho biết họ gặp khó khăn trong việc chuyển sang nghề khác, trong đó có 11,76% đánh giá ở mức rất khó. Dường như ở Hà Nội việc chuyển đổi việc làm được đánh giá có sự chênh lệch đáng kể về mức độ khó dễ, thậm chí 22,5% những người chuyển đổi cho biết khá dễ tìm việc thì ở TP. Hồ Chí Minh có đến 92% cho rằng khó chuyển đổi nghề
Lựa chọn cắt giảm chi tiêu
Do thu nhập giảm sút, việc làm bấp bênh nên những lao động này buộc phải thích ứng với điều kiện sống mới. Có đến 51,33% cho biết họ phải sử dụng đến tiền tiết kiệm, nhưng trên thực tế với những người có thu nhập thấp thì việc có tiền tiết kiệm không phải là dễ dàng, 45,83% phải đi vay mượn ngân hàng, người thân, ở TP. Hồ Chí Minh có trường hợp phải vay tín dụng đen. Nếu so sánh vùng miền thì ở Hà Nội tỷ lệ vay người thân gấp đôi TP. Hồ Chí Minh, ở chiều ngược lại tỷ lệ người sử dụng tiền tiết kiệm ở TP. Hồ Chí Minh lớn hơn. Số người phải xin trợ cấp của địa phương/cơ quan rất ít, chỉ có 3,33%, chưa bằng 1/3 số trường hợp dùng đồ quyên góp, ủng hộ, tặng miễn phí. Đây là thực trạng cho thấy trong trường hợp khẩn cấp thì hỗ trợ cộng đồng nhanh và kịp thời hơn, điều này sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần sau. 15,83% chọn phương án khác, nhưng khi được hỏi kỹ hơn về phương án khác thì câu trả lời tập trung vào vấn đề cắt giảm chi tiêu.
Lựa chọn trong tương lai khi dịch quay lại
Tại thời điểm khảo sát vào cuối tháng 7, khi dịch Covid đã kiểm soát được 2 tháng không có ca mắc mới nhưng khi được hỏi dịch bệnh có tiếp tục bùng phát hay không thì hơn 60% người được hỏi đều tin dịch sẽ bùng phát trở lại. Nếu so sánh giữa 2 tỉnh thì niềm tin này rất khác nhau, 65,33% người trả lời ở Hà Nội được hỏi cho rằng dịch sẽ không trở lại trong khi 85,67% người trả lời ở TP. Hồ Chí Minh cho rằng dịch sẽ trở lại. Đây cũng chính là sự khác biệt liên quan đến đặc điểm vùng miền và điều kiện chính trị, văn hóa mang lại.
Khi được hỏi nếu dịch vùng phát trở lại thì mức độ lo lắng thế nào, gần ½ số người được hỏi cho biết lo lắng cho sự an toàn của bản thân và gia đình, chỉ 17,7% cho biết do đã có kinh nghiệm nên không còn lo lắng. Tuy nhiên, khi được hỏi sẽ ở lại hay trở về quê thì đa phần người được hỏi lựa chọn ở lại do nếu về quê cũng khó tìm kiếm công việc khác, hoặc nếu có về quê thì cũng tạm thời hết dịch lại lên thành phố làm việc
5. Một số gợi ý chính sách
Trong ngắn hạn
-
Giải ngân từ gói hỗ trợ khẩn cấp mà Chính phủ ban hành đã mở rộng đến lao động khu vực phi chính thức, nhưng trên thực tế do yêu cầu về mặt thủ tục nên những lao động di cư ở khu vực này chưa tiếp cận được gói hỗ trợ. Chính phủ cần có những biện pháp tiếp cận đối tượng này kịp thời, bao gồm sử dụng cộng tác viên địa phương và chi trả dựa trên số căn cước công dân, không phân biệt địa bàn cư trú. Điều này giúp cho sự hỗ trợ đến được với người cần nhưng cũng đồng thời tránh chồng chéo, chi trả nhiều lần. Hiện hạ tầng công nghệ có thể cho phép nhập và kiểm tra chi trả trên một giao diện đồng nhất.
