Viện Khảo cổ

17:00 21/03/2023
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +

I. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC

Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại, ngoài một số công trình nghiên cứu khảo cổ học của người Pháp để lại, có thể nói Khảo cổ học Việt Nam là một con số “không” tròn trĩnh.

Năm 1958, hoạt động khảo cổ học đầu tiên của ngành khảo cổ học Việt Nam là các hoạt động “chữa cháy” mộ gạch Tam Thai và mộ hợp chất Nông Cống (Thanh Hóa) do PGS.TS. Hoàng Xuân Chinh và ông Nguyễn Ngọc Bích chủ trì (Khảo cổ học số 5/2008: 104).

Khoảng năm 1960, Đội Khảo cổ học Việt Nam đầu tiên được thành lập trực thuộc Vụ Văn hóa Quần chúng - Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có trụ sở tại 22 Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Năm 1963, Bộ Văn hóa ra Quyết định số 511/VH-QĐ ngày 08/10/1963 thành lập Đội khai quật khảo cổ trực thuộc Vụ Bảo tồn Bảo tàng và chuyển trụ sở từ 22 Hai Bà Trưng về 61 Phan Chu Trinh, Hà Nội, với 18 đội viên do ông Nguyễn Văn Nghĩa, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam kiêm nhiệm làm Đội trưởng.

Cán bộ của Đội lúc đó chủ yếu là các cán bộ kỹ thuật khai quật, cán bộ vẽ, chụp ảnh, phục chế hiện vật và chủ yếu là tiến hành khai quật “chữa cháy”, điều tra, phát hiện và bước đầu thu thập tư liệu (Khảo cổ học số 5/2008: 103-107).

Trong khoảng các năm 1960-1964, ở Việt Nam bắt đầu có sự đào tạo một số sinh viên khảo cổ từ Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và một số khác (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tốt nghiệp từ Liên Xô, Trung Quốc về bổ sung cho Đội.

Năm 1966, theo nhu cầu phát triển của khảo cổ học Việt Nam, Trung ương đã cho phép Bộ Văn hóa chuyển giao toàn bộ biên chế Đội Khai quật khảo cổ, trang thiết bị, trụ sở làm việc giao Ủy ban KHXH Việt Nam quản lý. GS. Ca Văn Thỉnh, sau đó là GS. Phạm Huy Thông trực tiếp là Đội trưởng.

Từ Đội Khai quật khảo cổ học này, hai năm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Quyết định số 59-CP ngày 14/5/1968 chính thức thành lập Viện Khảo cổ học Việt Nam trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, GS.VS. Phạm Huy Thông là vị Viện trưởng đầu tiên.

Ban đầu thành lập, quy mô của Viện còn rất khiêm tốn với khoảng 40 cán bộ. Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ khi đó gọi là tổ. Có tất cả 10 tổ chuyên môn - nghiệp vụ gồm: Tổ Đá cũ (gồm cả bộ môn Cổ nhân - Cổ sinh), Tổ Đá mới, Tổ Đồng và Sắt sớm, Tổ Phong kiến, Tổ miền Nam, Tổ Khai quật, Tổ Hành chính Quản trị, Tổ Tư liệu, Tổ Tạp chí, Tổ Kỹ thuật.

Năm 1978, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam ban hành cơ cấu mới của Viện Khảo cổ học, theo đó các tổ nghiên cứu đổi tên là Ban, các tổ chức năng nghiệp vụ gọi là Phòng.

Năm 1976, Tổ miền Nam được chuyển vào thành bộ phận khảo cổ học phía Nam trực thuộc Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh.

Đầu năm 1995, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia ban hành cơ cấu mới của Viện Khảo cổ học. Tất cả các Ban được đồng loạt đổi gọi là Phòng. Cùng lúc đó, bộ phận Cổ sinh - Cổ nhân cũng tách ra khỏi Ban Đá cũ để thành lập Phòng Nghiên cứu Con người và Môi trường cổ. Ban Đá cũ sáp nhập với Ban Đá mới gọi là Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học thời đại Đá.

Từ năm 2000 - 2004 cho đến nay, cơ cấu tổ chức của Viện được tăng thêm Phòng Kỹ thuật cổ, Phòng Thí nghiệm và Xác định niên đại, Phòng Khảo cổ học dưới nước.

Năm 2011, theo yêu cầu của nhiệm vụ đặc biệt, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành được thành lập trực thuộc Viện Khảo cổ học. Năm 2012, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành của Viện được tách ra trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Ngày 27/2/2013, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ban hành Quyết định số 252/QĐ-KHXH quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện Khảo cổ học  là nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khảo cổ học Việt Nam, nghiên cứu lịch sử  hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam; Cung cấp các luận cứ khoa  học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về Khảo cổ học; Tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hoá vật thể và phi vật thể Việt Nam.

Theo Quyết định này, hiện nay Viện Khảo cổ học có 13 Phòng với 07 phòng nghiên cứu khoa học: 1/Phòng nghiên cứu thời đại Đá; 2/Phòng nghiên cứu thời đại Kim Khí; 3/Phòng nghiên cứu KCH Lịch Sử; 4/Phòng nghiên cứu Con người và Môi trường cổ; 5/Phòng nghiên cứu Kỹ thuật cổ; 6/Phòng Khảo cổ học Dưới nước; 7/Phòng Xét nghiệm và xác định niên đại; 06 phòng chức năng, nghiệp vụ: 1/Phòng Tổ chức - Hành chính; 2/Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác Quốc tế; 3/Phòng Thông tin - Thư viện; 4/Phòng Vẽ và Phục chế; 5/Phòng Ảnh; 6/Phòng Biên tập - Trị sự.

Tạp chí Khảo cổ học là cơ quan ngôn luận chính thức và duy nhất hiện nay của Viện Khảo cổ học và toàn ngành khảo cổ học Việt Nam.

Trong đào tạo, Viện Khảo cổ học nhiều năm liền là cơ sở đào tạo nguồn cán bộ có chất lượng cao cho khảo cổ học cả nước. Hiện nay, Khoa Khảo cổ học thuộc Học viện KHXH được thành lập với lực lượng thầy cô của Khoa chủ yếu là cán bộ giảng dạy của Viện do Viện trưởng Viện Khảo cổ học là Trưởng khoa. Trên 80 tiến sĩ và khảo cổ học cả nước ra lò ở đây đã trở thành các cán bộ giữ trọng trách trong nhiều cơ quan nghiên cứu, quản lý và giảng dạy trên phạm vi cả nước. Sinh thời, GS. Trần Quốc Vượng (Đại học Quốc gia Hà Nội) từng mệnh danh Viện Khảo cổ học là “lò luyện các tiến sĩ khảo cổ” (Khảo cổ học số 5/2004: 25-28).

