Viện Triết học

17:00 04/04/2023
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Tiền thân của Viện Triết học là Tổ Triết học được thành lập vào tháng 8 năm 1959 thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Ngày 4 tháng 4 năm 1962, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 43-CP quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Khoa học Nhà nước, trong đó chính thức có tên Viện Triết học. Sau khi tách ra khỏi Ủy ban Khoa học Nhà nước vào năm 1967, Viện Triết học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, sau đó là Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và hiện nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Năm 1959, Tổ Triết học do Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu phụ trách. Tháng 6 năm 1964, Giáo sư Phạm Như Cương chính thức được bổ nhiệm làm Viện trưởng đầu tiên của Viện Triết học. Giáo sư Lê Thi làm Quyền Viện trưởng, rồi Viện trưởng Viện Triết học từ 1981 đến 1988. GS.TS. Lê Hữu Tầng làm Viện trưởng Viện Triết học từ 1988 đến 1990. GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn làm Viện trưởng Viện Triết học từ 1991 đến 2005. PGS.TS. Phạm Văn Đức làm Quyền Viện trưởng rồi Viện trưởng Viện Triết học từ 2005 đến nay.

Viện Triết học có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là “nghiên cứu những vấn đề về sự phát triển của Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới góc độ triết học, góp phần vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng thế giới quan khoa học và phương pháp luận khoa học; tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về triết học; tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước”.

Hiện nay, Viện Triết học có gần 60 cán bộ, trong đó có khoảng 40 cán bộ nghiên cứu. Cơ cấu tổ chức của Viện Triết học gồm:

 - Các phòng nghiên cứu khoa học:

+ Phòng Triết học Mác - Lênin

+ Phòng Triết học phương Đông

+ Phòng Triết học phương Tây

+ Phòng Lịch sử triết học Việt Nam

+ Phòng Triết học xã hội

+ Phòng Triết học chính trị

+ Phòng Triết học văn hóa

+ Phòng Đạo đức học và Mỹ học

+ Phòng Triết học trong khoa học, công nghệ và môi trường

+ Phòng Lôgic học.

 - Các phòng chức năng, nghiệp vụ:

+ Phòng Tổ chức - Hành chính

+ Phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế

+ Phòng Thông tin - Thư viện.

 - Tạp chí Triết học:

Phòng Biên tập - Trị sự.

II. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU

1. Những thành tựu nghiên cứu khoa học

a. Những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 1959 - 1964

Trong giai đoạn này, Viện đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng triết học để nghiên cứu những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam; theo dõi triết học tư sản hiện đại và triết học trong vùng do Mỹ - Ngụy kiểm soát; nghiên cứu đạo đức học, mỹ học, triết học trong khoa học tự nhiên; theo dõi tình hình của triết học ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh việc viết sách báo, các cán bộ trong Viện đã tham gia các cuộc thảo luận về vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về cuộc đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa; về phương pháp nghệ thuật, mối quan hệ giữa Chân - Thiện - Mỹ, nội dung và hình thức trong nghệ thuật; về lý tưởng thẩm mỹ; về con người mới; về các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất đất nước; về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam (Tổng Bí thư Trường Chinh lúc đó trực tiếp theo dõi cuộc thảo luận về đề tài này); về chiến tranh và hoà bình; về mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu của thời đại và của cách mạng Việt Nam; về phương thức sản xuất châu Á; về mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học Việt Nam; sự truyền bá triết học Mác vào Việt Nam; tiêu chuẩn đạo đức mới; về bản chất của chủ nghĩa duy linh nhân vị; tính chất tôn giáo của các xu hướng triết học duy tâm hiện lưu hành ở miền Nam; v.v…

Thành tựu quan trọng nhất của Viện trong giai đoạn này là đã phục vụ đắc lực cho việc học tập và truyền bá triết học mácxít, góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp nhận thức khoa học, củng cố niềm tin trong cán bộ và nhân dân vào Đảng và vào thắng lợi tất yếu của dân tộc trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản của đất nước.          

b. Những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 1964 - 1975

Từ 1964 - 1975, Viện đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo lớn về các vấn đề cơ bản trong nghiên cứu triết học ở Việt Nam, như phương pháp và phương pháp luận; phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam; Nho giáo trong lịch sử và ảnh hưởng của nó tại Việt Nam; vấn đề con người mới, v.v… Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, Viện Triết học đã khai thác những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, nhất là chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nhằm động viên tinh thần yêu nước của quân và dân ta, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng miền Bắc hậu phương lớn của cả nước.

Bên cạnh đó là một số công trình nghiên cứu nhằm góp phần đấu tranh chống lại sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, phê phán các trào lưu triết học phản động, nhất là chủ nghĩa duy linh nhân vị - công cụ của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.

c. Những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 1975 - 1986

Có thể nói, về mặt nghiên cứu khoa học, trong thời kỳ 1975 - 1986, Viện Triết học đã gặt hái được nhiều thành quả mà thời kỳ trước đã chuẩn bị; đồng thời, cũng tạo thêm những điều kiện mới cho thời kỳ phát triển tiếp theo (có khoảng 650 bài nghiên cứu và hàng chục cuốn sách đã được công bố). Các nghiên cứu đã có những đóng góp chủ yếu sau:

 - Đưa ra những luận cứ khoa học về các vấn đề quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về vai trò then chốt của khoa học, kỹ thuật trong việc phát triển lực lượng sản xuất ở một nước đang trên đường phát triển; về sự cần thiết phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của các khoa học trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá...

