Tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương, khi mới 16 tuổi, đồng chí đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, tích cực tham gia các phong trào yêu nước ở quê hương, 17 tuổi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Những ngày đầu tham gia cách mạng tại quê nhà Nghệ An, Chu Huy Mân đã dũng cảm chiến đấu trong các đội Xích vệ (Tự vệ đỏ), cùng đồng đội kiên quyết chống sự đàn áp khủng bố của Pháp và bảo vệ những cuộc đấu tranh chính trị sôi động của quần chúng nhân dân trong phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931).
Trong thời kỳ hoạt động bí mật (1937 - 1940), bị thực dân Pháp nhiều lần bắt giam, tra tấn, tù đày, đồng chí được tôi luyện ý chí, bản lĩnh cách mạng kiên trung, lòng yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Năm 1943, sau khi vượt ngục, đồng chí về chắp nối cơ sở, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Nam, được phân công làm Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam. Đồng chí cùng lãnh đạo tỉnh Quảng Nam tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, tạo cơ sở, điều kiện căn bản cho địa phương bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Cuối năm 1945, đồng chí được Trung ương Đảng điều ra Huế giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân chính Khu C gồm 4 tỉnh Bắc Trung Kỳ (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam), Chính trị viên Mặt trận Đường 9 Đông Hà - Xavanakhet. Đồng chí Chu Huy Mân có công lớn trong việc vận động tập hợp quần chúng, xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng ở địa phương, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng từ ngày đầu thành lập nhà nước dân chủ nhân dân dân non trẻ.
Với phẩm chất của tài năng về chính trị và quân sự, cuối năm 1946, đồng chí được Trung ương điều ra Việt Bắc để xây dựng các trung đoàn chủ lực, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng ban Kiểm tra; Khu ủy viên Khu 1; Trung đoàn trưởng; Bí thư Trung đoàn ủy Trung đoàn 72 Bắc Kạn, Trung đoàn 74 Cao Bằng - những trung đoàn chủ lực đầu tiên của Việt Bắc; Chính ủy Trung đoàn 174 Cao - Bắc - Lạng gắn liền với chiến công vang dội trên Đường số 4.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta bước sang giai đoạn giành và giữ thế chủ động, đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục được giao các trọng trách: Phó Chính ủy, Chính ủy, Bí thư Đại đoàn ủy Đại đoàn 316 - một trong sáu đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên các cương vị được giao, đồng chí cùng với tập thể Đại đoàn ủy, Bộ Chỉ huy Đại đoàn tiến hành củng cố hệ thống tổ chức đảng, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, tổ chức huấn luyện quân sự chính trị cho bộ đội theo hướng đánh tập trung có hiệp đồng binh chủng. Dưới sự lãnh đạo của Đại đoàn ủy, Bộ Chỉ huy và đồng chí Chu Huy Mân, Đại đoàn 316 đã tham gia nhiều chiến dịch lớn có ý nghĩa quyết định, làm thay đổi cục diện trong cuộc kháng chiến chống Pháp như: Chiến dịch Hòa Bình (1951), Chiến dịch Tây Bắc (1952), Chiến dịch Thượng Lào (1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Cùng với những chiến công trên mặt trận quân sự, trong giai đoạn này, trên nhiều cương vị chỉ huy khác nhau, đồng chí Chu Huy Mân luôn thể hiện là cán bộ tiêu biểu về sự đoàn kết, nhất trí trong lãnh đạo được cán bộ, chiến sĩ, nhân dân địa phương nơi đóng quân tin tưởng, yêu mến.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của dân tộc, đồng chí được Đảng, Nhà nước, Quân đội tin tưởng giao nhiệm vụ đảm nhận nhiều trọng trách, nổi bật là nhiệm vụ giúp cách mạng Lào. Thấm nhuần lời dạy “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, đồng chí Chu Huy Mân đã đem hết tâm sức và trách nhiệm cùng lực lượng chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế, góp phần giải quyết thành công các vấn đề cơ bản, trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Lào.
Với tài năng và thành tích nổi bật, đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục được giao trọng trách như: Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy 4 (1957), Bí thư Khu ủy Tây Bắc, đồng thời là Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Tây Bắc (1958-1960), Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4 (1961-1963). Trên cương vị người đứng đầu về công tác Đảng, công tác chính trị, đồng chí đã vận dụng sáng tạo những chủ trương, quan điểm cơ bản của Đảng về phát triển tổ chức đảng, tổ chức lực lượng vũ trang và thế trận chiến tranh nhân dân, đưa vùng Tây Bắc phát triển toàn diện. Kết quả phát triển của vùng Tây bắc gắn liền với vai trò của đồng chí Chu Huy Mân được Trung ương đánh giá là đúng đắn, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao, là một bài học kinh nghiệm quý báu cần phát huy và nhân rộng.