Như vậy từ Tổ lên Ban, từ Ban lên Phòng, từ 10 tổ chuyên môn nghiệp vụ lên 13 Phòng chuyên môn nghiệp vụ, từ đội ngũ chỉ khoảng vài chục cán bộ lên định biên 64 cán bộ, Viện Khảo cổ học được sự quan tâm của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, không ngừng lớn mạnh và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.

Trong quá trình phát triển, Viện Khảo cổ học đã được sự quan tâm của nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn đầu thành lập (1968-1978), Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Trường Chinh đặc biệt quan tâm tới sự phát triển của khảo cổ học Việt Nam (Khảo cổ học số 2/1969: 22-24; Khảo cổ học số 1/1969: 5-14; Khảo cổ học số 4/1978: 35). Cuộc khai quật di tích Hoàng thành Thăng Long năm 2002 - 2003 đã lần lượt đón hầu hết các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Nhà nước đến thăm động viên và khích lệ Viện Khảo cổ học phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.

II. NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NỔI BẬT CỦA VIỆN KHẢO CỔ HỌC

1. Thực hiện thành công hệ thống đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và  thu hút nhiều nguồn lực hợp tác nghiên cứu với các đơn vị trong và ngoài nước

45 năm qua, bám sát chức năng và nhiệm vụ được giao, Viện Khảo cổ học đã lần lượt được giao thực hiện một hệ thống các đề tài và nhiệm vụ phong phú, đa dạng trong việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa - văn minh Việt Nam.

Không kể hệ thống đề tài cấp Viện được tiến hành đều đặn hàng năm, theo ngân sách được phê duyệt của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, từ năm 1968 đến năm 2012, Viện đã phối hợp với các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước, tích cực phối hợp liên ngành, liên cơ quan lần lượt triển khai thực hiện trên 50 nhiệm vụ và đề tài do Nhà nước, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giao thực hiện, tiêu biểu là các chương trình, nhiệm vụ lớn như sau:

- Năm 1968 đến năm 1970, Viện Khảo cổ học triển khai đề tài cấp Nhà nước đầu tiên: Nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng dựng nước, dưới sự lãnh đạo của GS.VS. Viện trưởng Phạm Huy Thông nhằm chứng minh thời kỳ các vua Hùng dựng nước là có thật, đánh thức và huy độngBốn mươi thế kỷ cùng ra trận” (thơ Tố Hữu) chống Mỹ.

- Năm 1993 đến  năm 1998, Viện Khảo cổ học đã thực hiện nhiệm vụ đặc biệt cấp Nhà nước do Thủ tướng Võ Văn Kiệt trực tiếp giao: Nghiên cứu cơ bản khảo cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ.

- Năm 2001, khai quật và di dời 11.000m2 di chỉ khảo cổ học Lung Leng (Kon Tum).

- Năm 2005 - 2006, khai quật và di dời 8.000m2 di chỉ khảo cổ học Plei Krong (Kon Tum).

- Năm 2002 - 2008, khai quật, di dời và bảo tồn cấp thiết 33.000m2 khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội).

- Năm 2008 - 2010, khai quật, di dời 31 di tích khảo cổ học tại khu vực lòng hồ thủy điện Sơn La.

- Khai quật, di dời 15 di tích ở lòng hồ thủy điện Tuyên Quang.

- Năm 2011 - 2012, khai quật, di dời 12 di tích khảo cổ Huội Quảng - Bản Chát (Sơn La).

Song song với các nhiệm vụ chính trên đây, Viện Khảo cổ học còn được nhiều cơ quan đơn vị trong và ngoài nước mời tham gia nhiều chương trình nghiên cứu lớn khác. Thống kê sơ bộ, trong khoảng 10 năm từ năm 2002 đến năm 2012, Viện đã thực hiện 159 lượt đề tài nghiên cứu thuộc loại này. Nhiều địa phương có số lần hợp tác rất lớn như Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Khánh Hòa, trong đó có 80 cuộc hợp tác nghiên cứu khảo cổ học thời Tiền sử và Sơ sử, 79 cuộc hợp tác nghiên cứu khảo cổ học lịch sử mà điển hình là cuộc khai quật 24.000m2 di tích đàn tế Nam Giao thành Nhà Hồ (Thanh Hóa).

Có thể nói, cuối thế kỷ XX và đặc biệt trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, Viện Khảo cổ học vinh dự được Nhà nước giao nhiều nhiệm vụ lớn, nghiên cứu và khai quật các địa điểm khảo cổ học có diện tích lớn chưa từng có trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam với kết quả tốt được công luận đánh giá cao.

Với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khai quật khu di tích Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu, nhà nghiên cứu trứ danh Trần Bạch Đằng khẳng định: “Phát hiện Hoàng thành Thăng Long dưới lòng đất - Thành tựu số 1 của khoa học lịch sử Việt Nam” (Khảo cổ học số 1/2006: 68).

2. Những đóng góp to lớn vào việc nghiên cứu lịch sử dân tộc, góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc

Những đóng góp vào việc nghiên cứu lịch sử dân tộc

Khảo cổ học thực chất là một ngành thuộc khoa học lịch sử, nghiên cứu lịch sử dân tộc bằng sử liệu vật thật. Theo đó, 45 năm qua, qua mỗi chặng đường nghiên cứu, Viện Khảo cổ học đã đạt được những thành tựu có giá trị cao trong việc góp phần nghiên cứu lịch sử dân tộc.

a. Nghiên cứu, lần tìm những trang sử xa xưa nhất của Tổ quốc - “thời kỳ tổ tiên của tổ tiên ta” (Phạm Huy Thông)

Trong việc nghiên cứu thời này, GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: “Đối với lịch sử Việt Nam, khảo cổ học gần như giữ vai trò thống soái trong nghiên cứu thời Tiền sử, thời Sơ sử” (Phan Huy Lê 2004: 23).

Đúng vậy, 45 năm qua, Viện Khảo cổ học, cụ thể là các nhà tiền sử học của Viện đã bền bỉ vượt mọi khó khăn nguy hiểm, tiến hành khảo sát, thám sát và khai quật ở khắp các vùng núi cao, rừng rậm lần lượt xác định bước đầu các dấu mốc của những trang sử tối cổ của Tổ quốc.

- Xác định ngọn nguồn của con người trên đất Việt Nam từ nửa triệu năm trở về trước.