- Từ góc độ triết học, tổng kết có giá trị những kinh nghiệm chỉ đạo quý báu của Đảng ta để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

- Truyền bá triết học Mác - Lênin ở Việt Nam và phân tích những vấn đề hiện đại của triết học.

- Nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc và lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.

Nhìn chung, nhiều công trình được công bố trong giai đoạn này vừa có tính chất lý luận, vừa có sự tổng kết tình hình thực tiễn.

d. Những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn từ 1986 đến nay

Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, nhờ sự nâng cao trình độ cán bộ mà Viện đã có khả năng nghiên cứu những vấn đề lớn của triết học và từ góc độ của mình, đóng góp vào sự nghiệp phát triển công tác lý luận của Đảng và Nhà nước, đã dần dần có tiếng nói trên các diễn đàn khoa học thế giới. Các công trình nghiên cứu của Viện thực sự đã góp phần làm rõ cơ sở khoa học của sự nghiệp đổi mới; nhận thức lại chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng; nhận thức những nét đặc thù và phổ biến của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Thứ nhất, khác với các thời kỳ trước đây, trong thời kỳ này, nghiên cứu cơ bản được chú trọng và đầu tư thích đáng cả về nhân lực lẫn kinh phí. Trong nhận thức của Viện, nghiên cứu cơ bản trong triết học và việc làm rõ vai trò của triết học trong thế giới đương đại là cơ sở quan trọng và không thể thiếu cho những nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai, từ đó gợi mở phương hướng có thể góp phần giải quyết những vấn đề bức thiết của đất nước.

Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về phép biện chứng, về chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhiều công trình đã lần lượt được xuất bản.

Trong số các công trình thuộc lĩnh vực này, có những công trình mang tính cơ bản, đi chuyên vào những khía cạnh lý luận chưa được khai thác sâu hoặc còn có ý kiến khác nhau; có nhiều công trình mang tính ứng dụng nhằm góp phần lý giải các vấn đề bức thiết của đất nước. Tùy từng thời kỳ mà trọng tâm chú ý được tập trung vào các vấn đề khác nhau. Từ nhiều góc độ, các vấn đề về ý thức, về mâu thuẫn, về phát triển và phát triển bền vững, về động lực của sự phát triển, về tiến bộ xã hội và tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội, cũng như của sự phát triển và sự tiến bộ của xã hội Việt Nam nói riêng, về khả năng và nghệ thuật vận dụng các khả năng, v.v… được quan tâm nhiều hơn cả và cũng là chỗ có nhiều đóng góp hơn cả.

Thứ hai, trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản, Viện đã đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận mà thực tiễn đất nước đặt ra nhằm tìm kiếm những lời giải khoa học, khả thi cho các vấn đề ấy.

