Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Nhìn từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945

11:55 18/08/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1945-2025), đồng thời chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025-2030, Cổng Thông tin điện tử Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Chi bộ Viện Sử học

Ngày 3-2-1930 là một mốc son vô cùng quan trọng của lịch sử dân tộc Việt Nam, đó là ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Những năm đầu thế kỷ XX, nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam nổ ra nhằm chống lại chính sách khai thác và áp bức của thực dân Pháp. Có thể kể đến các khuynh hướng và phong trào đấu tranh đầu thế kỷ XX đó là: Phong trào Đông du sang Nhật Bản của Phan Bội Châu (1905), phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh (1905), cùng các phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân trên khắp mọi miền đất nước, như: Phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908), vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (1908), cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916), khởi nghĩa của binh lính ở Thái Nguyên (1917),… Tuy nhiên, các phong trào, các khuynh hướng đấu tranh đó đều thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Cũng từ đây đã mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Một trong những thử thách đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới thành lập là lãnh đạo cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và lật đổ chế độ quân chủ, đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945.         

Trước khi tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân đấu tranh qua các giai đoạn như: Phong trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh; giai đoạn 1936-1939, với mục tiêu đấu tranh là đòi các quyền dân sinh, dân chủ; bước sang giai đoạn 1939-1945, trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, Đảng đã chuẩn bị mọi mặt như: chuẩn bị lực lượng chính trị, chuẩn bị lực lượng vũ trang, thành lập các căn cứ địa cách mạng, tập dượt cho quần chúng đấu tranh,… khi thời cơ cách mạng đến, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trên cả nước, đưa dân tộc ta thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Nhà nước của dân, do dân và vì dân.                    

*

Tháng 9 năm 1939, Thế chiến thứ II bùng ở châu Âu, với việc Đức tấn công Ba Lan. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11-1939), tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, nhằm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng, đối phó với tình hình trong nước và quốc tế. Hội nghị đã nhận định, cách mạng Đông Dương phải tiến tới giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc, dù là Pháp hay Nhật. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai; giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Đồng thời, Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm tập hợp đông đảo các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần chống đế quốc, muốn giải phóng dân tộc. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng, đánh dấu sự nhạy bén về chính trị và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.          

Thế chiến thứ II nổ ra không lâu, tại Đông Dương, ngày 22 tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật tấn công vào Lạng Sơn, mở đầu cho việc xâm chiếm Đông Dương. Khi quân đội phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn, tại đây, thực dân Pháp không thể chống trả trước sức mạnh từ phía quân đội phát xít Nhật, đây là cơ hội tốt để dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã vùng lên truy quét tàn quân Pháp, đánh chiếm nhiều đồn bốt, thủ tiêu nhiều lực lượng thân Pháp. Cũng từ đây, đội Du kích Bắc Sơn được thành lập, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn giành thắng lợi.  

Đến tháng 11 năm 1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 của Đảng đã họp tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ mới cho cách mạng Việt Nam. Khi đó, Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: Do ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, mâu thuẫn giữa chúng và nhân dân Đông Dương càng trở nên sâu sắc, một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để giành lấy sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành tự do, độc lập.  

Khi phát xít Nhật đã hiện diện ở Đông Dương, chúng ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân Việt Nam và các nước Đông Dương. Dưới tầng áp bức bóc lột của Pháp và Nhật, nhân dân ta càng thêm khổ cực, chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa, trồng đay. Sự câu kết giữa Nhật và Pháp khiến nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng.             

Khi bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những thay đổi nhanh chóng, mùa Xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước sau nhiều năm bôn ba tìm đến chân lý giải phóng dân tộc. Không lâu khi về nước, Người đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941), tại Hà Quảng, Cao Bằng. Hội nghị chủ trương giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là thực dân Pháp, phát xít Nhật và các lực lượng phản động tay sai. Hội nghị nhấn mạnh, trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa, trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến hàng vạn năm cũng không đòi lại được. Để chuẩn bị sẵn sàng cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ cách mạng đến, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân đấu tranh cho mục tiêu giải phóng dân tộc. Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11 năm 1939).          

Tháng 10 năm 1944, Hồ Chí Minh gửi một bức thư ngỏ cho đồng bào toàn quốc, Người nhận định: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.

Cuối năm 1944, đầu năm 1945, do ảnh hưởng của chính sách vơ vét của Pháp-Nhật, đã khiến đồng bào ta lâm vào cảnh đói kém. Từ thực tế này, Đảng đã phát động phong trào: “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu của Đảng đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, nên đã phát động được một cao trào đấu tranh mạnh mẽ. Phá kho thóc là hình thức thích hợp để phát động hàng triệu quần chúng tham gia cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ phong trào phá kho thóc, không khí khởi nghĩa từng phần đã phát triển đến cao trào, nhiều địa phương đã thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân.  