Các nhà Tiền sử học của Viện đã tìm thấy dấu vết xác thực của người vượn Homoerectus ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) được xác định niên đại bằng phương pháp ESR cho kết quả từ 401 ± 51 nghìn đến 534 ± 87 nghìn năm BP xác nhận sự có mặt của người vượn Việt Nam xuất hiện ít ra cách đây khoảng nửa triệu năm.

- Xác định các trang sử tiếp theo qua việc nghiên cứu hệ thống các văn hóa phát triển liên tục theo các giai đoạn sau:

+ Bước đầu được xác nhận con người thời đại đá cũ ở Việt Nam với 2 giai đoạn: Người Khôn ngoan (Homo sapiens) sớm và người khôn ngoan muộn. Thuộc giai đoạn sớm có di cốt người hóa thạch ở Hang Hùm (Yên Bái) và Thẩm Ồm (Nghệ An). Những răng hóa thạch người Homo sapiens tìm thấy ở Thẩm Ồm vừa có yếu tố Homo erectus vừa có yếu tố Homo sapiens, nằm trong trầm tích Pleistocene, được dự đoán niên đại 80.000 năm. Thuộc giai đoạn muộn, có dấu tích di cốt người ở các di tích văn hóa Hậu kỳ đá cũ Ngườm, Sơn Vi, di cốt người hóa thạch ở Thung Lang (Ninh Bình), Kéo Lèng (Lạng Sơn).

+ Tham gia nghiên cứu và xác định kỹ nghệ Ngườm (Văn hóa Ngườm) là kỹ nghệ mảnh tước nhỏ tu chỉnh tồn tại trước kỹ nghệ cuội ghè niên đại từ 40.000 đến 23.000 năm cách ngày nay.

+ Tham gia phát hiện và đóng vai trò chủ chốt trong việc nghiên cứu các di tích văn hóa Sơn Vi ở Phú Thọ và hầu khắp các tỉnh miền núi và trung du Bắc Việt Nam. Niên đại văn hóa Sơn Vi tồn tại trong khung niên đại từ 30.000 đến 11.000 năm BP.

+ Cùng với việc xác định 2 kỹ nghệ Hậu kỳ Đá cũ nói trên, Viện Khảo cổ học Việt Nam bước đầu còn nhận diện 2 kỹ nghệ khác: Kỹ nghệ Nậm Tun – Bản Phố ở thượng nguồn sông Đà, Kỹ nghệ Điều ở vùng núi đá vôi miền Tây Bắc Thanh Hóa. Việc nghiên cứu các kỹ nghệ nói trên mới được bắt đầu và sẽ còn tiếp tục trong tương lai.

- Nghiên cứu và nhận thức mới về Văn hóa Hòa Bình - Văn hóa Bắc Sơn.

Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa Bắc Sơn do người Pháp định danh với niên đại Đá cũ, Đá giữa và Đá mới.

Với các kết quả nghiên cứu mới, Viện Khảo cổ học xác định phần lớn các di tích văn hóa Hòa Bình đã thuộc thời đại Đá mới - Thời đại xuất hiện rìu mài lưỡi, bước đầu xuất hiện nông nghiệp sơ khai và sử dụng đồ gốm. Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam có số lượng di tích nhiều nhất, niên đại sớm nhất (17.000-7000 năm BP) và là hiện tượng văn hóa chung của Đông Nam Á lục địa.

Ở vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Viện Khảo cổ học cũng tập trung nghiên cứu địa điểm Soi Nhụ và một số địa điểm khác niên đại có cùng bình tuyến với văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Có nhiều khả năng xác lập một nhóm di tích sơ kỳ đá mới riêng biệt cho cả vùng duyên hải vùng Đông Bắc nước ta.

- Góp phần xác định những con đường tiến lên Hậu kỳ Đá mới ở Việt Nam.

Sau bình tuyến Hòa Bình - Bắc Sơn, việc xác lập các văn hóa khảo cổ thời đại Đá mới ở Việt Nam được xem là một trong những thành tựu quan trọng của khảo cổ học Việt Nam thế kỷ XX. Kế thừa các thành tựu nghiên cứu của người Pháp, Viện Khảo cổ học đã tích cực nghiên cứu góp phần xác định rõ các con đường phát triển sau Hòa Bình - Bắc Sơn gồm: Văn hóa Đa Bút (Thanh Hóa, Ninh Bình). Nhóm di tích hay văn hóa Cái Bèo (Hải Phòng - Quảng Ninh); Văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An - Hà Tĩnh). Ở miền Trung có di tích Bàu Dũ (do Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nghiên cứu). Đó là 4 con đường tiến lên Hậu kỳ đá mới ở Việt Nam.

- Đẩy mạnh việc nghiên cứu phân lập các văn hóa Hậu kỳ đá mới: Vào những năm cuối thế kỷ 20, Viện Khảo cổ học đã tập trung nghiên cứu và phân lập được 6 văn hóa trên tổng số 8 văn hóa Hậu kỳ đá mới ở Việt Nam: Văn hóa Hà Giang, văn hóa Mai Pha; Văn hóa Biển Hồ; Văn hóa Buôn Triết; Văn hóa Lung Leng.

Các văn hóa Hạ Long, Văn hóa Bàu Tró vốn đã được nghiên cứu từ trước, Viện Khảo cổ học tham gia nghiên cứu làm rõ thêm nhiều điểm mới.

Như vậy, có thể nói khảo cổ học tiền sử của Viện được mùa lớn trong việc nghiên cứu các văn hóa Đá mới ở Việt Nam.

b. Nghiên cứu chứng minh thời kỳ các vua Hùng dựng nước là có thật, góp phần quyết định đưa thời kỳ này vào Chính sử Việt Nam và ngày càng nhận diện rõ hơn thời kỳ sơ sử và nhà nước sơ khai ở Việt Nam

Trước khi Viện Khảo cổ học tiến hành thực hiện đề tài này, tất cả các cuốn sử Việt Nam, từ Đại Việt sử lược thời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư thời Lê, Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn cho đến Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim … khi viết lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến thời Thục An Dương Vương đều coi đây là thời kỳ truyền thuyết mà gốc của nó như Sử thần nổi tiếng Ngô Sĩ Liên thời Lê sơ nói là “ dã sử” (ĐVSKTT tập I, 1998: 103). Sử gia Đào Duy Anh bàn về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam thời kỳ này gọi là “Nguồn gốc truyền kỳ” (Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Nxb.Thế giới, 1950: 11).