  • Từ khi bắt đầu quá trình đổi mới đến nay, Viện đã có hàng trăm công trình lớn, nhỏ khác nhau đi sâu vào các vấn đề lý luận do thực tiễn đất nước đặt ra.
  • Đảng và Nhà nước ngày càng tin tưởng hơn vào khả năng của đội ngũ những người nghiên cứu lý luận nói chung và những người công tác trong lĩnh vực triết học nói riêng. Nhờ vậy, một số cán bộ trong Viện đã được giao nhiều nhiệm vụ, đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào nhiều đề tài hoặc chương trình nghiên cứu khoa học các cấp khác nhau; góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đổi mới tư duy, trước hết là tư duy lý luận, đổi mới xã hội, hoạch định cương lĩnh, chiến lược kinh tế - xã hội, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, các chính sách của Đảng và Nhà nước.
  • Theo hướng nghiên cứu ứng dụng này, những người nghiên cứu đã tập trung vào các vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra bằng cách áp dụng những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Số công trình nghiên cứu ngày một nhiều hơn, tập trung vào những vấn đề khác nhau, như nguồn gốc, động lực của sự phát triển, đặc biệt là của sự phát triển xã hội; làm rõ một số động lực cơ bản cần  quan tâm, như nhu cầu, lợi ích (nhất là lợi ích cá nhân), môi trường tâm lý xã hội, dân chủ, công bằng và bình đẳng xã hội; nghiên cứu đặc trưng cơ bản của quy luật xã hội, những điều kiện và con đường nhận thức các quy luật xã hội và vấn đề vận dụng các quy luật xã hội trong điệu kiện nước ta hiện nay; bước đầu tập trung phân tích triết lý phát triển của xã hội Việt Nam, phân tích triết lý về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; luận giải các vấn đề trách nhiệm xã hội, công bằng xã hội và đoàn kết xã hội; góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • Liên quan chặt chẽ với các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử trước hết là vấn đề hình thái kinh tế - xã hội; đã có nhiều công trình bàn về vấn đề này. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất nhận định rằng, trong khi xem xét sự phát triển của xã hội, chúng ta không loại trừ các cách tiếp cận khác. Song, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn là cơ sở phương pháp luận cho sự phân tích khoa học về xã hội, là chỗ dựa vững chắc để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo về những bước đi sắp tới của chúng ta và về khả năng phát triển rút ngắn của Việt Nam nhằm tránh sự tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Bên cạnh đó, các công trình đã luận chứng về sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên và về vai trò của nhân tố chủ quan trong sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội mới; khẳng định việc phải nhận thức cho đúng quan điểm của C.Mác rằng, chủ nghĩa tư bản như một hệ thống vẫn còn khả năng phát triển của nó để tránh những đánh giá chủ quan, duy ý chí. Do vậy, việc tiếp thu những thành quả trong chủ nghĩa tư bản và của chủ nghĩa tư bản là hết sức cần thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • Xuất phát từ cơ sở phương pháp luận như vậy, các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn”, có thể “bỏ qua” chủ nghĩa tư bản với tính cách một hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ chính trị. Tuy nhiên, để thực hiện sự phát triển rút ngắn, cần phải tôn trọng các quy luật xã hội khách quan, đặc biệt là quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cho đến nay, sự luận chứng kiên trì và có căn cứ của giới lý luận nói chung, và của Viện Triết học nói riêng, trong nhiều năm về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong tương quan với quan hệ sản xuất, chứ không phải là quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường cho lực lượng sản xuất; về vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều loại hình sở hữu, của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tri thức v.v… đã được thực tế cuộc sống hoàn toàn xác nhận là đúng đắn.
  • Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, không thể chỉ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, mà còn phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó có hình thức phân phối theo các đóng góp khác và theo nguồn vốn. Lợi ích cá nhân là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động. Do vậy, trong các chủ trương và chính sách, cũng như trong công tác lãnh đạo, quản lý, việc kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với các lợi ích khác là một nguyên tắc hết sức quan trọng.
  • Tương tự như vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, một vấn đề rất nhạy cảm nhưng lại hết sức quan trọng khác đã được Viện Triết học đề cập trong khá nhiều công trình và giờ đây cũng đã được Đảng ta hoàn toàn chấp nhận đưa vào các văn kiện của Đại hội IX là vấn đề thực hiện dân chủ trong xã hội và việc xây dựng một xã hội thực sự do dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến. Sự luận chứng từ góc độ triết học về vai trò động lực của dân chủ đối với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, đối với xã hội ta nói riêng, có thể nói, là thực sự có giá trị. Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ đóng góp với tinh thần trách nhiệm và khả năng cao nhất của mình vào việc thực hiện cho bằng được mục tiêu mà cả dân tộc ta từng mong ước là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Bên cạnh đó, vấn đề con người từ lâu đã thu hút sự chú ý của các cán bộ nghiên cứu của Viện. Các nghiên cứu về con người đã chỉ ra rằng, so với các nguồn lực khác, thì nguồn lực con người có vai trò quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; rằng, phát triển nguồn lực con người là giải pháp cơ bản hàng đầu để thực hiện chiến lược phát triển xã hội theo con đường “rút ngắn”.

- Trong những năm gần đây, Viện Triết học tiếp tục tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay; vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển của đất nước (thông qua 2 chương trình cấp bộ trong thời gian từ 2009 - 2012). Đặc biệt, Viện đã có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ trong việc triển khai hội thảo, nghiên cứu về những vấn đề quan trọng, như mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, văn hóa đối với sự phát triển xã hội, Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, Hàn Quốc và Đài Loan, trách nhiệm xã hội nói chung và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói riêng...

Thứ ba, trong việc kế thừa và vận dụng các di sản tư tưởng triết học, di sản văn hoá, các giá trị truyền thống của cha ông vào công cuộc xây dựng đất nước trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, Viện đã tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản, như lịch sử tư tưởng, trước hết là tư tưởng triết học Việt Nam; lịch sử Phật giáo Việt Nam; các vấn đề của Nho giáo Việt Nam; các giá trị truyền thống đã được thẩm định.

- Một đóng góp quan trọng của lĩnh vực nghiên cứu lịch sử triết học trong hơn 50 năm qua là đã kiên trì từng bước tập hợp tư liệu, tiến hành dịch và khai thác những giá trị về tư tưởng nói chung, và tư tưởng triết học nói riêng, của dân tộc đã được tích lũy suốt hàng bao thế kỷ nay. Những việc làm này đã được tiến hành với các mức độ và quy mô khác nhau tuỳ theo từng thời điểm lịch sử, ngay từ khi đất nước còn chiến tranh cho đến tận hôm nay. Kết quả là, Viện đã có được những công trình của tập thể hoặc của các cá nhân nghiên cứu về từng nhà tư tưởng lớn của dân tộc hoặc về một giai đoạn nhất định trong lịch sử. Một vài công trình trong số đó đã được tái bản nhiều lần và được biết đến rộng rãi cả ở trong lẫn ngoài nước. Ở hướng này, hàng trăm bài báo và hàng chục chuyên khảo đã được xuất bản và hiện vẫn là hướng cơ bản, lâu dài của Viện

