I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Viện Nhà nước và Pháp luật đã trải qua 45 năm xây dựng và phát triển. Bốn mươi lăm năm – đó là cả một chặng đường dài không ngừng phấn đấu và trưởng thành về mọi mặt của tập thể cán bộ, viên chức, công chức Viện Nhà nước và Pháp luật.
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Viện Nhà nước và Pháp luật trải qua bốn thời kỳ cơ bản:
Thời kỳ 1959 - 1967: Tháng 8 năm 1959, Tổ Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Nhà nước – tiền thân của Viện Nhà nước và Pháp luật, được thành lập. Nhiệm vụ đặt ra đối với Tổ Luật học thời kỳ này là nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước.Trong khoảng 7 năm tồn tại, Tổ Luật học là một trong những trung tâm đầu tiên ở nước ta tập hợp cán bộ pháp lý để nghiên cứu những vấn đề Nhà nước và pháp luật. Hoạt động của Tổ Luật học đã đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng của một trung tâm nghiên cứu khoa học đầu ngành của giới luật học.
Thời kỳ 1967 - 1986: Ngày 31/07/1967, trên cơ sở Tổ Luật học, Viện Luật học – một trong 5 viện thuộc cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, được thành lập theo Nghị định số 117/CP của Hội đồng Chính phủ. Năm 1972, Tạp chí Luật học - cơ quan ngôn luận của Viện Luật học và giới luật học Việt Nam, diễn đàn nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước và pháp luật - đã ra đời và trở thành một bộ phận thuộc cơ nằm trong cơ cấu của Viện Luật học. Năm 1985, Viện Luật học được chọn là cơ sở đầu tiên đào tạo nghiên cứu sinh khoa học pháp lý ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tổ chức và biên chế của Viện Luật học có những thay đổi so với trước theo hướng sắp xếp lại và mở rộng hơn phù hợp với phương hướng nghiên cứu và tổ chức hoạt động nghiên cứu của Viện.
Từ năm 1967 - 1975, hoạt động khoa học của Viện Luật học đã tập trung đề cập những vấn đề cơ bản về Hiến pháp Việt Nam; về xây dựng hệ thống pháp luật và pháp chế Việt Nam; Hiệp định Pari về Việt Nam, vấn đề thống nhất đất nước về mặt Nhà nước và về mặt pháp luật; những vấn đề cơ bản của luật kinh tế, luật hình sự, luật quốc tế và những vấn đề khác.
Sau năm 1975, Viện Luật học có bước phát triển mới. Viện được bổ sung một lực lượng đông đảo các cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản về Luật học ở Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức và từ nguồn đào tạo trong nước.Từ năm 1975 - 1986, Viện Luật học tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng chính quyền, thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước và về mặt pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, những vấn đề lý luận về luật kinh tế, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật đất đai, luật hợp tác xã, luật nông nghiệp, quản lý hành chính, luật biển...Viện đã gắn kết tốt việc nghiên cứu lý luận cơ bản với các vấn đề cấp bách của đời sống chính trị - pháp lý và thực tiễn của đất nước, tích cực tham gia vào việc xây dựng pháp luật, trong đó có việc tham gia xây dựng Hiến pháp năm 1980, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Thời kỳ 1986 - 2004: Ngày 13/05/1986, theo Nghị định số 64/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Viện Luật học được đổi tên thành Viện Nhà nước và Pháp luật và từ ngày 22/5/1993 đổi thành Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Từ năm 1987, Tạp chí Luật học được đổi tên thành Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Năm 1991, Viện Nhà nước và Pháp luật là cơ sở đầu tiên được phép đào tạo Cao học Luật ở Việt Nam. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật tiếp tục được củng cố về tổ chức và cán bộ.