Riêng đối với các học giả phương Tây, sự rực rỡ của văn hóa Đông Sơn được họ xem là kết quả của các cuộc thiên di dài dằng dặc từ tận châu Âu xa xôi qua Trung Hoa tràn tới. Do tính cấp thiết như vậy, trong muôn vàn khó khăn của cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt, Viện Khảo cổ học đã chủ trương tiến hành nghiên cứu đề tài Các vua Hùng dựng nước, lôi cuốn được hầu hết các trí tuệ đầu ngành của các nhà khảo cổ học, sử học, dân tộc học, bảo tàng học, địa lý, văn hóa dân gian… tham gia nghiên cứu.

Kết thúc đề tài, các nhà khoa học đã xác định rõ được thời đại các vua Hùng dựng nước là có thật, bác bỏ thuyết phục luận điểm nguồn gốc thiên di của dân tộc Việt Nam, vén đám mây mù huyền thoại để đến cái “lõi” sự thật lịch sử của thời kỳ này là 4 giai đoạn văn hóa vật chất phát triển liên tục từ 2000 năm trước Công nguyên đến 1 - 2 thế kỷ đầu Công nguyên: Đó là phổ hệ văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn ở khắp khu vực Bắc Việt Nam.

Năm 1971, lần đầu tiên, thành tựu nghiên cứu này đã chính thức được đưa vào bộ thông sử quốc gia Việt Nam góp phần xứng đáng vào việc phục vụ công cuộc thức dậy quá khứ 4000 năm vào trận chiến thắng Mỹ thống nhất nước nhà (Lịch sử Việt Nam tập I Nxb. KHXH năm 1971. Hà Nội).

c. Góp phần nghiên cứu làm rõ diễn biến văn hóa của thời kỳ Sơ sử và Nhà nước sớm ở miền Trung và Nam Bộ

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Viện Khảo cổ học cùng các nhà khảo cổ học cả nước tham gia nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các nội dung của văn hóa Sa Huỳnh và tiền Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai và tiền Đồng Nai. Một mặt Viện đã điều động một số cán bộ vào xây dựng bộ phận khảo cổ học phía Nam, mặt khác các cán bộ của Viện tiếp tục trực tiếp tham gia các chương trình nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực miền Trung và Nam Bộ.

Ở khu vực miền Trung, cán bộ của Viện đã tham gia xác định các bước tiến lên văn hóa Sa Huỳnh gồm: Giai đoạn Xóm Cồn; Giai đoạn Long Thạnh; Giai đoạn Bình Châu. Trong các giai đoạn này, Viện đã khai quật và nghiên cứu di chỉ Bình Châu. Đối với Văn hóa Sa Huỳnh, Viện đã tham gia phát hiện và khai quật các di chỉ quan trọng của văn hóa Sa Huỳnh: Tam Mỹ, Đại Lãnh, Quế Lộc, Phú Hòa, Suối Chồn, Bầu Hòe, Động Láng, Hòn Đỏ II, Pa Xua, Tiên Hà, Phước Hải, Cồn Ràng...

Ở Nam Bộ, các cán bộ của Viện cũng tích cực phối hợp với các nhà khảo cổ học phía Nam và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam tham gia nghiên cứu làm rõ quá trình tiến lên văn hóa Đồng Nai ở Đông Nam Bộ là các giai đoạn: Cầu Sắt - Bến Đò - Cù Lao Rùa - Dốc Chùa.

Các cán bộ Viện cũng đã tham gia khai quật gò Cao Su, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ góp phần làm rõ sự phát triển văn hóa sau Dốc Chùa.

Như vậy, song song với việc làm rõ tính xác thực của thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên ở phía Bắc, Viện cùng với các nhà khảo cổ học cả nước nghiên cứu góp phần làm rõ hệ thống phát triển liên tục của các văn hóa thời Sơ sử và Nhà nước sớm ở 3 miền với 3 trung tâm, 3 hệ thống văn hóa phát triển tại chỗ, liên tục bước đầu phác lên một bức tranh toàn cảnh hết sức sống động của thời kỳ dựng và giữ nước đầu tiên trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

d. Đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn diện các vấn đề khoa học thuộc các thời kỳ lịch sử

Về vai trò của khảo cổ học Việt Nam trong thời kỳ này, GS.NGND. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định:

Khảo cổ học là người bạn đồng hành với sử học trong nghiên cứu thời Cổ - Trung đại cho đến thời Cận - Hiện đại. Nhiều phát hiện của các nhà khảo cổ học với giá trị chân thực của các di tích, di vật đã buộc các nhà sử học phải xem xét lại nhận thức của mình và cùng nhau nâng cao trình độ của khoa học lịch sử cho phù hợp hơn với đối tượng là lịch sử khách quan luôn tồn tại ngoài ý thức của nhà khoa học” (Khảo cổ học số 5/2004: 23). Theo đó, Viện Khảo cổ học đã tham gia góp phần nghiên cứu lịch sử thời Cổ - Trung đại và Cận đại Việt Nam một số vấn đề cơ bản như sau:

+ Góp các chứng lý vật chất về sức sống của văn hóa Việt và người Việt trong đêm trường nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc.

Chúng ta biết rằng, sau văn hóa Đông Sơn, người phương Bắc chinh phục tất cả các nước xung quanh và có tham vọng đồng hóa toàn bộ Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là: Sau thời kỳ Hùng Vương dựng nước, các chứng cứ của văn hóa Việt tồn tại như thế nào trong khi mà khắp Bắc Việt Nam thời kỳ này dường như chỉ tồn tại các chứng cứ văn hóa Hán mà tiêu biểu là hệ thống mộ gạch Hán. Dấu tích văn hóa Đông Sơn rực rỡ một thời hầu như bị biến mất, phải chăng Bắc Việt Nam bị Hán hóa hoàn toàn?

Nhận thức rõ vai trò khảo cổ học trong việc giải quyết vấn đề này, Viện Khảo cổ học đã tập trung nghiên cứu đề tài “Văn hóa Việt Nam 10 thế kỷ sau Công nguyên”. Viện đã nghiên cứu và chứng minh rằng có một hệ thống các chứng cứ vật chất của người Việt (mộ thuyền, mộ đất, đồ gốm…) luôn luôn tồn tại bền vững, song hành với truyền thống mộ gạch Trung Hoa mặc dù văn hóa Việt không chối bỏ giao lưu với văn hóa Trung Hoa. Điều đó chứng minh rằng vì sao trong suốt đêm trường nghìn năm Bắc thuộc khốc liệt, người Việt vẫn kiên cường bám trụ và liên tục khởi nghĩa để dần dần tiến lên giành lại độc lập hoàn toàn vào thế kỷ X. Hệ luận tất yếu được rút ra là:

- Trong khoảng 10 thế kỷ Bắc thuộc, tuyệt đại đa số người Việt, chủ nhân văn hóa Đông Sơn không hề bị đồng hóa, dồn ép đi nơi khác mà lúc nào cũng có mặt trên đất nước họ, liên tục, bền bỉ gìn giữ, giao lưu và phát triển truyền thống văn hóa bản địa.