- Đặc biệt, liên quan đến mảng đề tài lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, việc nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đã được bắt đầu từ khá sớm tại Viện qua các bài báo từ khi mới chỉ là tờ Thông báo Triết học. Về sau, một số công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã hoàn thành và xuất bản. Viện xác định việc nghiên cứu tư tưởng Việt Nam, nhất là những tư tưởng triết học, là một trong những nhiệm vụ lâu dài của chuyên ngành lịch sử triết học.

- Cùng với các chuyên ngành khác của triết học, chuyên ngành mỹ học và đạo đức học đã có đóng góp không nhỏ trong việc nghiên cứu, truyền bá kiến thức mỹ học và đạo đức học. Viện đã tích cực, chủ động tham gia lý giải cơ sở khoa học trong những quan điểm của đường lối đổi mới văn hoá, văn nghệ của Đảng. Các kiến giải khoa học ấy góp phần quan trọng vào các định hướng cơ bản cho việc thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng.

- Các công trình mỹ học của Viện đã xây dựng được một hệ thống quan điểm khoa học cơ bản về cái đẹp bắt nguồn từ thực tiễn lao động sản xuất và chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với cái thật và cái tốt; về văn hoá, nghệ thuật với tính cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù; về tính dân tộc và tính nhân dân của văn hoá, nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu sâu sắc mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ trong sự vận động của bộ ba giá trị Chân - Thiện - Mỹ trong nền văn hoá, nghệ thuật nước ta.

- Trong lĩnh vực đạo đức học, ngay từ khi mới thành lập, Viện Triết học đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đạo đức, đặc biệt là việc xây dựng một hệ thống phạm trù đạo đức học mácxít; những động lực tinh thần - đạo đức của sự nghiệp đấu tranh thống nhất và xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa tập thể được phân tích như là những nguyên tắc của đạo đức mới. Những nguyên tắc này bắt nguồn từ truyền thống tinh thần của dân tộc, được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và trở thành những yêu cầu đạo đức cơ bản nhất của đạo đức mới, đạo đức cách mạng.

Đặc biệt, Viện Triết học đã tập trung luận chứng về mặt khoa học cho giá trị đạo đức của người lao động, qua đó xây dựng thái độ tự giác đối với lao động với tính cách nguyên tắc đạo đức. Đồng thời, khẳng định rằng trong điều kiện kinh tế thị trường, nguyên tắc đạo đức trong lao động không loại trừ lợi ích chính đáng khi đạt giá trị và hiệu quả kinh tế cao; trái lại, kinh doanh và lao động chỉ đạt hiệu quả cao, bền vững khi nguyên tắc đạo đức được tôn trọng, khi kinh doanh có đạo đức và vì con người.

Từ khi đổi mới đến nay, trong tinh thần đổi mới tư duy, nghiên cứu đạo đức học cũng đã cố gắng khắc phục những quan niệm giáo điều của giai đoạn trước và nhìn nhận một cách thực tế hơn những vấn đề đạo đức đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những công trình đạo đức học do Viện Triết học thực hiện, tác động hai mặt của cơ chế thị trường, tiến bộ công nghệ, giao lưu văn hoá đã được nghiên cứu khá kỹ. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế trong lĩnh vực đạo đức đã được nhìn nhận lại trên tinh thần đổi mới tư duy. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cũng được đẩy mạnh nghiên cứu thêm một bước. Từ những thành tựu đó, việc nghiên cứu về giáo dục và xây dựng đạo đức có hiệu quả hơn với những đề xuất về các giải pháp có tính khả thi trong quá trình xây dựng đạo đức mới. Những vấn đề đạo đức của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang tiếp tục là những vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Các công trình cũng đã chỉ ra, phân tích xu hướng xuống cấp về đạo đức đáng lo ngại trong một bộ phận dân cư và cán bộ, đảng viên.

Chung quy lại thì mọi sự phát triển và tiến bộ đều phải nhắm đến một cái đích, đó là đều phải vì sự tiến bộ và sự phát triển, vì hạnh phúc của con người, giúp con người hướng tới cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ. Tất cả các khoa học triết học, dù là nghiên cứu về tư duy hay nghiên cứu về xã hội, dù là nghiên cứu về đời sống thẩm mỹ hay đời sống đạo đức của con người, đều có nghĩa vụ góp phần làm tăng thêm khả năng và quyền lực của con người trước tự nhiên nhưng lại phải biết sống hài hoà với tự nhiên và đem lại cho con người khả năng tự hiểu biết về mình và về xã hội, từ đó tạo ra cho mình động lực hoạt động và quyết tâm hành động để đạt được lý tưởng mà con người mong ước.