Trên cơ sở ổn định về tổ chức, hoạt động nghiên cứu và đào tạo của Viện được triển khai trên quy mô lớn, bao quát hầu khắp các lĩnh vực khoa học pháp lý. Ngoài các hướng nghiên cứu lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, hoạt động nghiên cứu của Viện tập trung vào những vấn đề cấp bách nảy sinh từ thực tiễn sinh động của quá trình đổi mới đất nước như: những vấn đề pháp lý liên quan xây dựng và sửa đổi Hiến pháp 1992; cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn mới; sở hữu trong thời kỳ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường; lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật trong bối cảnh đổi mới và những vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế và khu vực... Đồng thời, việc đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước trong các vấn đề về Nhà nước và pháp luật, tham gia soạn thảo các văn kiện quan trọng của Đảng, tham gia các ban xây dựng các dự án văn bản pháp luật quan trọng... vẫn tiếp tục là một mặt hoạt động quan trọng của Viện. Đặc biệt, hoạt động trao đổi và hợp tác khoa học đã diễn ra sôi động hơn. Viện đã tiến hành trao đổi và hợp tác khoa học với nhiều nước trên thế giới như: Liên bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan...
Thời kỳ từ 2004 đến nay: Ngày 15/01/2004, theo Nghị định số 26/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật đổi lại tên là Viện Nhà nước và Pháp luật trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đặc biệt, căn cứ Nghị định số 109/2012/NĐ/CP ngày 26/12/2012 của Chính phủ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam được đổi tên là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Nhà nước và Pháp luật là tổ chức nghiên cứu khoa học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi mang tính chất chiến lược trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Viện Nhà nước và Pháp luật.
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Viện Nhà nước và Pháp luật bao gồm Ban lãnh đạo Viện, 11 tổ chức (cấp phòng) nghiên cứu và ứng dụng khoa học, 03 tổ chức (cấp phòng) chức năng, nghiệp vụ và Tạp chí Nhà nước và Pháp luật trong đó có phòng Biên tập - Trị sự. Tư vấn cho Viện trưởng về mặt khoa học có Hội đồng khoa học Viện, hoạt động theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học do Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ban hành. Hợp thành hệ thống chính trị cơ sở tại Viện Nhà nước và Pháp luật còn có tổ chức Chi bộ Đảng, tổ chức Công đoàn, tổ chức Chi đoàn thanh niên, tổ chức Thanh tra nhân dân, Chi hội Luật gia, Chi hội Cựu chiến binh.
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức thuộc biên chế hiện nay của Viện là 54 người, trong đó có 07 Phó Giáo sư - tiến sĩ, 03 tiến sĩ, 26 thạc sĩ, 16 cử nhân. Hầu hết, cán bộ nghiên cứu của Viện đều được đào tạo một cách chính quy, cơ bản, có kiến thức chuyên ngành luật vững vàng, có nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm của mình, có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của khoa học về Nhà nước và pháp luật. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ trẻ đã bước đầu thể hiện tinh thần say mê trong học tập nâng cao trình độ, có ý thức trách nhiệm trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ và trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
Chức năng cơ bản hiện nay của Viện Nhà nước và Pháp luật là nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Nhà nước và pháp luật; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối chiến lược, quy hoạch chính sách về xây dựng và phát triển Nhà nước và pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng tri thức sau đại học về luật học; tham gia phát triển tiềm lực về luật học của cả nước; tổ chức tư vấn pháp luật và cung cấp thông tin pháp luật cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nhiệm vụ và quyền hạn hiện nay của Viện Nhà nước và Pháp luật là trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển của Viện Nhà nước và Pháp luật và tổ chức thực hiện sau khi phê duyệt; nghiên cứu cơ bản về hệ thống chính trị, dân chủ, nhà nước và pháp luật; nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật; kết hợp nghiên cứu với đào tạo, bồi dưỡng trong lĩnh vực Nhà nước và pháp luật, thực hiện đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan khác; góp ý phản biện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; tổ chức tư vấn khoa học và thực hiện cung cấp dịch vụ về những vấn đề kinh tế - xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện; hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành; ký kết thực hiện các hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và các quy chế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; trao đổi thông tin khoa hoc với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định, quản lý các tư liệu, thư viện, xuất bản các ấn phẩm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học; quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị, tài sản và kinh phí của Viện Nhà nước và Pháp luật theo quy định của Nhà nước và theo sự phân cấp quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Những đóng góp trong nghiên cứu khoa học
a) Những thành tựu chủ yếu
Nghiên cứu khoa học về nhà nước và pháp luật là chức năng cơ bản của Viện Nhà nước và Pháp luật. Vì vậy, đây là lĩnh vực hoạt động trọng điểm và sôi động nhất, đồng thời cũng là lĩnh vực mang lại những thành tựu quan trọng nhất của Viện Nhà nước và Pháp luật trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.