-
Việc chi trả hỗ trợ cần công khai, minh bạch. Hiện nay đã có nhiều báo cáo, nhiều phóng sự điều tra cho thấy việc chi trả tiền hỗ trợ dịch Covid đến không đúng đối tượng. Điều này gây nên bất công và bất bình trong xã hội, đặc biệt trong khi dịch diễn ra. Mặc dù người lao động ở khu vực phi chính thức, đặc biệt là lao động di cư nữ không đủ thông tin và khả năng để kiểm soát nhưng việc công khai chi trả, hỗ trợ nên được giám sát bởi các tổ chức xã hội và người dân.
-
Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, các cá nhân mạnh thường quân tham gia công tác hỗ trợ người dân. Chính quyền địa phương là nơi nắm được thông tin cụ thể về những trường hợp khó khăn, cần xã hội hóa việc hỗ trợ thông qua cung cấp thông tin chính thống, đồng thời tạo điều kiện hỗ trợ khi các tổ chức xã hội và các mạnh thường quân triển khai các hoạt động hỗ trợ khẩn cấp. Một số địa phương còn có sự nghi ngại về các hoạt động hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước.
-
Về y tế, tiếp tục tuyên truyền về phòng chống dịch để người lao động không chủ quan sau mỗi đợt dịch. Do đây là nhóm đối tượng có sinh kế gắn với đường phố nên việc họ phải ra ngoài mưu sinh là không tránh được, đây cũng là nhóm chịu rủi ro nhiều nhất nên công tác tuyên truyền về đảm bảo vệ sinh, nâng cao thể lực và phòng tránh virut cũng như các tác nhân gây hại cần được triển khai liên tục. Điều đáng nói là họ thường tiếp cận thông tin qua các kênh truyền thống như ti vi, truyền miệng nên cần lựa chọn hình thức truyền thông tương ứng.
Trong dài hạn
-
Giải pháp khôi phục kinh tế, tạo việc làm và kích cầu là giải pháp dài hơi, mang tính tổng thể. Hiện Chính phủ đã đưa ra những giải pháp tài khóa và tài chính để hỗ trợ sản xuất, kích cầu, tuy nhiên, là một nước có độ mở kinh tế vào nhóm cao nhất thế giới, ảnh hưởng của Covid đối với sản xuất và tiêu dùng trong nước phụ thuộc nhiều vào tình hình bên ngoài biên giới quốc gia. Trong điều kiện nguồn lực trong nước có hạn thì ưu tiên hàng đầu là sử dụng hiệu quả các nguồn lực có sẵn, tránh thất thoát, lãng phí. Việc để thất thoát, lãng phí không những dẫn đến đình trệ phát triển mà có thể dẫn đến mất lòng tinh trong dân. Bài học kinh nghiệm lớn nhất từ khi dịch Covid xảy ra là sự đồng thuận và tin tưởng của người dân vào quyết sách của Chính phủ, do vậy chính quyền trung ương cũng như địa phương cần phải hành động để duy trì lòng tin này.
-
Giải pháp về việc làm cho lao động di cư cần có chiến lược cụ thể. Kinh tế đường phố một mặt là giải pháp việc làm, sinh kế cho một bộ phần lớn lao động không có tay nghề, trình độ ở nông thôn di cư ra đường phố nhưng cần có sự quy hoạch, quản lý để một mặt ổn định an ninh trật tự, mặt khác đảm bảo đời sống an sinh cho người lao động. Mặc khác, ở các vùng nông thôn, cần có chiến lược đào tạo nghề phù hợp, có điểm đích cho người lao động của địa phương. Muốn làm được như vậy, chương trình đào tạo nghề nông thôn cần phải tính toán, đánh giá được được số lao động có nhu cầu di cư để tư vấn và định hướng phù hợp. Việc đào tạo nghề không chỉ tập trung vào nội dung công việc mà cần trang bị thêm các kiến thức về sinh hoạt, kỹ năng sinh tồn và chuyển đổi nghề nghiệp ở thành phố.
-
Những lao động tự do, nhất là lao động không có khai báo tạm trú hiện không được hưởng các dịch vụ an sinh xã hội theo quy định của nhà nước. Câu chuyện cũng đặt ra vấn đề về quản lý khai báo cư trú của các tỉnh thành hiện chưa đồng bộ, nơi đi và nơi đến đều chưa thể liên thông để quản lý người di cư. Đề án bỏ hộ khẩu và đăng ký thẻ căn cước gắn chip đã được thông qua nhưng với lộ trình 5 năm để xây dựng cơ sở hạ tầng thì việc quản lý hiện vẫn đặt nặng trên vai chính quyền nơi đến. Do vậy, chính quyền nơi đến cần có sự quan tâm, sát sao hơn trong việc hỗ trợ người di cư ổn định đời sống và hỗ trợ trong trường hợp khẩn cấp. Các trạm y tế địa phương nên mở rộng cửa đối với những đối tượng không đăng ký tạm trú, tạm vắng với các dịch vụ tư vấn tế. Đồng thời, cần tuyên truyền để người lao động biết cách chăm sóc và bảo về sự khỏe của mình, để họ không ngại tìm đến các dịch vụ y tế công ích tại địa phương đến.
-
Huy động sự chung tay của cộng đồng trong phòng, chống dịch bệnh là thành công lớn của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là việc nâng cao tinh thần chia sẻ khó khăn, đoàn kết cộng đồng, tương thân tương ái đã phát huy tác dụng tích cực cho cuộc chiến chống dịch. Trong bối cảnh dịch bệnh, kinh tế suy giảm, thất nghiệp gia tăng và phát sinh nhiều vấn đề xã hội, việc phát huy hơn nữa tinh thần đó thông qua việc tạo điều kiện cho các tổ chức cộng đồng được hoạt động là rất cần thiết. Những tổ chức này không chỉ có vai trò gây quỹ cộng đồng ủng hộ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cực trong việc tăng cường sự tương thân tương ái, hỗ trợ lẫn nhau và cùng nhau tạo ra sự thay đổi và phục hồi sinh kế cho người yếu thế sau khi dịch đi qua.
* TS., Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Tham luận là một phần của báo cáo Đánh giá tác động của dịch Covid -19 lên an sinh xã hội của lao động nữ di cư tại các thành phố lớn do Quỹ RLS tài trợ, được tiến hành khảo sát trong tháng 7/2020.
[1] Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 8 tháng đầu năm 2020.
[2] Tổng cục Thống kê, 6/ 2020
[3] Tổng cục Thống kê, 8/2020
[4]Theo Báo cáo Tình hình Lao động việc làm quý II và sáu tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê (GSO) được công bố sáng 10-7.
[5]Tổng cục Thống kê, 2020.
[6] Giá lợn hơi trên cả nước liên tục tăng trong suốt 5 tháng đầu năm 2020, luôn ở mức trên 90.000đ/kg, có thời điểm cuối tháng 5/2020 giá lên trên 100.000 đ/kg (xem thêm http://vinanet.vn/thi-truong1/tom-luoc-thi-truong-thit-lon-6-thang-dau-nam-2020-732280.html
Tài liệu tham khảo
1. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 8 tháng đầu năm 2020.
2. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm, 6/ 2020.
3. Tổng Cục thống kê, Tình hình lao động việc làm quý II và sáu tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê (GSO) được công bố sáng 10-7
4. http://vinanet.vn/thi-truong1/tom-luoc-thi-truong-thit-lon-6-thang-dau-nam-2020-732280.htm
5. http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=222701
6. http://baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-ha-noi-ho-tro-hon-385000-nguoi-kho-khan-do-dai-dich-covid19-611e07b4.aspx
7. http://dangcongsan.vn/xa-hoi/tp-ho-chi-minh-hoan-thanh-chi-tra-ho-tro-nguoi-bi-anh-huong-boi-covid-19-559694.html
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Covid-19, đại dịch và những vấn đề đặt ra đối với phát triển bền vững”,
Hà Nội, ngày 30/11/2020.