- Việc nghiên cứu và giới thiệu triết học thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây, với bạn đọc Việt Nam đã có những kết quả tích cực. Điều này thể hiện ở chỗ, Viện đã tổ chức thành công một số Hội thảo quốc tế không chỉ về triết học Mác - Lênin, mà còn về một số nền triết học khác trên thế giới. Chẳng hạn, năm 2009, Viện đã phối hợp với tổ chức MISEREOR (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức hội thảo về công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội; gần đây - năm 2012, Viện Triết học đã phối hợp với Đại sứ quán Cộng hòa Áo tại Việt Nam tổ chức thành công hội thảo quốc tế với chủ đề “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó” thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu triết học từ Áo, Việt Nam, Hoa Kỳ, Đài Loan, Trung Quốc... Trên Tạp chí Triết học cũng thường xuyên đăng tải bài nghiên cứu triết học của các học giả nước ngoài, như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Thụy Điển,... nhằm giới thiệu với bạn đọc Việt Nam. Các công trình xuất bản trong nhiều năm qua đã tập trung vào các triết gia lớn của nhân loại, khai thác các giá trị trong nhiều học thuyết của họ theo một cách nhìn mới. Có thể nói, Viện Triết học liên tục cập nhật, giao lưu và tập trung nghiên cứu một cách phong phú, đa dạng các dòng tư tưởng triết học khác nhau trên thế giới, cả triết học phương Đông và phương Tây đương đại. Điều đáng mừng là, những công trình như vậy đã được đông đảo bạn đọc trong cả nước quan tâm. Đó là bằng chứng cho thấy nhu cầu hiểu biết về triết học không phải là nhỏ.

Thứ tư, các chuyên ngành lôgic học và triết học trong khoa học tự nhiên và môi trường tuy ra đời ở nước ta muộn hơn so với các chuyên ngành khác, nhưng các cán bộ lại được đào tạo khá chính quy cả triết học lẫn các khoa học tự nhiên, như vật lý học, sinh học, hoá học, toán học và lôgic học.

Nhiều công trình nghiên cứu về triết học trong vật lý học, trong sinh học, trong sinh thái học, trong toán học và có phần ít hơn trong hoá học của các tác giả ở trong Viện đã được công bố trên các tạp chí hoặc dưới dạng sách.

Chuyên ngành lôgic học tuy gặp nhiều khó khăn và hạn chế nhưng cần ghi nhận sự đóng góp đáng quý của những người nghiên cứu lôgíc học ở Viện Triết học. Các công trình của họ được xuất bản trong lĩnh vực này đã có đóng góp nhất định vào việc trang bị kiến thức cơ bản về lôgíc học, vào việc phát triển tư duy và việc góp phần khắc phục những yếu kém trong tư duy lý luận.

e. Đánh giá chung về hoạt động khoa học từ khi bắt đầu quá trình đổi mới đến nay có thể rút ra một số điểm như sau:

- Sự trưởng thành của cán bộ trong Viện là điều dễ nhận thấy, nhờ vậy mà các kết quả nghiên cứu cũng rõ rệt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Các sản phẩm khoa học năm sau thường nhiều hơn năm trước. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số cán bộ có công trình cá nhân được in nhiều hơn tại các nhà xuất bản có uy tín.

- Chất lượng các công trình được nâng cao hơn, vừa bảo đảm tính triết học, vừa phục vụ tốt hơn những đòi hỏi của cuộc sống theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng.

- Trong những năm gần đây, việc thu hút hàng trăm lượt cán bộ thực hiện các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ là dịp tốt để anh chị em nâng cao năng lực nghiên cứu của mình. Hiện tại, Viện đang chủ trì và triển khai thực hiện 2 đề tài khoa học cấp Nhà nước về thực hành dân chủ, lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; 5 đề tài cấp bộ và 5 đề tài do Quỹ Nafosted tài trợ. Ngoài ra, còn có gần 20 đề tài cấp viện đang được triển khai nghiên cứu trong năm 2013.

- Thông qua việc thực hiện những công trình khoa học lớn, cán bộ trong Viện có thêm kinh nghiệm về các cách tổ chức thực hiện khác nhau trong khi nhận những nhiệm vụ quan trọng, trong việc quản lý kinh phí và đánh giá sản phẩm.

- Viện đã tổ chức được nhiều đợt đi khảo sát thực tế khắp cả nước phục vụ các đề tài nghiên cứu cũng như cử nhiều lượt người đi nước ngoài hàng năm, nhờ vậy mà sự am hiểu của cán bộ trong Viện về đời sống xã hội cũng như tầm nhìn quốc tế cũng tốt hơn trước đây.

- Uy tín khoa học của Viện ở trong và ngoài nước cũng như sự tín nhiệm về chính trị đã ngày càng được khẳng định.

- Mọi sự thành công trong nghiên cứu khoa học và trong các hoạt động khác của Viện gắn liền với sự đóng góp và công sức của cả chi bộ Đảng, các đoàn thể, như Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn, chi hội cựu chiến binh Viện Triết học. Chi bộ Đảng trong nhiều năm liên tục được công nhận là chi bộ mạnh của Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Nét nổi bật nhất của chi bộ và các đoàn thể trong Viện là tinh thần đoàn kết, nhất trí vì sự nghiệp chung của Viện, của Đảng và của dân tộc.