Trong 45 năm qua, Viện Nhà nước và Pháp luật đã chủ trì và trực tiếp tổ chức thực hiện thành công hàng trăm đề tài nghiên cứu các cấp về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đời sống nhà nước và pháp luật.
Chỉ tính riêng từ năm 2004 đến nay, Viện Nhà nước và Pháp luật đã, đang chủ trì và trực tiếp thực hiện việc nghiên cứu 09 đề tài cấp Nhà nước, gần 50 đề tài và nhiệm vụ cấp Bộ độc lập hoặc thuộc các Chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam quản lý, đồng thời mỗi năm có hàng chục đề tài cấp viện được triển khai trên bình diện rộng, bao quát hầu khắp các lĩnh vực của khoa học pháp lý.
Phần lớn kết quả nghiên cứu đã được công bố dưới các hình thức ấn phẩm khác nhau. Bước đầu thống kê cho thấy khối lượng các ấn phẩm đó rất lớn về số lượng và rất đa dạng về hình thức thể hiện, bao gồm:
- Các tập Nghiên cứu Nhà nước và pháp quyền do Nhà xuất bản Khoa học ấn hành, ra thường kỳ hàng năm trong thời kỳ 1959 - 1967;
- Các tập sách Nhà nước và pháp luật do Nhà xuất bản Lao động ấn hành và Hội Luật gia chủ trì biên soạn, ra thường kỳ trong thời kỳ 1967 - 1975;
- Hơn 40 cuốn sách chuyên khảo trong các lĩnh vực của khoa học Nhà nước và pháp luật, do Viện hoặc cá nhân các nhà khoa học của Viện chủ trì biên soạn;
- Hàng trăm cuốn sách về các chủ đề thuộc các lĩnh vực của khoa học pháp lý, được biên soạn với sự tham gia ở những mức độ khác nhau của đội ngũ cán bộ nghiên cứu thuộc Viện;
- Hàng chục tập kỷ yếu Hội thảo khoa học phản ánh các quan điểm và kết luận khoa học tại các cuộc Hội thảo quốc gia và quốc tế do Viện chủ trì tổ chức;
- Gần 50 cuốn giáo trình hiện đang lưu hành, phục vụ đào tạo đại học và sau đại học - ngành Luật. Phần lớn trong số đó là do cá nhân các nhà khoa học của Viện chủ biên hoặc viết riêng.
- Gần một nghìn bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành Luật như: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Thanh tra...
Trong quá trình thực hiện các hệ đề tài nói trên, chỉ tính riêng từ năm 2004 đến nay, Viện đã tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo khoa học với các quy mô khác nhau. Đặc biệt, Viện đã chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học với các trung tâm nghiên cứu khoa học pháp lý của nhiều nước như: Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Pháp, Mỹ, Trung Quốc... Trên cơ sở đó, Viện đã phối hợp tổ chức nhiều nhiều cuộc hội thảo khoa học quốc tế về các chủ đề thời sự của khoa học pháp lý.
b) Đánh giá chung về những đóng góp trong nghiên cứu khoa học
Các số liệu mang tính thống kê nói trên chứa đựng trong đó một dung lượng tri thức khá lớn, phản ánh những đóng góp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng của Viện Nhà nước và Pháp luật trên các phương diện sau đây:
-
Trên phương diện chính trị - pháp lý và nghiên cứu lý luận về Nhà nước
Bằng kết quả của các công trình nghiên cứu, Viện Nhà nước và Pháp luật đã đề xuất hệ thống các quan điểm, luận điểm khoa học về những vấn đề cơ bản của đời sống chính trị - pháp lý của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử, góp phần làm luận cứ cho việc xây dựng, tìm hiểu và làm sâu sắc thêm các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật. Hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện cũng đã giúp định hình một hệ thống các giải pháp cụ thể cho tiến trình xây dựng và đổi mới nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị - pháp lý ở nước ta.
Trong thời kỳ trước Đổi mới đất nước, những đóng góp trên phương diện chính trị - pháp lý và lý luận về Nhà nước được thể hiện khái quát là: Góp phần làm sáng tỏ những nội dung chính trị - pháp lý của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Việt Nam, chứng minh tính bất hợp pháp của “Chính quyền Sài Gòn”, khẳng định Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, luận giải những vấn đề pháp lý phục vụ sự nghiệp đấu tranh ngoại giao; làm rõ nội dung chính trị - pháp lý của Hiệp định Paris về Việt Nam, vấn đề thống nhất đất nước về mặt nhà nước và về mặt pháp luật.