- Đến thế kỷ X, mộ gạch Trung Hoa thì tuyệt tích, trong khi mà các mộ thuyền, mộ đất Việt vẫn tồn tại và phát triển chứng minh sự tồn tại liên tục của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.

Chính nhờ chống Hán, Đường mà ta vẫn là ta” là kết luận lớn mà Viện Khảo cổ học rút ra sau khi kết thúc việc thực hiện đề tài này (Khảo cổ học số 1/1980: 1-5). Thành tựu quan trọng đó cũng góp phần lý giải thuyết phục cho hiện tượng "phục hưng" rực rỡ của văn hóa Đại Việt thế kỷ X-XV.

+ Làm sáng tỏ thêm lịch sử và văn hóa các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Lê sơ - Lê - Mạc - Lê Trung hưng và Nguyễn.

Theo sử sách, các triều đại này nối tiếp trong lịch sử Việt Nam với võ công giữ nước hiển hách, văn chương phát triển rực rỡ.

Khảo cổ học lịch sử qua việc lần tìm các dấu tích kiến trúc cung điện, thành quách, chùa tháp, đình chùa, miếu mạo, các thương cảng, các lò gốm, các di tích chiến trường, tàu đắm… của các triều đại, qua đó đã từng bước làm rõ và chứng minh: Không chỉ có võ công và văn chương học thuật, thời kỳ này còn có các thành tựu nghệ thuật rực rỡ, giàu bản lĩnh sáng tạo và mang đậm bản sắc Việt Nam. Đỉnh cao của việc nghiên cứu thời kỳ này là cuộc khai quật khu di tích Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu.

Lần đầu tiên trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam, có một cuộc khai quật được Bộ Chính trị đánh giá: “Quá trình khảo cổ để phát hiện được những di tích và hiện vật tại khu vực phía tây (của) Hoàng thành Thăng Long xưa, cùng một số lượng lớn các hiện vật phong phú, quý giá gắn với lịch sử hơn 1000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, của Thủ đô Hà Nội, với các văn hóa kế tiếp nhau qua các thời kỳ từ thế kỷ thứ VII tiếp nối đến thời đại Hồ Chí Minh. Kết quả khai quật giúp chúng ta thêm hiểu rõ và tự hào về lịch sử dân tộc, về Thủ đô Hà Nội” (Thông báo số 126/TB/TW của Bộ Chính trị ngày 05/11/2003).

Tổng hợp các thành tựu của khảo cổ học lịch sử do Viện Khảo cổ học thực hiện, cùng hệ thống di tích khảo cổ học lịch sử được nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc, có thể khái quát có 2 giá trị nổi bật như sau:

- Giá trị thứ nhất: Các di tích khảo cổ học lịch sử đã chứng minh tiềm lực và trình độ cao của văn hóa, văn minh Việt Nam. GS. Inoue, chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu kinh thành Nhật Bản khi tham quan và nghiên cứu khu di tích Hoàng thành Thăng Long năm 2004 đã đánh giá: “Qua những di tích kiến trúc, chúng ta hiểu biết được rằng lúc đó trình độ văn hóa của dân tộc Việt Nam rất cao” (Hoàng thành Thăng Long, phát hiện khảo cổ học, Hội Sử học Việt Nam xuất bản năm 2004: 134).

- Giá trị thứ hai: Khẳng định và chứng minh trong giao lưu phong phú và rộng mở với các nước trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, văn hóa và văn minh Việt Nam đã thể hiện được sự hội tụ và kết tinh các tinh hoa văn hóa của khu vực và văn hóa bản địa để sáng tạo nên một nền văn minh Đại Việt phong phú mang đậm sắc thái Việt Nam (Trích ý của Quyết định số 34 COM8B.22 năm 2010 của Ủy ban Di sản Thế giới đánh giá giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long). Các giá trị trên đây hiển nhiên bác bỏ các quan điểm sai lầm một thời từng  lưu hành rằng văn minh Đại Việt bắt nguồn từ văn minh Trung Hoa, khẳng định và chứng minh rõ ràng bản sắc văn hóa, văn hiến Việt Nam đúng như các danh nhân văn hóa Việt Nam như Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn… từng khẳng định.

+ Tham gia nghiên cứu văn hóa Champa.

Trước năm 1975, khảo cổ học Champa được các học giả phương Tây đặc biệt chú ý đến các đền tháp.

Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Viện Khảo cổ học đã chú ý nghiên cứu các tòa thành Chăm, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự của Champa qua các khu vực khác nhau như thành Thi Nại, An Thành, Chà Bàn, Châu Sa, Trà Kiệu... Không chỉ chú ý nghiên cứu cấu trúc, quy mô, khảo cổ học đã đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu các di tích cư trú trong và ngoài các tòa thành.

Viện cũng đã chú ý hợp tác nghiên cứu các di tích Chăm  trong sự tiếp nối và tiếp biến với di tích Việt như từ thành Trà Kiệu đến thành Hoàng Đế thời Tây Sơn, từ một trung tâm cư trú Chăm tiến lên thành Hóa Châu thời Trần…

Viện Khảo cổ học đã hợp tác nhiều năm với các nhà khảo cổ học Nhật Bản, Bỉ trong nhiều năm trong việc làm rõ trung tâm sản xuất gốm Gò Sành, Trương Cửu. Đẩy mạnh nghiên cứu gốm Chăm và các thương cảng Chăm. Bước đầu đã tham gia nghiên cứu cảng Đại Chiêm (Hội An), Mai Xá (Quảng Trị), Cách Thử, Thị Nại (Bình Định).

Từ các kết quả nghiên cứu này, Viện Khảo cổ học đã góp phần làm sáng tỏ diễn biến của văn hóa Chăm, quá trình giao lưu hòa hợp văn hóa Việt - Chăm.

+ Tham gia nghiên cứu nguồn gốc, nội dung và diễn biến của văn hóa Óc Eo.

Văn hóa Óc Eo đã được nghiên cứu và định danh từ thời Pháp thuộc. Sau năm 1975, bộ phận khảo cổ học phía Nam đã tiếp tục nghiên cứu nhiều di tích kiến trúc Óc Eo.

 Theo chương trình của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Viện Khảo cổ học chủ trương đẩy mạnh việc nghiên cứu văn hóa Óc Eo với mục tiêu chủ đạo là cùng với việc tiếp tục nghiên cứu các di tích kiến trúc, chú ý hơn đến việc nghiên cứu nguồn gốc văn hóa Óc Eo, diễn biễn của văn hóa Óc Eo qua việc tăng cường nghiên cứu các di chỉ cư trú, tăng cường nghiên cứu đồ gốm. Theo đó, Viện Khảo cổ học đã có các cuộc khai quật di chỉ và di tích Gò Cây Tung, Gò Tháp, Gò Thành Mới, Ấp Nhơn Thành, Bình Thạnh, gò Cao Su, Đá Nổi, Nền Vua, Cát Tiên... Các đợt nghiên cứu này đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục toàn diện hơn đời sống cũng như các sắc thái văn hóa của cư dân Óc Eo, góp phần làm rõ nguồn gốc bản địa của văn hóa Óc Eo với việc khẳng định có nhiều con đường Tiền Óc Eo tiến lên Óc Eo ở vùng đất Nam Bộ. Các con đường đó được gợi mở phần nào qua việc nghiên cứu các di chỉ Gò Cây Tung, Gò Tháp, Gò Cao Su, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ, Giồng Nổi... Diễn biến văn hóa Óc Eo và diễn biến từ văn hóa Óc Eo sang Hậu Óc Eo cũng bước đầu được khơi gợi và do đó góp phần khẳng quyết hơn nguồn gốc bản địa của văn hóa Óc Eo.

3. Cung cấp nguồn sử liệu có giá trị khoa học cao góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam

Nhận thức vai trò to lớn của khảo cổ học trong việc nghiên cứu lịch sử dân tộc gắn với việc góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, liên tiếp trong các năm 1993, 1994, 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã giao Viện Khảo cổ học tiến hành chương trình đặc biệt Điều tra, nghiên cứu cơ bản khảo cổ học Trường Sa- Tây Nguyên - Nam Bộ. Đề tài đã được Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) chỉ đạo tiếp nối trong các năm 1996, 1997, 1998 và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Ở Quần đảo Trường Sa đã phát hiện các dấu tích của người Việt liên tục có mặt ở đây từ khoảng thế kỷ X đến thế kỷ XIX-XX. Đó là kết quả rất lớn của khảo cổ học Việt Nam và qua đó chúng ta chứng minh rất rõ chủ quyền của Việt Nam từ rất sớm tại quần đảo Trường Sa.

Riêng đối với Hoàng Sa, ngay từ năm 1979, cán bộ của Viện đã có sách Hoàng Sa quần đảo Việt Nam (Văn Trọng: Hoàng Sa quần đảo Việt Nam. Nxb KHXH năm 1979).

Ở khu vực Tây Nguyên, một  hệ thống gần 150 di tích tiền, sơ sử và lịch sử cũng đã được phát hiện và nghiên cứu. Đã làm rõ và phân lập được một hệ thống các Văn hóa Tiền sử ở Tây Nguyên trong mối quan hệ giao lưu rộng mở để tiến tới hòa hợp dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Ở Nam Bộ, như đã trình bày ở trên, Chương trình đã tập trung nghiên cứu gợi mở các con đường tiến lên văn hóa Óc Eo và đặc trưng văn hóa Óc Eo.. Tổng kết chương trình, GS.NGND. Hà Văn Tấn, Viện trưởng Viện Khảo cổ học lúc đó đã khẳng định 2 thành tựu chính: Thứ nhất: “Chúng ta đang có cơ may tìm được nguồn gốc một nền văn minh: Văn hóa Óc Eo”; Thứ hai: “Các văn hóa tiền Óc Eo, và do đó cả văn hóa Óc Eo là của những người nói tiếng Nam Đảo chứ không phải là người Khơme… Đây là giả thuyết khoa học nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa chính trị” (Khảo cổ học Trường Sơn - Tây Nguyên - Nam Bộ 1996. Tư liệu Viện Khảo cổ học: 6-7).  Các kết luận này hiển nhiên còn mang tính giả thuyết, nhưng là những giả thiết có cơ sở khoa học bước đầu đáng tin cậy. Nó giúp chúng ta các chứng lý khoa học lịch sử vững chắc khẳng định chủ quyền dân tộc ở khu vực Nam Bộ.

Các chương trình nghiên cứu trên đây đã và đang được tiếp tục nghiên cứu lâu dài.

4. Góp phần bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc và xây dựng thành công các hồ sơ Di sản Thế giới

Các di sản khảo cổ học là một bộ phận quan trọng mật thiết trong hệ thống các di sản văn hóa dân tộc. Nét đặc biệt của loại hình di sản này là cực kỳ dễ bị phá hủy và thực tế nhiều di tích khảo cổ học ở Việt Nam đã bị hủy hoại rất nghiêm trọng. Các di tích khảo cổ nổi tiếng như Đông Sơn, Làng Vạc, Phùng Nguyên…. gần như đã bị xóa sổ hoàn toàn.

Công ước Quốc tế khảo cổ học Lausanne của UNESCO nhấn mạnh: Di sản khảo cổ học là một loại hình cực kỳ mong manh và không thể tái sinh. Mong manh nghĩa là di sản rất khó bảo tồn, Không thể tái sinh nghĩa là một khi di tích đã mất đi là mất đi vinh viễn.

Từ 45 năm trước, khi động viên các nhà khảo cổ học tập trung nghiên cứu thời các vua Hùng, vua Thục, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thời bấy giờ đã chỉ rõ điều này và căn dặn: “Đất nước ta có thể tàng trữ những di vật quý báu không những đối với ta mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Những di vật ở dưới lòng đất là một kho tàng rất quý báu vô giá. Nếu để mất đi thì không có cách gì lấy lại được. Nếu không giữ gìn, có thể nó mất đi, mất thì hết…Phải tìm cách giữ gìn cho được, bảo tồn cho được” (Khảo cổ học số 1/ 1969: 9-10).