2. Những đóng góp trong lĩnh vực khác

a. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng triết học

Sau khi đất nước thống nhất, việc giảng dạy triết học ở đại học được coi là nhiệm vụ quan trọng. Các cán bộ của Viện là lực lượng chủ chốt đã tham gia giảng dạy tất cả các chuyên ngành cho Khoa Triết học thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội mới được thành lập: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lịch sử triết học, đạo đức học, mỹ học, triết học trong khoa học tự nhiên. Viện Triết học đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và đào tạo có chất lượng cao những khoá sinh viên đầu của các Khoa Triết học tại các Trường Đại học Tổng hợp (Hà Nội thành lập từ 1976 và thành phố Hồ Chí Minh thành lập từ 1975).

Kể từ khi được Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học, Viện đã tuyển nhiều khóa nghiên cứu sinh và học viên cao học ở tất cả các địa phương trong cả nước. Có thể nói, về phương diện đào tạo sau đại học, Viện Triết học được đánh giá là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu của Việt Nam về lĩnh vực triết học. Tính đến năm 2009 - khi Viện Triết học còn là một cơ sở đào tạo độc lập, đã có khoảng hơn 120 người bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, trong đó không ít luận án được đánh giá xuất sắc và đã được xuất bản thành sách; hàng trăm học viên cao học đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ triết học. Từ năm 2010, Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được thành lập với chức năng đào tạo sau đại học các ngành khoa học xã hội, trong đó có lĩnh vực khoa học triết học. Trong cơ cấu tổ chức đào tạo mới đó, hầu hết các cán bộ có học vị tiến sĩ đều là cán bộ kiêm nhiệm của Khoa Triết học thuộc Học viện Khoa học xã hội.

Chính việc đào tạo nghiêm túc, bảo đảm chất lượng cao, không chạy theo cơ chế thương mại hoá bằng cấp đã nâng cao uy tín của Viện. Sự thừa nhận của xã hội đối với sự đóng góp của Viện trong lĩnh vực đào tạo là phần thưởng quý giá đối với các thế hệ thầy giáo, cô giáo trong toàn Viện.

Do đạt được những thành tích trong nghiên cứu khoa học và đào tạo, nhiều cán bộ của Viện Triết học đã được Nhà nước phong học hàm (nay là chức danh) giáo sư và phó giáo sư. 

b. Hoạt động Tạp chí

Năm 1966, tờ Thông báo Triết học ra đời với lực lượng viết chủ yếu là các cán bộ nghiên cứu của Viện. Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ thuyết minh đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng, Thông báo Triết học đã có những sự sáng tạo nhất định trong một số lĩnh vực như nghiên cứu lịch sử tư tưởng và tổng kết thực tế.

Sau 25 số, tờ Thông báo Triết học đã chuyển thành Tạp chí Triết học. Hiện nay, Tạp chí Triết học không chỉ là cơ quan ngôn luận của Viện Triết học, mà còn là diễn đàn khoa học của ngành và của nhiều bạn đọc quan tâm đến triết học. Mạng lưới cộng tác viên của Viện đã có sự phát triển quan trọng, bao gồm không chỉ các cán bộ nghiên cứu của Viện Triết học, mà còn có cả những cán bộ giảng dạy, những người làm công tác nghiên cứu lý luận, quản lý... trên cả nước.  Sau hơn 40 năm hoạt động, Tạp chí Triết học ngày càng ổn định và phát triển. Hiện nay, Tạp chí Triết học mỗi năm ngoài 12 số tiếng Việt (900 bản/số), còn có 4 số tiếng Anh (200 bản/số). Cơ cấu bài đăng trên Tạp chí Triết học (bản tiếng Anh) bao gồm một số bài nghiên cứu (đã đăng) được tuyển chọn từ Tạp chí Triết học (bản tiếng Việt) và một số bài mới đăng lần đầu tiên. Có thể nói, Tạp chí Triết học (bản tiếng Anh) là một trong những kênh quan trọng để Viện giới thiệu những tư tưởng triết học của Việt Nam và tình hình nghiên cứu triết học ở Việt Nam với cộng đồng quốc tế. 

Ngoài 25 số Thông báo Triết học (1966-1972), từ tháng 1-1973 đến nay, Tạp chí Triết học đã phát hành đợc 256 số tiếng Việt và 22 số tiếng Anh (bắt đầu từ năm 2007). Tổng số bài đã đăng trên các số Thông báo Triết học và Tạp chí Triết học (tiếng Việt) vào khoảng 3.200 bài nghiên cứu, trên 500 bài thông tin và khoảng 250 bài giới thiệu sách.

Số kỳ xuất bản của Tạp chí Triết học tăng dần. Cụ thể là:

- Trong thời gian 1966-1995, Tạp chí Triết học ra 4 số/năm (3 tháng/số).

- Từ năm 1996 đến tháng 6-2001, Tạp chí ra 6 số/năm (2 tháng/số).