Trong giai đoạn Đổi mới đất nước, những đóng góp trên phương diện chính trị - pháp lý và lý luận về nhà nước được thể hiện khái quát ở một số điểm sau:
+ Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nền chính trị và hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó, khẳng định hệ thống luận điểm, quan điểm về xây dựng, củng cố và phát triển nền chính trị và hệ thống chính trị với tư cách là một bộ phận hợp thành của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; thiết kế mô hình hệ thống các tổ chức chính trị và cơ chế hoạt động bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với điều kiện và yêu cầu khách quan của tiến bộ xã hội.
+ Góp phần khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng các luận cứ khoa học cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và tạo lập mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng Cộng sản - Nhà nước - Nhân dân. Nhiều quan điểm của Viện Nhà nước và Pháp luật đối với những vấn đề nêu trên đã được tham khảo trong việc thiết kế các phương án đổi mới hiện nay.
+ Khẳng định mô hình quan điểm và đề xuất mô hình tổng thể về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Về cơ bản, sự luận giải khoa học và các đề xuất nói trên của Viện Nhà nước và Pháp luật (ngay từ năm 1987) cùng với đề xuất của các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác đã được tiếp nhận và bước đầu được ghi nhận trong trong Nghị quyết số 51/2001/NQ/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cũng như trong thực tiễn cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách các bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước cả theo chiều ngang lẫn theo chiều dọc nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay của đất nước.
+ Nêu ra quan điểm về cải cách tư pháp mà trọng tâm là cải cách Tòa án, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, đề cao vai trò của tranh tụng trong hoạt động xét xử...Quan điểm của Viện Nhà nước và Pháp luật đã được tiếp nhận và thể hiện trong tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp” cũng như trong thực tiễn đổi mới các cơ quan tư pháp trong thời gian gần đây.
+ Góp phần xây dựng nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của kiểm tra, giám sát và sự cần thiết xác lập cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay; kiến nghị xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, bao gồm cả việc đề xuất mô hình tổng quát về các cơ chế và hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân. Mô hình này đang được từng bước hiện thực hóa trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ta hiện nay.
+ Góp phần xác lập quan điểm về sự cần thiết xây dựng các đảm bảo pháp lý để thực hiện và bảo vệ các quyền của con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xác định những phương hướng cơ bản nhằm mở rộng các quyền, tự do của con người; đề xuất hệ thống những đảm bảo thực tế về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các đảm bảo khác cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân; đưa ra những luận cứ khoa học xác đáng để góp phần đấu tranh với các luận điểm xuyên tạc vấn đề đảm bảo quyền con người ở Việt Nam.
-
Trên phương diện nghiên cứu lý luận về pháp luật
Ở mức độ tổng quát, hoạt động nghiên cứu của Viện Nhà nước và Pháp luật đã đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật nước ta, phân tích những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến hệ thống pháp luật, các xu hướng phát triển các quan hệ xã hội trong thời gian tới và đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng mô hình khung pháp lý tạo mặt bằng pháp luật cần thiết cho quá trình hợp tác quốc tế và khu vực trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Những đóng góp trên phương diện nghiên cứu lý luận về pháp luật thể hiện ở những điểm cụ thể sau:
- Xây dựng quan điểm khoa học về hệ thống pháp luật và phương pháp tiếp cận hệ thống pháp luật trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trên thực tế, quan điểm này đã trở thành một trong những cơ sở khoa học để xây dựng chiến lược phát triển pháp luật và xác định thứ tự ưu tiên của hoạt động xây dựng pháp luật trong chiến lược pháp luật tổng thể ở nước ta hiện nay.
- Góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về pháp luật, ý thức pháp luật, pháp chế: Làm sáng tỏ các điều kiện, nhu cầu khách quan và chủ quan của việc nhận thức về các giá trị, vai trò, ý nghĩa xã hội của pháp luật trong điều kiện mới; xác định lại các phạm trù liên quan đến khái niệm, đặc điểm, bản chất của pháp luật, nguồn luật, mức độ điều chỉnh của pháp luật, cơ cấu của hệ thống pháp luật, những hình thức và biện pháp đưa pháp luật vào đời sống; xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả tác động của pháp luật đến quá trình phát triển của xã hội; làm sáng tỏ cơ cấu nội dung của ý thức pháp luật của các tầng lớp dân cư, các yếu tố ảnh hưởng đến ý thức và lối sống theo pháp luật, đề xuất mô hình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật và hệ thống các biện pháp xây dựng lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay; nêu ra và lý giải cách quan niệm rộng hơn về pháp chế và các yêu cầu của pháp chế XHCN... Đặc biệt, Viện đã đi đầu trong việc định khung những vấn đề lý luận cơ bản của xã hội học pháp luật và luật học so sánh. Viện là một trong cơ sở nghiên cứu đầu tiên đề xuất hướng nghiên cứu xã hội học trong lĩnh vực tư pháp hình sự và bước đầu đề cập những phạm trù cơ bản thuộc hướng nghiên cứu này.
- Góp phần quan trọng tạo lập mô hình khung pháp lý cơ bản trong các lĩnh vực luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự, luật kinh tế - thương mại, luật lao động, luật đất đai, luật môi trường... Trên cơ sở gắn nghiên cứu lý luận với thực tiễn và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, Viện đã đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Một số giải pháp trong số các giải pháp nói trên đã được tham khảo vận dụng trong việc đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp của Đảng và Nhà nước và đang được triển khai tổ chức thực hiện trên thực tế.
- Giải mã được một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật quốc tế trong bối cảnh mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp những tri thức làm nền tảng cho khả năng tiếp cận thuận lợi đối với pháp luật quốc tế và các tổ chức quốc tế của Nhà nước, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân công dân Việt Nam khi tham gia vào các quan hệ quốc tế. Trên thực tế, ở mức độ nhất định, hệ thống các tri thức đó cũng đã hỗ trợ cho các ý tưởng cải cách pháp luật quốc gia trong thời gian vừa qua theo hướng tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế
-
Trên phương diện hoạt động thực tiễn pháp lý
Điểm kết tinh của hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Nhà nước và Pháp luật thể hiện ở chính trong hoạt động thực tiễn pháp lý, trước hết là trong hoạt động xây dựng pháp luật. Từ khía cạnh này, Viện có những đóng góp rất đáng ghi nhận:
- Viện đã tham gia luận giải nhu cầu xây dựng các văn bản luật và tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng của Nhà nước: Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh. Trong quá trình đó, Viện đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các quan điểm, nguyên tắc điều chỉnh pháp luật và thiết kế mô hình chung cũng như mô hình chi tiết của các văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất nhiều ý kiến xác đáng về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, cơ cấu các chương, điều, nội dung các quy phạm cụ thể, văn phong pháp lý và kỹ thuật lập pháp. Dấu ấn về vai trò xây dựng pháp luật của Viện được thể hiện khá rõ trong Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết số 51/2001/NQ/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2011 ....
- Gần đây nhất, trong thời gian 02 năm (2012 - 2013) Viện Nhà nước và Pháp luật là nòng cốt tham gia hết sức tích cực và hiệu quả vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đặc biệt của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992” nhằm phúc đáp yêu cầu tổng kết Hiến pháp của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp và của Chính phủ. Cùng với nhiệm vụ Tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992, các nhà khoa học của Viện đã tham gia tích cực vào các hoạt động của Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, vào các hoạt động nghiên cứu và thảo luận chung trong toàn quốc về những định hướng và nhu cầu sửa đổi Hiến pháp 1992 cũng như những nội dung cụ thể của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Những đóng góp của Viện được ghi nhận và đánh giá tích cực.
