Giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp để hướng tới nền nông nghiệp xanh

12:01 01/11/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, đồng thời cũng là ngành gây phát thải khí nhà kính khổng lồ, làm gia tăng sự nóng lên toàn cầu. Thực tế này đòi hỏi cần có những mô hình giảm phát thải, phát triển bền vững trong ngành nông nghiệp.

Theo số liệu kiểm kê khí nhà kính năm 2020 do Viện Môi trường Nông nghiệp tính toán, tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương (CO₂tđ), tăng gần gấp đôi so với năm 2010, trong đó lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 116,51 triệu tấn CO₂tđ riêng trồng trọt (canh tác lúa và một số loại cây trồng chủ lực, đốt phế phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng) chiếm khoảng 80% tổng phát thải của ngành nông nghiệp, chủ yếu là phát thải khí CH₄ từ sản xuất lúa nước do tập quán canh tác ngập nước liên tục, sử dụng phân bón chưa hiệu quả và chưa có phương án xử lý rơm rạ sau thu hoạch hiệu quả[1]. Nếu không có giải pháp tổng thể, các thực hành canh tác cũ sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu tới môi trường mà sản xuất nông sản của Việt Nam sẽ gặp nhiều rào cản từ thị trường quốc tế khi các yêu cầu về giảm phát thải, chứng nhận bền vững và truy xuất dấu vết các-bon ngày càng khắt khe.

Trong nhóm cây trồng, sản xuất lúa là nguồn phát thải KNK lớn nhất, hiện chiếm 50,31% lượng phát thải KNK và hơn 75% lượng CH₄ của toàn ngành nông nghiệp[2]. Vì vậy, Việt Nam cam kết đến năm 2050 nước ta sẽ giảm phát thải ròng về không và hàng loạt mô hình nông nghiệp xanh, công nghệ cao tiêu biểu như đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Định hướng chính sách trong bối cảnh mới

Trong tiến trình thực hiện cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Chính phủ Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm định hướng sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng theo hướng phát thải thấp. Một dấu mốc quan trọng là Quyết định số 300/QĐ-TTg ngày 28/3/2023 đã phê duyệt Đề án chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm Việt Nam theo hướng minh bạch - trách nhiệm - bền vững giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045 (Quyết định số 300/QĐ-TTg)[3]

Với những lợi ích to lớn từ mô hình sản xuất giảm phát thải, Ngày 29/9/2025 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ký ban hành Quyết định số 4024/QĐ-BNNMT phê duyệt Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035,tầm nhìn đến 2050” nhằm tạo cơ sở, hành lang pháp lý thuận lợi cho mô hình này, từ đó nhân rộng mô hình vào các lĩnh vực trồng trọt, sản xuất nông nghiệp. Đề án không chỉ đơn giản là một nhiệm vụ chuyên môn thuần tuý mà còn là cam kết của Việt Nam về một nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm; góp phần đáng kể vào việc thực hiện cam kết chính trị quan trọng về  Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, như Chính phủ đã công bố tại COP26.

Đề án sản xuất trồng trọt phát thải thấp giai đoạn 2025-2030 đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030, ngành trồng trọt phấn đấu giảm 30% tổng lượng khí metan (CH₄) và ít nhất 10% tổng phát thải khí nhà kính so với năm 2020. Diện tích áp dụng các biện pháp canh tác phát thải thấp sẽ đạt ít nhất 2,5 triệu ha vào năm 2030, tập trung tại các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

Việc giảm phát thải sẽ được thực hiện thông qua các biện pháp kỹ thuật phù hợp với từng vùng sinh thái và nhóm cây trồng. Qua đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng trồng trọt, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, từng bước hình thành nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, có khả năng chống chịu tốt trước tác động của biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện các cam kết Việt Nam trong NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định).

Đề án mang lại nhiều tác động tiêu cực như: (1) về môi trường và khí hậu, các giải pháp canh tác tiên tiến như tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân hữu cơ, tái chế phụ phẩm nông nghiệp, quản lý nước và dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp giảm mạnh phát thải khí mê-tan (CH₄) và nitơ oxit (N₂O) – hai loại khí có tác động gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất trong nông nghiệp. Dự tính, khi mở rộng áp dụng trên phạm vi cả nước, Đề án có thể giúp giảm trên 20 triệu tấn CO₂ tương đương mỗi năm, đóng góp thiết thực vào mục tiêu giảm phát thải quốc gia trong giai đoạn tới; (2) về kinh tế và sinh kế, một số mô hình canh tác phát thải thấp đã chứng minh hiệu quả: giảm 10–20% chi phí đầu vào, tăng 5–10% năng suất, nâng 8–15% thu nhập cho nông dân. Đồng thời, nông sản phát thải thấp sẽ được thị trường quốc tế quan tâm hơn từ đó góp phần tiếp cận các thị trường có giá trị cao, xây dựng phân khúc sản phẩm bền vững, trách nhiệm cho nông sản Việt Nam. Bên cạnh đó cũng mở ra cơ hội tham gia thị trường tín chỉ các-bon, thu hút nguồn tài chính xanh và đầu tư bền vững từ các đối tác toàn cầu; (3) về tổ chức sản xuất và nhận thức, các hoạt động trong khuôn khổ đề án được kỳ vọng sẽ tạo tiền đề hình thành hệ thống quản lý phát thải khí nhà kính trong trồng trọt thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống MRV thống nhất, minh bạch; đồng thời thúc đẩy sự chuyển biến về tư duy từ sản xuất “tăng số lượng” sang sản xuất “xanh, thông minh, có trách nhiệm với môi trường”.

Vấn đề đặt ra khi thực hiện đề án

  • Cơ chế chính sách và nguồn lực: thể chế và chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hỗ trợ sản xuất phát thải thấp chưa được xây dựng đồng bộ, trong khi khung pháp lý cho thị trường carbon nông nghiệp còn thiếu. Khó khan trong việc huy động, lồng ghép, và phân bổ hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, vốn ODA, tài chính xanh, vốn xã hội hóa cho các nhiệm vụ của Đề án.
  • Mô hình và kỹ thuật canh tác: Lựa chọn, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình canh tác phát thải thấp theo vùng sinh thái; xây dựng bộ tiêu chí kỹ thuật và nhãn hiệu “Phát thải thấp. Việc nhân rộng các mô hình này gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu tư ban đầu cao, hạ tầng thủy lợi chưa đồng bộ và tập quán canh tác của nông dân khó thay đổi.
  • Khó khăn trong việc khả năng mở rộng sản xuất giảm phát thải theo đặc thù của từng địa phương, từng vùng sinh thái. Ở khía cạnh thị trường và tài chính, một trong những trở ngại lớn là chưa hình thành được cơ chế thương mại hóa tín chỉ carbon trong nông nghiệp. Do vậy, các hoạt động giảm phát thải hiện chưa đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho nông dân và hợp tác xã. Điều này khiến lợi ích ngắn hạn của nông dân chưa được đảm bảo, ảnh hưởng đến động lực chuyển đổi.
  • Cơ chế hợp tác: Đề xuất cơ chế hợp tác công – tư, liên kết quốc tế tận dụng nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ của đề án, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản phát thải thấp.
  • Nâng cao năng lực và truyền thông: Phát huy vai trò của hệ thống khuyến nông, báo chí, truyền thông để lan tỏa tinh thần “nông nghiệp xanh – phát thải thấp – thích ứng thông minh với khí hậu”.  Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp còn tồn tại nhiều bất cập. Phần lớn diện tích canh tác vẫn do các hộ nông dân nhỏ lẻ quản lý, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật và giám sát phát thải. hận thức của người dân và cán bộ địa phương về sản xuất phát thải thấp còn hạn chế, trong khi vai trò của hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp chưa được phát huy đầy đủ để dẫn dắt chuỗi giá trị. Sự thiếu gắn kết giữa các tác nhân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ làm giảm hiệu quả thực thi chính sách, đồng thời hạn chế khả năng xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp ở quy mô quốc gia.

Một số giải pháp

  1. cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho sản xuất nông nghiệp phát thải thấp, đặc biệt là xây dựng và vận hành hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV) theo chuẩn mực quốc tế.
  2. Hạn chế sử dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), là sử dụng hiệu quả phân bón và thay thế chúng bằng phân bón hữu cơ vi sinh, Phân bón hữu cơ không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà chúng còn có vi sinh vật có ích giúp tiêu diệt sinh vật có hại theo cơ chế tự nhiên, đặc biệt chúng còn cải tạo đất và kích rễ giúp cây trồng hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn. Thuốc BVTV ta cũng có hai phương án là tạo điều kiện bất thuận cho sâu bệnh và cỏ dại phát triển ;
  3. Sử dụng công nghệ tuần hoàn, thiết bị ít gây ô nhiễm như chế biến rơm rạ thành phân bón hoặc sản phẩm khác thay vì đốt thủ công gây ô nhiễm môi trường. Thay phun thuốc trừ cỏ bằng cắt cỏ và mang đi ủ thành phân bón vô cơ.
  4. Tổ chức sản xuất, cần tiếp tục đẩy nhanh tái cơ cấu theo hướng liên kết chuỗi giá trị, phát huy vai trò của hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp trong việc dẫn dắt sản xuất, tiêu thụ và xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp. Thông qua các chuỗi liên kết, nông dân không chỉ tiếp cận được công nghệ và nguồn vốn, mà còn được đảm bảo đầu ra ổn định, từ đó nâng cao niềm tin và sự sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi.

 


[1] Viện Môi trường Nông nghiệp (2020). Số liệu kiểm kê KNK quốc gia năm 2020. Hà Nội.

[2] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022). Báo cáo kiểm kê KNK quốc gia. Hà Nội.

[3] Quyết định số 300/QĐ-TTg ngày 28/3/2023 phê duyệt Đề án chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm Việt Nam theo hướng minh bạch – trách nhiệm - bền vững giai đoạn 2023–2030, tầm nhìn 2045.

 

Nguồn: Viện Địa lý nhân văn và phát triển bền vững

Tác Giả: Nguyễn Thị Bích Nguyệt

In trang Chia sẻ

Tin khác