- Từ tháng 7-2001 đến nay, Tạp chí ra 12 số/năm (1 tháng/số).

Về hình thức, từ số 1 năm 1988, Tạp chí Triết học được in theo khổ lớn (19 x 27cm) và đóng bìa cứng... Từ số 1 năm 2008, để đáp ứng nhu cầu phát triển của công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học cũng như nhu cầu của bạn đọc, Tạp chí Triết học (tiếng Việt) đã tăng số trang, từ 64 trang lên 84 trang.

Sự phát triển mạnh mẽ của Tạp chí Triết học từ năm 1996 đã tạo điều kiện phản ánh và đáp ứng sự phát triển của ngành triết học Việt Nam cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng của đội ngũ các nhà nghiên cứu và giảng dạy triết học trong cả nước; kịp thời đăng tải các thành tựu nghiên cứu và ứng dụng triết học, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của đất nước.

Về nội dung, Tạp chí đó:

- Công bố kịp thời những kết quả nghiên cứu mới nhất của các nhà nghiên cứu triết học ở Việt Nam, những vấn đề triết học đặt ra ở Việt Nam và trên thế giới.

- Giới thiệu các khuynh hướng, phương pháp và thành tựu nghiên cứu triết học trên thế giới góp phần cung cấp thông tin cập nhật và hiện đại hóa ngành triết học của Việt Nam.

- Góp phần xây dựng và luận chứng cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

- Làm sáng tỏ những ý nghĩa và giá trị trong lịch sử triết học của nhân loại cũng như trong lịch sử tư tưởng của dân tộc.

- Góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cho cán bộ và nhân dân trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tham gia đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

 - Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu lý luận nói chung và nghiên cứu triết học nói riêng ở Việt Nam thông qua việc đăng tải thường xuyên kết quả nghiên cứu của các tác giả theo các chuyên đề, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học trong nước, biên tập và xuất bản một số cuốn sách của Viện Triết học…

- Bên cạnh việc coi trọng nghiên cứu cơ bản, Tạp chí luôn quan tâm đến việc nghiên cứu ứng dụng, trước hết là việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

- Góp phần vào việc đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy triết học của đất nước.

Tạp chí không chỉ chuyển tải kết quả nghiên cứu của của giới nghiên cứu và giảng dạy triết học nước ta, mà còn góp phần cung cấp cho bạn đọc những tri thức, thông tin khoa học có giá trị về các vấn đề triết học hoặc liên quan đến khoa học triết học. 

Có thể khẳng định rằng, trong thời gian qua, Tạp chí Triết học đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ; thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích: công bố, phổ biến những kết quả nghiên cứu triết học trong và ngoài nước; góp phần cung cấp những căn cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cho cán bộ và nhân dân trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nội dung của Tạp chí tương đối đa dạng, đề cập đến tất cả các chuyên ngành triết học cũng như các lĩnh vực của đời sống xã hội từ góc độ triết học. Trong nghiên cứu cơ bản, Tạp chí đã đăng tải nhiều bài viết thuộc các chuyên ngành: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử triết học (gồm lịch sử triết học phương Đông, lịch sử triết học phương Tây và lịch sử triết học Việt Nam), lôgíc học, đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội, triết học văn hoá, triết học trong khoa học tự nhiên và môi trường,... Đồng thời, Tạp chí thường xuyên có những bài viết lý giải các vấn đề lý luận do thực tiễn Việt Nam đặt ra, các vấn đề lý luận quan trọng trong các Nghị quyết Đại hội của Đảng, hoặc các bài viết phân tích, luận giải những vấn đề cấp bách của thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

c. Hoạt động hợp tác quốc tế

Trong quá trình hình thành và phát triển, Viện Triết học đã có quan hệ hợp tác quốc tế với Viện Triết học của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, như Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari, Cộng hoà dân chủ Đức, Trung Quốc... Nhiều công trình nghiên cứu - kết quả của sự hợp tác quốc tế được xuất bản và được đánh giá tốt. Khoảng 10 năm trở lại đây, Viện Triết học đã có những phát triển vượt bậc trong hoạt động hợp tác quốc tế. Bên cạnh việc duy trì quan hệ với các đối tác cũ thì Viện đã mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo với một số trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ khoa học ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác nhau, như Âu, Mỹ thì có các nước: Đức, Áo, Mỹ, Czech, Latvia,...; Đông Bắc Á có Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan; Đông Nam Á có Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippines, v.v…

Các hội thảo quốc tế song phương và đa phương được duy trì thường xuyên và có chiều sâu. Chẳng hạn, Viện đã phối hợp với Viện Triết học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc tổ chức 7 hội thảo quốc tế xoay quanh những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà cả hai bên cùng quan tâm. Viện đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn Triết, Hàn lâm Viện Sinica Đài Loan tổ chức 4 hội thảo quốc tế về chủ đề “Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông Á”; phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Nho học, Đại học Chungnam, Hàn Quốc tổ chức 5 hội thảo quốc tế về “Nho giáo Việt Nam và Nho giáo Hàn Quốc”;  phối hợp với Hội đồng Nghiên cứu Giá trị và Triết học (RVP), Đại học Công giáo Hoa Kỳ tổ chức 3 hội thảo quốc tế về chủ đề Văn hóa ở Việt Nam và Viện cũng cử người tham dự 5 hội thảo khác nhau tại RVP... Sản phẩm khoa học của các kỳ hội thảo được đăng tải trên tạp chí của Việt Nam cũng như của các nước bạn. Nhiều cuốn kỷ yếu đã được xuất bản thành sách tại Việt Nam, Hoa Kỳ, Đài Loan, Trung Quốc.

Đặc biệt, Viện đã cử cán bộ liên tục tham gia các đại hội triết học thế giới lần thứ XIX (tháng 8/1993) tại Mátxcơva, Nga; lần thứ XX (tháng 8/1998) tại Boston, Mỹ; lần thứ XXI (tháng 8/2003) tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ; lần thứ XXII (tháng 8/2008) tại Seoul, Hàn Quốc và lần thứ XXIII (tháng 8/2013) tại Athen, Hy Lạp. Tại các đại hội đó, đoàn Việt Nam tranh thủ giới thiệu với bạn bè quốc tế về triết học Việt Nam, giáo dục triết học ở Việt Nam, công cuộc đổi mới ở Việt Nam và nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Năm 2008, PGS.TS. Phạm Văn Đức - Viện trưởng Viện Triết học, Tổng biên tập Tạp chí Triết học đã được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn quốc tế các hội triết học (FISP).

Cũng thông qua các quan hệ hợp tác quốc tế mà cơ hội đi học, đào tạo tại nước ngoài cho các cán bộ trẻ trong Viện được mở rộng, trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của cán bộ ngày càng tiến bộ. Bên cạnh đó, số lượng các công trình nghiên cứu của cán bộ trong Viện được in ở nước ngoài ngày một nhiều hơn.

Ghi nhận sự nỗ lực và cố gắng không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ Viện Triết học cũng như những thành tích to lớn, những đóng góp quan trọng của Viện, Nhà nước đã tặng thưởng Viện Triết học Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 1984), Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2002); Huân chương Độc lập hạng Ba (năm 2010), tặng thưởng Tạp chí Triết học Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1984), Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2009). Ngoài ra, một số cán bộ của Viện cũng đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương các loại.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN ĐẾN NĂM 2020

              Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ đã nêu trên cũng như căn cứ vào yêu cầu của sự phát triển đất nước, định hướng phát triển của Viện Triết học đến năm 2020 là:

Thứ nhất, công tác nghiên cứu chuyên môn được đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển của Viện trong những năm tới. Việc đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận phải gắn chặt với việc trả lời những câu hỏi cấp bách do thực tiễn đất nước đang đặt ra. Tiếp tục nâng cao chất lượng, chiều sâu của hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện trên ba hướng chính:

- Nghiên cứu những vấn đề triết học nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống, do sự phát triển đất nước đặt ra, đó là các vấn đề triết học chính trị, triết học kinh tế, triết học xã hội và triết học văn hóa.

- Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam nhằm làm sáng tỏ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cần được kế thừa, bảo tồn và phát huy trong điều kiện, bối cảnh lịch sử mới nhằm góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã vạch ra.

- Tăng cường nghiên cứu các trào lưu triết học phương Đông và phương Tây nhằm tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc.

Thứ hai, coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ chuyên môn cao, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức tham gia giải quyết các vấn đề lý luận do thực tiễn đất nước đặt ra từ góc độ triết học. Đối với các cán bộ nghiên cứu trẻ, Viện tập trung bồi dưỡng hình thành các hướng đi chuyên môn để tạo thành các chuyên gia sau nay, tiếp tục đẩy mạnh khả năng ngoại ngữ và hội nhập quốc tế của cán bộ trẻ.

Thứ ba, xây dựng môi trường dân chủ, đoàn kết, phát huy truyền thống giúp đỡ lẫn nhau... tạo điều kiện thuận lợi cho sự lao động sáng tạo của đội ngũ cán bộ nói chung, của cán bộ nghiên cứu nói riêng. Mở rộng cơ hội nghiên cứu, duy trì môi trường nghiên cứu khoa học công bằng, nghiêm túc, sôi nổi và lành mạnh cho các cán bộ trong Viện.

Thứ tư, kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực triết học, cán bộ giảng dạy phải là những người nghiên cứu để truyền đạt cho người học những kiến thức cơ bản, có ý nghĩa và cập nhật nhất. Định hướng các học viên cao học và nghiên cứu sinh triết học đi vào những vấn đề quan trọng và thiết thực, khuyến khích tham gia các đề tài nghiên cứu để nâng cao trình độ và dần dần tạo thành một mạng lưới nghiên cứu rộng hơn.

Thứ năm, tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ..., giao lưu học thuật với các cơ quan trong nước và các trường đại học, cơ sở nghiên cứu của nước ngoài.

 

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

In trang Chia sẻ

Tin khác