- Với uy tín khoa học, Viện Nhà nước và Pháp luật được giao nhiệm vụ tham gia xây dựng một số đề án chuẩn bị cho các Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật, về cải cách tư pháp, về cải cách hành chính, về chính sách đất đai, về đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng, về tư vấn và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội...Theo hướng đó, từ năm 2005, Viện đã thực hiện nhiệm vụ Khoa học xã hội Việt Nam tham gia đóng góp ý kiến với hầu hết các dự thảo Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị định. Các ý kiến đóng góp của các chuyên gia pháp lý thuộc Viện thường được đánh giá tốt và được cân nhắc, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Thông qua hoạt động điều tra xã hội học và nghiên cứu, tổng kết tình hình thực hiện pháp luật, Viện đã đưa ra những đánh giá chính xác về tình hình thực hiện pháp luật trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ ra hệ thống các nhân tố tác động đến quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống cũng như các nguyên nhân cản trở việc thực hiện pháp luật trong thực tế. Từ góc độ này, Viện đã đề xuất được các giải pháp khoa học, sát thực, có tính khả thi, góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu lực pháp luật ở nước ta.
2. Những đóng góp trong các lĩnh vực khác
a) Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tri thức về luật học
Là cơ sở đầu tiên được Nhà nước giao chức năng, nhiệm vụ đào tạo sau đại học, Viện đã tiến hành xây dựng khung chương trình đào tạo Nghiên cứu sinh và Cao học Luật; xây dựng hệ các chuyên đề làm tài liệu giảng dậy và học tập; tổ chức đội ngũ giảng viên trên cơ sở huy động lực lượng chuyên gia tại Viện và tại các cơ sở đào tạo khác; hợp đồng liên kết đào tạo với Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; trực tiếp tổ chức thi tuyển và thực hiện hoạt động đào tạo các khóa nghiên cứu sinh và cao học Luật. Trên cơ sở đó, Viện đã trực tiếp đào tạo hàng trăm nghiên cứu sinh và khoảng 800 học viên cao học luật. Các nghiên cứu sinh và học viên Cao học Luật được đào tạo ở Viện Nhà nước và Pháp luật khi trở về vị trí công tác đều phát huy được các kiến thức chuyên ngành. Hiện nay, nhiều tiến sĩ và thạc sĩ do Viện đào tạo đang giữ những trọng trách trong một số cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước.
Ngoài việc thực hiện tốt chức năng đào tạo sau đại học tại Viện, đội ngũ chuyên gia của Viện còn tham gia đào tạo đại học và sau đại học, tham gia giảng dạy tại các khóa học tập huấn, bồi dưỡng kiến thức luật học ở hầu hết các cơ sở đào tạo luật hoặc do các cơ quan, tổ chức khác trong cả nước đứng ra tổ chức.
Từ tháng 01 năm 2010, với việc thành lập Học viện Khoa học xã hội trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật đã chuyển giao chức năng đào tạo sau đại học cho Học viện Khoa học xã hội và phối hợp chặt chẽ với Học viện Khoa học xã hội trong hoạt động đào tạo sau đại học ngành luật. Đội ngũ chuyên gia của Viện Nhà nước và Pháp luật là lực lượng nòng cốt của khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội, vừa tham gia công tác quản lý đào tạo, vừa thực hiện phần lớn hoạt động giảng dạy tại khoa Luật, góp phần quan trọng vào thành tích của Học viện Khoa học xã hội trong công tác đào tạo thời gian vừa qua.
b) Hoạt động Tạp chí
Ngày 20/8/1972 Tạp chí Luật học (nay là Tạp chí Nhà nước và Pháp luật) ra số đầu tiên. Từ đó đến nay đã 35 năm trôi qua. Từ 1 kỳ/năm (1972), 3 kỳ/năm (1973), 4 kỳ/ năm (1974 - 1993), 6 kỳ/ năm (1994 - 1995), 9 kỳ/năm (1996), Tạp chí đã tăng lên 12 kỳ/ năm từ năm 1997 đến nay. Số trang cũng tăng dần: 64 trang (1972 - 2000), 72 trang (2001 - 2003), 80 trang (2004) và từ năm 2005 đến nay là 84 trang. Số lượng phát hành của tạp chí mỗi kỳ từ 1300 đến 1700 cuốn. Cùng với bản tiếng Việt, bắt đầu từ quý 4 năm 2006, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật ra bản tiếng tiếng Anh (4 kỳ/năm).
Hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật có chức năng là cơ quan ngôn luận của Viện Nhà nước và Pháp luật, của ngành luật học, là diễn đàn của giới nghiên cứu lý luận về Nhà nước và pháp luật.