Vậy là khảo cổ học dưới góc độ của mình nhất thiết phải tham gia mạnh mẽ vào công tác bảo tồn Di sản văn hóa dân tộc. Thực tế, trong những năm qua, Viện Khảo cổ học đã góp phần bảo tồn di sản dân tộc trước các phương diện: Phát hiện, nghiên cứu, đánh giá giá trị di tích, đề xuất, kiến nghị các cấp độ bảo tồn di tích; Xử lý bảo tồn cấp thiết tại chỗ ngay khi di tích được xuất lộ, hoặc di dời, bảo quản cấp thiết di tích khi được các cấp có thẩm quyền yêu cầu; Cung cấp các dữ liệu di tích để các nhà Bảo tồn học xử lý bảo tồn, xây dựng các kế hoạch, nhiệm vụ tôn tạo di tích.

Xây dựng các hồ sơ khoa học chính là một cấp độ bảo tồn di tích. Theo đó, Viện Khảo cổ học có trên 670 bộ hồ sơ bao gồm báo cáo khoa học, bản vẽ, bản ảnh, bản dập, nhật ký khai quật đang được lưu trữ cẩn thận. Hàng loạt hồ sơ đã được các nhà Bảo tồn học tham khảo phục vụ việc bảo vệ, bảo tồn và trùng tu.

Viện Khảo cổ học đã chủ trì nghiên cứu, đánh giá giá trị và tư vấn để Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đề xuất bảo vệ, bảo tồn toàn bộ Di sản Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu, tham gia xây dựng và hoàn thiện hồ sơ, phụ lục hồ sơ và các giải trình hồ sơ Di sản Thế giới Hoàng thành Thăng Long.

Đã nghiên cứu, cung cấp tư liệu khảo cổ học và chủ trì xây dựng hồ sơ Di sản Thành Nhà Hồ lần thứ 2, xây dựng các phụ lục hồ sơ, kế hoạch quản lý, giải trình chất vấn cho hồ sơ di sản Thành Nhà Hồ.

Tham gia nghiên cứu, xây dựng hồ sơ Di sản Thế giới Tràng An.

Trong các di sản trên đây, Di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long và Thành Nhà Hồ đã trở thành Di sản Thế giới. Di sản Tràng An đang được xem xét với tín hiệu khả quan từ UNESCO.

Hiện nay, công tác xây dựng quy hoạch khảo cổ học nhằm bảo vệ tốt các di sản khảo cổ học trong mối quan hệ hài hòa với công tác xây dựng đang được một số địa phương quan tâm. Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Khánh Hòa đã đi đầu trong việc điều tra, nghiên cứu xây dựng quy hoạch khảo cổ học Khánh Hòa. Sắp tới Viện đã và đang khởi động chương trình xây dựng quy hoạch khảo cổ học với Hà Nội, Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh, Bắc Ninh v.v… Hy vọng công tác quan trọng này sẽ có thành tựu bước đầu trong thời gian tới.

Với các thành tựu bảo tồn tiêu biểu nói trên, PGS.TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa đánh giá “… Với những hoạt động có hiệu quả thiết thực, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Viện Khảo cổ học đã và đang đóng vai trò tích cực trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc” (Khảo cổ học số 5/2004: 36).

5. Tích cực hợp tác quốc tế, tích cực tuyên truyền quảng bá tri thức khảo cổ học với công chúng và bạn bè quốc tế

Không ngừng nâng cao trình độ tri thức, Viện Khảo cổ học đã thu hút sự chú ý của hàng loạt các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu khảo cổ học quốc tế tham gia phối hợp nghiên  cứu như Nga, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Úc, Pháp, Bỉ, Bungari, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v…, các tổ chức khảo cổ học quốc tế lớn IPPA, SPAFA, Nabunkens… Thông qua các tổ chức khảo cổ học và các nhà khoa học quốc tế, Viện đã tổ chức nhiều hội nghị khoa học quốc tế lớn như Hội nghị Văn hóa Hòa Bình năm 1993, Hội nghị Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam (2001), Hội nghị Tiền sử châu Á - Thái Bình Dương (IPPA 2009), 2 Hội nghị tư vấn quốc tế về việc bảo tồn di sản Hoàng thành Thăng Long.

Trên 2000 bài báo đăng trên 180 số tạp chí Khảo cổ học có chất lượng được công luận khoa học đánh giá cao.

Cùng đó, hệ thống sách có giá trị khoa học cao cũng đã được in ấn vừa phục vụ việc quảng bá Di sản vừa phục vụ tốt công tác nghiên cứu khoa học. Tiêu biểu là các cuốn sách lớn như Hùng Vương dựng nước (04 tập), Trống đồng Đông Sơn, Văn hóa Đông Sơn, Khảo cổ học Việt Nam (03 tập), Hoàng thành Thăng Long, Hoàng thành Thăng Long - Lịch sử nghìn năm từ lòng đất, Thành Nhà Hồ, 47 tập kỷ yếu các Phát hiện khảo cổ học mới hàng năm và hàng trăm đầu sách của các cán bộ nghiên cứu khảo cổ học.

Cụm công trình Trống Đông Sơn ở Việt Nam, Hang Con Moong, Hùng Vương dựng nước của GS. Phạm Huy Thông, Theo dấu các nền văn hóa cổ của GS. Hà Văn Tấn được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Sách Hoàng thành Thăng Long năm 2008 do PGS.TS. Tống Trung Tín chủ biên được sử dụng làm quà tặng cho các nguyên thủ Hội nghị APEC của Nhà nước.

Công trình Hoàng thành Thăng Long - Lịch sử nghìn năm từ lòng đấtThành Nhà Hồ do PGS.TS. Tống Trung Tín chủ biên được trao giải Bạc sách hay.

III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

1. Mục tiêu đến năm 2020

Từ nay đến năm 2020, trên cơ sở các thành tựu đã đạt được thời gian qua, Viện Khảo cổ học phấn đấu để đạt các mục tiêu sau:

1. Tiếp tục xây dựng và phát triển Viện Khảo cổ học thành một cơ sở nghiên cứu hiện đại, toàn diện về khảo cổ học, có uy tín cao trong nước và quốc tế, có đóng góp cụ thể trong việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của khảo cổ học Việt Nam và khảo cổ học thế giới; Nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách về nguồn gốc dân tộc, lịch sử văn hóa và văn minh Việt Nam nhằm phát huy truyền thống dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Nghiên cứu, biên soạn và công bố có chọn lọc một số công trình nghiên cứu cơ bản về khảo cổ học Việt Nam có chất lượng cao, đạt chuẩn khu vực và quốc tế có tác động lớn đến quá trình hoạch định chính sách về bảo vệ và phát huy các giá trị lịch sử văn hóa Việt Nam.

3. Xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà khảo cổ học Viện với nòng cốt là đội ngũ các nhà khoa học có trình độ cao, có khả năng giải quyết những nhiệm vụ khoa học quan trọng, tham gia có hiệu qủa vào các chương trình nghiên cứu lớn do Nhà nước giao và các công trình hợp tác nghiên cứu khoa học quốc tế trong thời kỳ hội nhập.

2. Các nhiệm vụ đến năm 2020

a. Về công tác nghiên cứu

Bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khảo cổ học, do Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam quy định, chúng tôi dự kiến những hướng nghiên cứu lớn từ nay đến 2020 của Viện như sau:

- Xây dựng kế hoạch 5 năm và lâu dài hơn hướng đến năm 2020 trong việc đề ra các phương hướng nghiên cứu khảo cổ học. Tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch đã đề ra, trong đó hướng đến việc nghiên cứu, biên soạn và xuất bản sách Những vấn đề cơ bản về khảo cổ học Việt Nam, tập trung vào các vấn đề trọng điểm có chọn lọc với phương châm dứt điểm, hiệu quả nhằm hướng phục vụ việc nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt Nam, lịch sử văn hóa và văn minh Việt Nam, phát huy truyền thống dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.

- Tập trung hoàn thành các nhiệm vụ trọng điểm về nghiên cứu khoa học do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giao như Chương trình nghiên cứu phát huy giá trị của các di tích khảo cổ học địa điểm 62-64 Trần Phú, Chỉnh lý, nghiên cứu và phát huy giá trị của di tích khảo cổ học tại khu vực bãi xe ngầm Nhà Quốc hội. Tích cực tham gia vào việc nghiên cứu khảo cổ học Óc Eo.

- Đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng và phát triển ngành khảo cổ học dưới nước, tiến hành thực hiện bước đầu một số các hoạt động khảo cổ học dưới nước nhằm khai thác các tài nguyên văn hóa biển góp phần phục vụ nghiên cứu lịch sử dân tộc, phục vụ bảo vệ chủ quyền an ninh của Việt Nam ở các vùng biển và hải đảo, phục vụ du lịch sinh thái văn hóa biển.

- Thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các bộ, ngành, địa phương nhằm góp phần bảo vệ thật tốt các Di sản văn hóa dân tộc.

b. Về công tác phát triển nguồn nhân lực

- Kết hợp nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực khảo cổ học, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Học viện Khoa học xã hội.

- Tổ chức và thực hiện tốt công tác hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành.

- Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu, truyền bá các kiến thức khoa học tới quảng đại quần chúng.

c. Về công tác phát triển cơ sở hạ tầng

- Chỉnh trang và tăng cường các trang thiết bị hiện đại, phấn đấu không tụt hậu so với khu vực. Nếu có điều kiện sẽ kiến nghị với cấp trên xin chuyển đổi trụ sở 61 Phan Chu Trinh tới một địa chỉ khác lớn rộng hơn để xây dựng mới thật khang trang, rộng rãi đáp ứng nhu cầu làm việc của Viện đặc thù.

- Đặc biệt chú ý trang thiết bị hiện đại cho 3 phòng chuyên ngành rất đặc thù của Viện: Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước, phòng Nghiên cứu Con người và Môi trường cổ và phòng Xét nghiệm và Xác định niên đại.

- Kiện toàn hệ thống thư viện; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử. Đầu tư phát triển các phần mềm phân tích và xử lý số liệu phục vụ nghiên cứu.

3. Về công tác mở rộng mạng lưới cộng tác viên, quảng bá hình ảnh của viện

- Tăng cường quan hệ với các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước, các cơ quan hoạch định chính sách nhằm tăng cường nguồn lực nghiên cứu.

- Tăng cường quan hệ với các cộng tác viên trong và ngoài nước, khuyến khích gắn nghiên cứu lý thuyết với ứng dụng vào thực tế.

- Đầu tư cho cổng thông tin điện tử của Viện.

- Tăng cường chất lượng các hoạt động hội nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. Tiếp tục nâng cao chất lượng của Hội nghị Thông báo Khảo cổ học toàn quốc hàng năm.

- Chú trọng công tác truyền thông, xuất bản.

4. Hướng đột phá chiến lược

- Về khoa học: Sẽ hướng tới việc hình thành, lựa chọn và biên soạn một số công trình trọng điểm trong những vấn đề cơ bản của khảo cổ học Việt Nam để xuất bản phục vụ cho việc nghiên cứu nói chung.

- Về tổ chức nghiên cứu: Sẽ hoạt động tích cực nhằm xây dựng và phát triển bộ phận khảo cổ học dưới nước của Việt Nam phục vụ chiến lược nghiên cứu và khai thác tài nguyên văn hóa biển của Việt Nam.

*

*       *

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây, Viện Khảo cổ học cần phát huy những thành tựu cơ bản đã đạt được, chú ý đến những khó khăn, thách thức như:  Các di tích khảo cổ học đã và đang bị đe dọa biến mất ngày càng nhiều. Viện chưa có được một cơ sở vật chất đủ mạnh mang tầm khu vực mà thậm chí đang tụt hậu rất xa về mặt trang thiết bị làm việc và không gian làm việc…

Mặc dù còn có các điểm yếu cần khắc phục, nhưng các thành tựu đạt được vẫn  là cơ bản. Nhà nước ta đã lần lượt ghi nhận công trạng và tặng Viện Khảo cổ học các huân chương và danh hiệu cao quý: Huân chương Lao động hạng Nhất năm 1988, Huân chương Độc lập hạng Nhì năm 1998, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2004. Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2012. Tạp chí Khảo cổ học, nhiều thế hệ cán bộ khảo cổ học cũng đã lần lượt nhận được Huân chương Độc lập hạng Nhất (GS. Phạm Huy Thông), hàng chục huân chương Kháng chiến chống Mỹ, Huân chương Lao động, Bằng khen cấp Chính phủ và cấp Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Có được thành tựu to lớn đó là nhờ có sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các Bộ ngành liên quan, UBND các tỉnh, cán bộ và nhân dân các địa phương, các trường Đại học, các cơ quan nghiên cứu khảo cổ học, bảo tồn, bảo tàng cả nước. Nhân dịp này, Viện Khảo cổ học xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất.

Điểm lại thành tựu 45 năm qua, nhìn rõ thực trạng hôm nay, cán bộ Viện Khảo cổ học càng thêm tin tưởng, phấn khởi, tự hào và vững bước hướng đến tương lai, hoàn thành xuất sắc tất cả các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giao trên các chặng đường tìm hiểu quá khứ dựng và giữ nước vẻ vang của dân tộc.

 

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

In trang Chia sẻ

Tin khác