Trước yêu cầu của cách mạng và để chuẩn bị lực lượng sẵn sàng cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tháng 12-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra Bản chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ngày 22-12-1944, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân-tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chính thức đ­ược thành lập, do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Chỉ hai ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã gây tiếng vang bằng việc đánh thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần. Với uy thế và thắng lợi này, căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng đã được mở rộng, góp phần tạo thế và lực cho cách mạng.          

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương. Lúc này, thời cơ cách mạng đang đến rất gần, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng họp tại Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 9 đến 12 tháng 3 năm 1945, Hội nghị đã quyết định ban hành Chỉ thị: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Đồng thời, Chỉ thị yêu cầu các địa phương: "Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa" và "sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện".         

Không lâu sau khi có Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", tháng 4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, tại Hiệp Hòa, Bắc Giang. Hội nghị chỉ rõ: “Phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”.

Đến tháng 8-1945, trước tình hình cách mạng chuyển biến mau lẹ, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến gần, ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa ra “Quân lệnh số 1” hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào, Tuyên Quang. Hội nghị xác định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập dân tộc đã tới”, và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào vào Đông Dương.

Ngày 16 tháng 8, tại Tân Trào, Tuyên Quang, Đại hội Quốc dân được tiến hành. Đại hội thông qua Mệnh lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, và lập ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta [...]. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”.      

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân khắp mọi miền đất nước đã vùng dậy mạnh mẽ, với khí thế cách mạng rầm rộ, nên chỉ trong khoảng hai tuần, Tổng khởi nghĩa đã diễn ra và thắng lợi trên toàn quốc.                   

Tại Hà Nội, ngày 17-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, nhân dân đã biến cuộc mít tinh của Tổng hội công chức do Nhật dựng lên thành cuộc mít tinh của Việt Minh. Trước tình hình đó, Ủy ban khởi nghĩa Thành phố quyết định biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu tình tuần hành của nhân dân. Đoàn tuần hành diễn qua Tòa thị chính, Phủ Toàn quyền và các đường phố, họ hô vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Tối ngày 18 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi. Ngày 20-8-1945, Uỷ ban Nhân dân cách mạng Bắc Bộ và Uỷ ban Nhân dân cách mạng Hà Nội được thành lập. Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội đã tạo đà cho việc giành chính quyền ở các địa phương trong cả nước.

Tại các tỉnh miền Trung, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra và thắng lợi. Tại Huế, ngày 23 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban khởi nghĩa đã tuyên bố thành lập Uỷ ban Nhân dân cách mạng. 

Ngày 20 tháng 8 năm 1945 tại Sài Gòn, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa. Đến ngày 25 tháng 8 năm 1945, các đơn vị như: Xung phong Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, cùng với nông dân, công nhân từ các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho,… kéo về mang theo vũ khí, với tinh thần quật khởi, quần chúng nhanh chóng làm chủ tình thế, chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Nhà ga, Bưu điện, Nhà máy điện,… và giành chính quyền về tay nhân dân.   

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về Hà Nội. Ngày 27 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam triệu tập cuộc họp các thành viên trong Ủy ban. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội quốc dân Tân Trào bầu ra được cải tổ thành Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Ngày 28 tháng 8 năm 1945, các thành viên của Chính phủ lâm thời được kiện toàn, gồm 15 người, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.  

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, cuộc mít tinh tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã diễn ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và tuyên bố rộng rãi với toàn thể đồng bào quốc dân và nhân loại trên thế giới rằng: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc,…". Và: “Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.  

***

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, của quá trình chuẩn bị lực lượng toàn diện về mọi mặt, của nghệ thuật chủ động đón thời cơ cách mạng, của chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên khắp mọi miền đất nước,... Từ thực tiễn Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho thấy, Đảng ta luôn chỉ đạo kịp thời, sáng suốt, bám sát sự vận động của tình hình cách mạng trong nước và bối cảnh quốc tế để có chiến lược, sách lược chỉ đạo phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.        

Nhìn lại 80 năm qua, giá trị và bài học lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn trường tồn theo năm tháng. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đã chứng minh một chân lý không bao giờ thay đổi kể từ khi Đảng thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 là: Đảng lãnh đạo luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam./.    

Nguồn: Chi bộ Viện Sử học

In trang Chia sẻ

Tin khác