Trong những năm hoạt động, các bài viết được đăng tải trên Tạp chí đều hướng vào việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, trên các trang của Tạp chí, giới luật học Việt Nam đã công bố nhiều bài viết về đổi mới Nhà nước và pháp luật; về đổi mới hệ thống chính trị; về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; về cải cách hành chính, cải cách tư pháp; về tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng sâu rộng và hội nhập quốc tế. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật là một trong những tạp chí đã và đang góp phần tích cực vào việc xây dựng và phát triển các hướng nghiên cứu mới trong khoa học pháp lý Việt Nam như luật học so sánh, xã hội học pháp luật, chính trị học, luật cạnh tranh, luật môi trường, xã hội dân sự, tài phán hiến pháp, trách nhiệm bồi thường nhà nước và pháp luật nước ngoài...
Do có nhiều thành tích trong việc phổ biến các tri thức khoa học về Nhà nước và pháp luật, ngày 13 tháng 08 năm 2012, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 1179/QĐ/CTN tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
c) Hoạt động hợp tác quốc tế
Trước năm 1991, hoạt động hợp tác quốc tế được triển khai khá toàn diện với các Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc các nước XHCN trước đây, đặc biệt là với các cơ sở nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật của Liên Xô và Cộng hòa Dân chủ Đức. Đã có một số chương trình hợp tác nhiều bên và hai bên được ký kết và thực hiện; đã có các hội thảo quốc tế về các chủ đề khác nhau của khoa học pháp lý, của khoa học chính trị được tổ chức với sự tham gia tích cực của đại diện Viện Nhà nước và Pháp luật.
Từ năm 1991 đến nay, Viện Nhà nước và Pháp luật đã triển khai sự hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng với một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo của các nước như Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Na Uy, Đan Mạch... Các chuyến đi thăm, trao đổi khoa học và tham dự các hội thảo quốc tế đã được thực hiện ngày càng nhiều và thường xuyên hơn. Viện Nhà nước và Pháp luật đã đứng ra tổ chức thành công một số hội thảo quốc tế về các chủ đề: Xã hội và Pháp luật, Nhà nước pháp quyền, Chủ nghĩa lập hiến ở châu Á, Tài phán hiến pháp, Xã hội dân sự, Bồi thường nhà nước, Tài phán hành chính, Kinh nghiệm lập hiến, Quyền con người, Chính quyền địa phương ... Qua tiếp xúc và trao đổi khoa học, các nhà khoa học của Viện Nhà nước và Pháp luật đã có dịp thảo luận về học thuật nhằm giúp cho bạn bè quốc tế hiểu được các vấn đề mà giới luật học Việt Nam đang quan tâm, đồng thời đó cũng là dịp để các nhà nghiên cứu của Viện học hỏi, mở mang tri thức, làm giàu thêm kiến thức của mình về khoa học Nhà nước và Pháp luật, về khoa học chính trị. Một số nhà khoa học của Viện đã tham gia tích cực vào các diễn đàn về quyền con người, qua đó góp phần vào việc thực hiện quan điểm ngoại giao nhân dân của Đảng và Nhà nước ta.
III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 2020
1. Mục tiêu phát triển đến năm 2020
Mục tiêu tổng quát là củng cố và giữ vững vị trí của Viện Nhà nước và Pháp luật là một trong những cơ quan nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực khoa học về Nhà nước và pháp luật; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn pháp luật; tăng cường năng lực hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực pháp luật; góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển Nhà nước và pháp luật.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Xây dựng Viện Nhà nước và Pháp luật thành đơn vị nghiên cứu điển hình tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; đến năm 2020, Viện Nhà nước và Pháp luật có các bộ phận nghiên cứu và đội ngũ chuyên gia nghiên cứu đảm trách được hoạt động nghiên cứu ở các lĩnh vực trọng yếu của khoa học về Nhà nước và pháp luật;
- Phát triển lĩnh vực và quy mô nghiên cứu các đề tài, nhiệm vụ khoa học các cấp đi đôi với đảm bảo chất lượng, hiệu quả và khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn;
- Mở rộng quan hệ hợp tác nghiên cứu, đào tạo trong nước và nước ngoài; đến năm 2020, về cơ bản, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có đủ năng lực tham gia các hoạt động nghiên cứu, đào tạo với các đối tác nước ngoài;
- Phát triển năng lực đào tạo, bồi dưỡng tri thức luật học, góp phần xây dựng nguồn nhân lực có trình độ cao trong lĩnh vực luật học của đất nước;
- Phát triển năng lực tư vấn pháp luật, thông tin pháp luật; xây dựng Viện thành địa chỉ tư vấn tin cậy của các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân;
- Giữ vững vị trí của Tạp chí Nhà nước và Pháp luật là cơ quan ngôn luận của Viện Nhà nước và pháp luật, của ngành luật học, là diễn đàn của giới nghiên cứu lý luận về Nhà nước và pháp luật;
- Củng cố cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ hoạt động nghiên cứu; tăng cường năng lực phục vụ nghiên cứu của thư viện - tư liệu.