Năm 1964, đồng chí được Trung ương điều vào chiến trường Khu 5 - chiến trường nóng bỏng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đồng chí lần lượt giữ các chức vụ Trưởng đoàn Kiểm tra của Quân ủy Trung ương nghiên cứu phong trào cách mạng của Khu 5, Phó Bí thư Khu ủy, Bí thư Quân khu ủy, Chính ủy Quân khu 5 rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Mặt trận B3 - Tây Nguyên. Từ năm 1967 đến năm 1975, đồng chí làm Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh, Phó Bí thư Quân khu ủy Quân khu 5. Chính những quyết định sáng suốt, quyết đoán của Đại tướng Chu Huy Mân và tập thể lãnh đạo Khu ủy Khu 5 và Mặt trận Tây Nguyên đã góp phần quan trọng vào việc xác định cách đánh, xây dựng được lòng tin, quyết tâm “dám đánh, biết đánh và biết thắng” cho quân và dân ta. Nhờ vậy mà thế trận chiến tranh nhân dân trên chiến trường Quân khu 5 ngày càng được củng cố và phát triển, là cơ sở quan trọng để quân và dân ta thực hiện chiến lược tiến công, lần lượt đánh bại các chiến lược, chiến thuật của địch. Suốt thời gian gắn bó với mảnh đất Khu 5 - Tây Nguyên, tài thao lược của đồng chí đã góp phần làm nên nhiều chiến công vang dội, nổi bật như chiến thắng Ba Gia (1965), Plei Me (1965), Sa Thầy (1966), Cấm Dơi - Quế Sơn (1972), Nông Sơn - Thượng Đức (1974)… Trong cuộc Tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đồng chí Chu Huy Mân là Chính ủy Chiến dịch Đà Nẵng, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 5 phối hợp với cánh quân phía Bắc của Quân đoàn 2 tiến công giải phóng Đà Nẵng và các đảo trên Biển Đông, sau đó tiến về Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những trận đánh, chiến dịch thắng lợi giòn dã diễn ra trên khắp các chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, khẳng định Đại tướng Chu Huy Mân là một nhà chiến lược quân sự lỗi lạc. Trí tuệ, tài năng quân sự - chính trị của đồng chí Chu Huy Mân trong đấu tranh cách mạng góp phần làm phong phú nghệ thuật chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Với những cống hiến đặc biệt xuất sắc của mình, đồng chí là một trong số ít người được phong quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng (1958) lên Thượng tướng vào năm 1974.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, được giao trọng trách Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Đảng ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1977 - 1986). Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa II, IV, VII và được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước (1981).
Là người phụ trách công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội, đồng chí Chu Huy Mân đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt, phẩm chất cao quý của một vị tướng, tài thao lược và tính quyết đoán đã được đồng chí Chu Huy Mân phát huy cao độ trong lãnh đạo xây dựng Tổng cục Chính trị ngày càng lớn mạnh, đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Với những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, năm 1980, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng.
Với nền tảng kiến thức sâu rộng, tư duy nhạy bén, sắc xảo, cùng những kinh nghiệm quân sự, chính trị đã được tôi luyện trong những năm tháng chiến tranh, đồng chí Chu Huy Mân đã góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra trong bối cảnh Việt Nam sau chiến tranh, thời kỳ đổi mới, xây dựng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, động viên quân và dân cả nước tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạ diệt chủng và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc. Đồng chí luôn nhấn mạnh với cán bộ Đảng và Nhà nước cần phải xây dựng cho được ý thức, động cơ phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân là trên hết, chống bệnh quan liệu, độc đoán, chuyên quyền, tham ô, lãng phí.
Với công lao và thành tích hoạt động cách mạng, đồng chí được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Ðảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Nhà nước ta và các nước bạn.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Chu Huy Mân là tấm gương sáng ngời của người chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, suốt đời “trung với nước, hiếu với dân”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Đồng chí Chu Huy Mân là một cán bộ lãnh đạo cấp cao tiêu biểu của Đảng và Nhà nước, một tướng lĩnh xuất sắc, chính trị, quân sự song toàn của quân đội ta, là tấm gương sáng cho toàn quân, toàn dân ta học tập”. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của Đại tướng Chu Huy Mân cho cách mạng Việt Nam luôn in đậm trong lòng nhân dân, đồng chí, đồng đội, quê hương và bạn bè quốc tế.
Nguồn: Chi bộ Viện Sử học
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh Nghệ An, Đại tướng Chu Huy Mân nhà chính trị, quân sự xuất sắc của cách mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Nghệ An, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2023.
2. Chương trình sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, Chu Huy Mân - Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
3. Đại tướng Chu Huy Mân - Nhà chính trị, quân sự tài ba, tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
4. Đại tướng Chu Huy Mân, Thời sôi động, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
5. Đại tướng Chu Huy Mân, Mấy vấn đề cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984.