2. Nhiệm vụ phát triển đến năm 2020
- Xây dựng Viện Nhà nước và Pháp luật theo mô hình đơn vị nghiên cứu có tính tự chủ, tính phối hợp; phát triển cơ cấu tổ chức của Viện theo hướng tăng cường quy mô các phòng nghiên cứu, kiện toàn các phòng phục vụ nghiên cứu, củng cố mối quan hệ chỉ đạo và phối hợp công tác giữa lãnh đạo Viện với các bộ phận trong Viện cũng như giữa các bộ phận với nhau; đổi mới công tac quản lý hoạt động khoa học; khai thác tối đa năng lực của đội ngũ cán bộ hiện có đi đôi với việc thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao về Viện;
- Xây dựng định hướng và kế hoạch hoạt động nghiên cứu đến năm 2020 và hàng năm, trong đó đặc biệt chú ý các hướng sau:
a/ Nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách của khoa học Nhà nước và pháp luật: Bình luận Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và những vấn đề pháp lý của quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp 1992; tiếp tục tổng kết lý luận và thực tiễn của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam; nghiên cứu giải mã những vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam (vai trò và chức năng của Nhà nước; vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong bộ máy Nhà nước; cơ chế nhân dân giám sát quyền lực nhà nước; cơ chế tài phán hiến pháp...); nghiên cứu về xã hội dân sự và mối quan hệ giữa các trụ cột của xã hội hiện đại; tổng kết lý luận và thực tiễn về cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đề ra những giải pháp có hiệu quả để đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp...
b/ Nghiên cứu làm sáng tỏ phạm trù và các yếu tố cấu thành “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”; nghiên cứu thể chế pháp lý của kinh tế thị trường, các vấn đề pháp lý của quá trình hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường; nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ và thực thi sở hữu trí tuệ ở nước ta; nghiên cứu cơ sở pháp lý của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam; nghiên cứu những vấn đề pháp lý về môi trường và đất đai...
c/ Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Đặc biệt hướng sự quan tâm nghiên cứu cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân ở Việt Nam hiện nay.
d/ Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật, nhất là các tội tham nhũng và giải pháp phòng, chống.
đ/ Nghiên cứu pháp luật quốc tế và kinh nghiệm xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các nước nhằm phục vụ công cuộc hội nhập quốc tế và phát triển đất nước phù hợp với xu thế chung trên thế giới.
- Đổi mới hoạt động của Tạp chí Nhà nước và Pháp luật theo hướng tăng cường chất lượng, đảm bảo tính lý luận của Tạp chí đi đôi với việc cập nhật những vấn đề thời sự, cấp bách của đời sống Nhà nước và pháp luật đất nước, phát huy vai trò của Hội đồng biên tập và các bộ phận nghiên cứu tại Viện trong biên tập, góp ý cho bản thảo trước khi chính thức đăng tải trên Tạp chí.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong nghiên cứu khoa học và đào tạo trên cơ sở củng cố các mối quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống, đồng thời mở rộng, thúc đẩy các mối quan hệ với các đối tác mới; thu hút các nhà khoa học nước ngoài, nhà khoa học là người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia nghiên cứu, trao đổi khoa học về những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của Viện Nhà nước và Pháp luật.
- Hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật đồng bộ để phục vụ tốt hoạt động nghiên cứu và các hoạt động khác tại Viện trên cơ sở nguồn ngân sách Nhà nước và chủ động khai thác các nguồn lực tài chính khác.
- Xây dựng và phát triển Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật theo mô hình Thư viện mở, ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn bộ quy trình hoạt động của Thư viện.
Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN