I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Viện Nghiên cứu Châu Âu (tên giao dịch quốc tế: Institute for European Studies) là cơ quan nghiên cứu cơ bản, có tư cách pháp nhân, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Tiền thân của Viện Nghiên cứu Châu Âu là Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia. Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu được thành lập theo quyết định số 466/TTg ngày 13/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Qua 20 năm hoạt động, Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu đã lần lượt được đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu (theo Quyết định số 56/1998/QĐ-TTg ngày 05/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ) và Viện Nghiên cứu Châu Âu (theo Quyết định số 987/QĐ-KHXH ngày 14/06/2005 của Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Cùng với việc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012 của Chính phủ), Viện Nghiên cứu Châu Âu được tiếp tục duy trì theo Quyết định số 267/QĐ-KHXH của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày 27/02/2013.
1. Chức năng của Viện
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học, xã hội của các nước và tổ chức khu vực Châu Âu nhằm cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về khoa học, xã hội liên quan tới khu vực Châu Âu.
2. Nhiệm vụ của Viện
+ Trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm của Viện Nghiên cứu Châu Âu và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
+ Nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội của các nước và tổ chức khu vực của Châu Âu, trước hết là những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường và phát triển, quan hệ quốc tế…
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển của các quốc gia Châu Âu, cũng như quá trình hình thành và phát triển liên kết khu vực ở Châu Âu.
+ Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu Châu Âu. Thực hiện đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan khác.
+ Theo chức năng, tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các bộ, ban, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Thực hiện các tư vấn khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện.
+ Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành.
+ Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học, truyền bá các kiến thức khoa học tới quảng đại quần chúng.
+ Ký kết, thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
+ Quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị; tài sản và kinh phí của Viện Nghiên cứu Châu Âu theo các quy định của Nhà nước và theo sự phân cấp quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU
1. Kết quả nghiên cứu khoa học
a) Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2004
- Về đề tài cấp Nhà nước:
Viện Nghiên cứu Châu Âu đã có những đóng góp trong việc phân tích làm sáng tỏ nguyên nhân và hậu quả của sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trên thực tế ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90. Một đóng góp khác của các nhà khoa học của Viện trong thực hiện các đề tài cấp Nhà nước ở giai đoạn này thể hiện qua những phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo triển vọng phát triển của Liên hiệp Châu Âu và của Liên bang Nga trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Về các đề tài cấp Bộ:
Trong nghiên cứu đề tài cấp Bộ, trong thời gian 10 năm đầu hoạt động, các nhà khoa học của Viện đã hoàn thành nhiều đề tài cấp Bộ, trong đó điển hình là các đề tài như Liên bang Nga trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thời kỳ hậu chiến tranh lạnh; Tư nhân hoá trong tiến trình cải cách kinh tế ở Liên bang Nga và một số nước Đông Âu; Chính sách kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga trong quá trình chuyển đổi kinh tế hiện nay; Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga: lịch sử, hiện trạng và triển vọng; Quan hệ EU - ASEAN trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI; Quan hệ EU - Nhật Bản; Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI; Thực trạng và triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam - Liên hiệp Châu Âu trong những năm đầu của thế kỷ XXI; Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga: lịch sử, hiện trạng và triển vọng; Liên hiệp Châu Âu trong thương mại toàn cầu; Chuyển đổi kinh tế ở Liên bang Nga.
Qua việc thực hiện những đề tài cấp Bộ như trên, các nhà khoa học của Viện đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản và cấp bách như:
+ Trong bối cảnh chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù Liên bang Nga giai đoạn này thực hiện chính sách đối ngoại hướng về phương Tây (Mỹ, Tây Âu), nhưng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á và Việt Nam, vẫn không xem nhẹ vai trò cường quốc Âu - Á của Liên bang Nga.
+ Tư nhân hóa là một trong những nội dung quan trọng của cải cách kinh tế trong giai đoạn này ở Liên bang Nga và một số nước Đông Âu. Việc sớm hình thành và coi trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân gợi mở cho Việt Nam những điều cần tiến hành khi bắt đầu thực hiện chương trình cổ phần hóa trong cải cách khu vực kinh tế quốc doanh.
+ Quan hệ EU - ASEAN giai đoạn này đang trong tiến trình chuyển hoá từ quan hệ “cho - nhận” sang quan hệ đối tác bình đẳng mà trong chiến lược mới đối với Châu Á của EU đã không thể không khẳng định vai trò quan trọng của ASEAN. Cơ chế hợp tác liên khu vực mới hình thành – ASEM gồm 10 nước Châu Á và 15 nước EU với vai trò nòng cốt là các nước ASEAN cũng đã được phân tích.
+ Các nhà khoa học của Viện đã phân tích và làm rõ chính sách kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga trong quá trình chuyển đổi và xu hướng quay trở lại với các đối tác truyền thống ở khu vực Đông Nam Á của nước Nga; đưa ra những kết luận về quan hệ thương mại của Liên bang Nga với Việt Nam với tư cách là một quốc gia có vai trò quan trọng trong khu vực này.
+ Quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường và hội nhập khu vực của các nước Đông Âu như Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary gợi mở những kinh nghiệm nhất định cho Việt Nam trong quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập hiệu quả vào ASEAN.
+ Thông qua nhiều đề tài cấp Bộ của giai đoạn này, các nhà khoa học của Viện đã góp phần tổng quan các xu thế vận động phát triển của thế giới và khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và khu vực hóa gia tăng; xu thế hợp tác và cạnh tranh trong quá trình hình thành đa cực hóa với sự trỗi dậy của châu Á, mối tương quan giữa các trung tâm quyền lực thế giới, những thách thức và cơ hội đối với các tổ chức khu vực EU, CIS cũng như các quốc gia châu Âu và Việt Nam; Thông qua chương trình nghiên cứu châu Âu tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2004, Viện đã phổ cập những kiến thức về Liên minh Châu Âu và quan hệ Việt Nam - Liên hiệp Châu Âu trên các phương diện kinh tế - chính trị, thương mại - đầu tư, tài chính - tiền tệ; đặc biệt có những phân tích, đánh giá về triển vọng của một EU mở rộng hơn, mạnh hơn trong thế kỷ XXI và quan hệ Việt Nam - EU trong bối cảnh sự gia tăng khu vực hoá, toàn cầu hoá và yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta. Việc nghiên cứu các nền kinh tế chuyển đổi Nga, các nước SNG và Đông Âu đã giúp cho Viện có những đóng góp thiết thực về lý luận và thực tiễn cho quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam cũng như thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống này trong giai đoạn Việt Nam tăng cường đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, mở cửa hội nhập.
- Về các đề tài cấp cơ sở
Trong giai đoạn này các cán bộ nghiên cứu của Viện đã triển khai nghiên cứu các đề tài tiềm lực với mục tiêu hình thành các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của mỗi cá nhân. Trong số các đề tài cấp cơ sở có thể kể đến các nghiên cứu về Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga với khu vực châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh, Một số vấn đề về quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước Đông Âu trong điều kiện cải cách kinh tế thị trường hiện nay, Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Liên bang Nga: Những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ truyền thống Việt - Nga, Cải cách kinh tế thị trường ở Ba Lan - Xu hướng hội nhập vào Liên minh Châu Âu.
b) Giai đoạn từ năm 2005 đến nay (từ khi Viện Nghiên cứu Châu Âu được thành lập)
- Về đề tài cấp Nhà nước, Nghị định thư, đề tài do Quỹ Nafosted tài trợ
Có thể nói, từ năm 2003, đặc biệt từ năm 2005 đến nay là giai đoạn nở rộ và phát triển hoạt động khoa học của Viện trong tìm kiếm và thực hiện các đề tài cấp Nhà nước, nhiệm vụ Nghị định thư và đề tài do Quỹ Khoa học và Công nghệ quốc gia (Nafosted) tài trợ.
Từ năm 2003 đến nay Viện đã và đang chủ trì thực hiện ba đề tài cấp Nhà nước. Đó là Đề tài KX 01.04/06-10 Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu; Đề tài KX 02.13/06-10 Mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của một số nước phát triển Châu Âu – kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt Nam và Đề tài KX 01.09/11-15 Khủng hoảng nợ công ở một số nước Liên minh Châu Âu (EU) và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Đối với nhiệm vụ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo chương trình Nghị định thư, Viện đã và đang chủ trì thực hiện 4 nhiệm vụ, bao gồm: Đề tài Nghị định thư Việt - Nga Quan hệ Nga - ASEAN trong những thập niên đầu thế kỷ XXI; Đề tài Nghị định thư Việt Nam - Ba Lan Trí thức người Việt tại một số nước Đông Âu: Thực trạng và vai trò trong bối cảnh mới; Đề tài Nghị định thư Việt Nam - Ucraina Quan hệ Việt Nam -Ucraina trong bối cảnh quốc tế mới; Đề tài Nghị định thư Việt Nam - Hungary Những tác động của toàn cầu hóa tới một số nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu và Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
Ngoài ra, trong giai đoạn từ 2003 trở lại đây, Viện đã và đang chủ trì thực hiện ba đề tài do Quỹ Nafosted tài trợ. Đề tài Thúc đẩy hợp tác Việt Nam - EU trong triển khai cơ chế phát triển sạch (CDM) ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 do Quỹ phát triển khoa học công nghệ và Quỹ Flander (Bỉ) tài trợ. Hai đề tài khác nghiên cứu về Hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” và Nghiên cứu so sánh mô hình Liên kết khu vực – kinh nghiệm cho ASEAN.
Thông qua việc chủ trì và thực hiện các đề tài cấp kể trên, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã có những đóng góp nhất định cho khoa học trên các khía cạnh như:
+ Phân tích và làm rõ bối cảnh quốc tế và những nhân tố tác động đến quan hệ Nga - ASEAN trong giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2020; đánh giá thực trạng quan hệ Nga - ASEAN từ năm 1991 đến 2005 và từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển quan hệ Nga - ASEAN đến năm 2020 và nâng cao vai trò của Việt Nam trong quan hệ Nga - ASEAN. Bên cạnh giải pháp kiến nghị chủ đạo là kiện toàn hệ thống pháp lý, củng cố các cuộc tiếp xúc cấp cao, đề tài còn đưa ra một số kiến nghị về tăng cường hợp tác thương mại với việc duy trì cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa phía một cách hợp lý, tăng cường hợp tác quân sự trên cơ sở hòa bình và phát triển, phát huy vai trò Việt Nam là cầu nối trong thúc đẩy hợp tác Nga - ASEAN, và tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp của hai phía.
+ Phân tích và làm rõ thực trạng của trí thức người Việt Nam tại các nước Đông Âu hiện nay, trong đó nhấn mạnh những thuận lợi và khó khăn của cộng đồng này. Đồng thời, nghiên cứu quá trình hội nhập Liên minh Châu Âu của các nước Đông Âu; sự điều chỉnh chính sách và pháp luật, trong đó có chính sách nhập cư của những nước này và tác động của điều chỉnh chính sách, pháp luật của các nước này đến quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam nói chung và đến cộng đồng người Việt, trong đó có trí thức người Việt, nói riêng. Từ những nghiên cứu kể trên, một số kiến nghị đã được đề xuất, tập trung vào các nhóm giải pháp là: Phát huy vai trò đội ngũ trí thức người Việt ở Đông Âu trong việc củng cố, phát triển cộng đồng người Việt tại những nước này; Phát huy vai trò cầu nối về kinh tế, thương mại, hợp tác lao động; Phát huy vai trò cầu nối về văn hóa, giáo dục và công nghệ; Thúc đẩy những cơ hội đóng góp trực tiếp cho sự nghiệp CNH - HĐH trong nước.
+ Phân tích và làm rõ bối cảnh quốc tế, khu vực và những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ucraina, vị trí của mối quan hệ này trong chiến lược phát triển giữa Việt Nam và Ucraina. Đồng thời, nghiên cứu của Viện đã phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ Việt Nam - Ucraina trên tất cả các mặt trong thời gian từ sau chiến tranh lạnh đến nay, đặc biệt là từ giai đoạn 2001-2010, những thành tựu đã đạt được, những vấn đề đặt ra hiện nay và nguyên nhân của chúng. Từ đó đưa ra định hướng và giải pháp phát triển quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Ucraina cho giai đoạn 2011-2020, trong đó các giải pháp chủ yếu là: Tiếp tục thúc đẩy quan hệ chính trị, ngoại giao giữa hai nước, đặc biệt là các đoàn cấp cao; Cần xây dựng một kế hoạch tổng thể nhằm phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực; Tăng cường hiểu biết, nắm bắt cơ hội giữa hai nước; Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, nâng kim ngạch thương mại giữa hai nước; Tạo những điều kiện và phương tiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ song phương đi vào thực chất hơn.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - EU giai đoạn từ sau năm 1995, làm rõ cơ sở lý luận và xây dựng các luận cứ khoa học - thực tiễn cho việc hoạch định chiến lược phát triển hợp tác kinh tế của Việt Nam với EU đến năm 2015, đồng thời đưa ra những khuyến nghị về chiến lược và các giải pháp phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam với EU đến năm 2015, tập trung vào những nhóm giải pháp Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện như: Cải thiện môi trường kinh doanh; Ổn định kinh tế vĩ mô; Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường và đẩy mạnh công tác marketing xuất khẩu; Phát triển nguồn nhân lực để nâng cao khả năng xuất khẩu và tiếp nhận vốn đầu tư.
+ Nghiên cứu tổng quan về mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội chung ở Châu Âu; Phân tích bản chất, đặc điểm, các điều kiện hình thành, thành tựu và những vấn đề đặt ra của các mô hình phát triển xã hội điển hình ở một số nước thuộc Liên minh Châu Âu, trong đó tập trung vào 4 mô hình đặc trưng là mô hình Bắc Âu, mô hình Anglo - Saxon, mô hình lục địa và mô hình Địa Trung Hải. Từ những phân tích đó, Viện đã tổng kết các bài học trong xây dựng mô hình xã hội Châu Âu, các mô hình điển hình và kinh nghiệm quản lý phát triển xã hội của các nước EU và cùng với đó đề xuất những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo áp dụng. Những đề xuất về một số định hướng hoàn thiện mô hình phát triển xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 bao gồm: Đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, thực hiện mô hình phát triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao; Tạo cơ hội cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tiếp cận bình đẳng các yếu tố “đầu vào” của sản xuất kinh doanh; Thực hiện nhất quán nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất kinh doanh; Kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội với hệ thống an sinh xã hội; Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gằn với giải quyết việc làm; Thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững…
Hầu hết các đề tài nói trên đều đã nghiệm thu đúng hạn, đạt kết quả khá và xuất sắc.
Các đề tài đang được thực hiện như Những tác động của toàn cầu hóa tới quá trình phát triển của một số nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu và Việt Nam; Hợp tác Việt Nam - Liên minh Châu Âu trong cơ chế phát triển sạch (CDM) giai đoạn 2011- 2020; Hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và Nghiên cứu so sánh các mô hình liên kết khu vực – Kinh nghiệm cho ASEAN dự kiến đóng góp vào sự phát triển của khoa học ở một số khía cạnh như:
+ Phân tích và làm rõ kinh nghiệm tổ chức quản lý, triển khai các hoạt động cơ chế phát triển sạch CDM của EU và một số nước thành viên theo cơ chế thị trường kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước; Phân tích chiến lược triển khai cơ chế phát triển sạch của EU ở châu Á, những kinh nghiệm trong hợp tác quốc tế về cơ chế phát triển sạch giữa EU với một số nước Châu Á; Đánh giá chính sách vĩ mô của Việt Nam về lĩnh vực cơ chế phát triển sạch, cũng như tình hình triển khai và hiệu quả của việc triển khai thực hiện cơ chế phát triển sạch ở một số doanh nghiệp ở Việt Nam. Từ đó làm rõ những cơ hội và thách thức và khuyến nghị các giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển cơ chế phát triển sạch giữa EU và Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, trong đó những giải pháp chủ yếu là: EU hỗ trợ Việt Nam xây dựng và triển khai chiến lược ứng phó biến đối khí hậu; Việt Nam xúc tiến thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ EU với các dự án tham gia cơ chế phát triển sạch; Tăng cường hợp tác, đàm phán song phương với EU về thương mại giảm phát thải cho các dự án CDM đăng ký từ sau 31/12/2012.
+ Nghiên cứu làm rõ những tác động của toàn cầu hóa tới quá trình phát triển của Việt Nam và của một số nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu như Hungary, Ba Lan, Séc; qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khuyến nghị chính sách trong việc phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đối với Việt Nam và Hungary, Ba Lan, Séc. Đề tài sẽ đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học, các viện nghiên cứu của Việt Nam với các nước này: Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại cởi mở và tích cực; Đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, xây dựng nhanh chóng kết cấu hạ tầng; Giải quyết khẩn trương trên cơ sở khoa học những vấn đề dân số, tài nguyên, môi trường; Giữ vững bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống lành mạnh và tiến bộ; Thực hiện các giải pháp đồng bộ để tiếp nhận dòng FDI có chất lượng và giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Phân tích và làm rõ những ưu điểm và hạn chế của hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU sau khủng hoảng (2008 - 2009); tìm hiểu những phản ứng chính sách của các chính phủ các nước thuộc EU để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội trong giai đoạn hậu khủng hoảng; qua kinh nghiệm của EU Viện đề xuất các giải pháp có thể áp dụng hoặc cần phải tránh trong quá trình hoàn hiện hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020. Những kiến nghị chủ yếu đối với Việt Nam là: Cần lựa chọn mô hình và hệ thống an sinh xã hội thích hợp; Cần mở rộng nhanh chóng phạm vi và đối tượng được hưởng an sinh xã hội; Đổi mới cách tính mức đóng góp bảo hiểm và mức chi trả bảo hiểm; Nhanh chóng xây dựng các luật về an sinh xã hội; Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đóng góp vào hệ thống an sinh xã hội.
+ Phân tích và làm rõ bản chất của liên kết và hội nhập trên phạm vi quốc tế và khu vực; nghiên cứu và so sánh các mô hình liên kết khu vực, từ đó chỉ ra những vấn đề mang tính phổ quát của liên kết khu vực và những vấn đề mang tính đặc thù của mỗi mô hình liên kết khu vực, những điều kiện liên kết thành công và phương thức liên kết của mỗi mô hình liên kết cũng như sự liên kết của các thành viên tham gia. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Viện đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, đặc biệt trong tham gia sâu hơn, toàn diện hơn vào ASEAN và hướng tới xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
- Về đề tài cấp Bộ
Từ năm 2005 đến 2008, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã chủ trì, thực hiện và hoàn thành nhiều đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Có thể kể đến các đề tài: Mô hình phát triển của các nước Bắc Âu: một số vấn đề về tính phổ biến và tính đặc thù quốc gia; Chính sách hợp tác phát triển của Liên minh Châu Âu: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam; Tự do hoá thương mại và đầu tư trong quan hệ kinh tế quốc tế của Liên hiệp Châu Âu; Tây Ban Nha sau 20 năm hội nhập EU - thành công và những bài học kinh nghiệm; Các giải pháp chủ yếu phát triển quan hệ Nga - ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới; Một số vấn đề về cộng đồng người lao động Việt Nam ở Liên bang Nga hiện nay; Một số vấn đề cơ bản trong sự phát triển của Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với một số đề tài nghiên cứu các chính sách trong những lĩnh vực cụ thể của EU.
Từ năm 2009 - 2012 Viện Nghiên cứu Châu Âu được Viện Khoa học xã hội Việt Nam giao thực hiện 2 chương trình nghiên cứu cấp Bộ, mỗi chương trình gồm 1 đề tài mũ và các đề tài nhánh.
Chương trình khoa học cấp Bộ thứ nhất Một số vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật của Châu Âu giai đoạn 2001- 2010, dự báo giai đoạn 2011 - 2020 và tác động đến Việt Nam đã được hoàn thành năm 2010. Nhiều đề tài trong Chương trình đã được nghiệm thu và đánh giá ở mức độ khá và xuất sắc.
Chương trình nghiên cứu cấp Bộ thứ hai Điều chỉnh chính sách phát triển của một số quốc gia chủ chốt sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và tác động đến Việt Nam được thực hiện trong 2 năm 2011-2012. Chương trình này đã được hoàn thành và được Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nghiệm thu chính thức vào đầu năm 2013. Chương trình này bao gồm 1 đề tài mũ, 7 đề tài nhánh và 2 báo cáo thường niên. Trong số 8 đề tài và 2 báo cáo thường niên, có 2 đề tài đạt loại xuất sắc, các đề tài và báo cáo còn lại đều đạt loại khá. Đề tài mũ tổng quan về điều chỉnh chính sách phát triển của một số quốc gia chủ chốt châu Âu sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, và tác động tới Việt Nam; các đề tài nhánh nghiên cứu, phân tích, làm rõ sự điều chỉnh chính sách phát triển của EU, Đức, Pháp, Anh, Nga, sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và tác động tới Việt Nam; nghiên cứu, phân tích, làm rõ sự điều chỉnh chính sách an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; khủng hoảng nợ công ở một số nước thành viên EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Các báo cáo thường niên tập trung vào các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của Châu Âu năm 2011 và năm 2012.
Qua việc chủ trì thực hiện những đề tài cấp Bộ nêu trên, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản và cấp bách như:
+ Phân tích và làm rõ yêu cầu phải điều chỉnh chính sách thương mại của Liên minh Châu Âu (EU) và những nội dung điều chỉnh chủ yếu trong chính sách thương mại của khối này. Đồng thời, Viện đã nghiên cứu tác động của điều chỉnh chính sách thương mại EU đến các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của EU; ảnh hướng của điều chỉnh chính sách thương mại EU tới quan hệ thương mại Việt Nam - EU.
+ Phân tích và làm rõ thực trạng và vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở Nga và ở các nước Đông Âu; phân tích các chính sách của Nga và các nước Đông Âu đối với người nước ngoài, trong đó có cộng đồng người Việt Nam, sinh sống và làm việc tại nước họ. Từ kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học của Viện đưa ra các kiến nghị tăng cường vai trò của cộng đồng người Việt Nam tại Nga và Đông Âu; cùng đó góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với các nước này.
+ Phân tích và làm rõ đặc điểm văn hóa Châu Âu qua các thời kỳ lịch sử, các trào lưu tư tưởng và tinh thần; đồng thời làm rõ diện mạo của các vùng văn hóa Châu Âu và xác định những đặc trưng cơ bản và vai trò của văn hóa Châu Âu; Từ những phân tích đó đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ văn hóa Việt Nam - Châu Âu.
+ Phân tích và làm rõ quá trình hình thành và phát triển của mô hình nhà nước phúc lợi Bắc Âu; làm rõ tính phổ biến và tính đặc thù của mô hình, những thành công, hạn chế, xu hướng cải cách, điều chỉnh của mô hình và từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
+ Phân tích và làm rõ nội dung, xu hướng thay đổi trong chính sách cung cấp viện trợ phát triển ODA và các khoản tài trợ của EU cho Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả dòng vốn ODA cũng như các ưu đãi mà EU cung cấp.
+ Phân tích nội dung chính của chính sách cạnh tranh của EU, những nhân tố tác động đến việc điều chỉnh chính sách cạnh tranh, nội dung điều chỉnh chính sách cạnh tranh và vai trò của nó trong thúc đẩy thương mại nội khối.
+ Phân tích và đánh giá những vấn đề đề kinh tế, chính trị nổi bật của khu vực Châu Âu từ năm 2001 đến nay, dự báo xu hướng phát triển chủ yếu của khu vực Châu Âu trong giai đoạn tới năm 2020 và đánh giá những tác động có thể đến khu vực, thế giới và Việt Nam. Từ đó đưa ra những khuyến nghị cho việc hoạch định chính sách của Việt Nam trong bối cảnh phát triển của khu vực Châu Âu giai đoạn 2011 - 2020 và những giải pháp phát triển quan hệ hợp tác toàn diện của Việt Nam với khu vực này trong bối cảnh mới.
+ Phân tích làm rõ những yếu tố tác động tới sự phục hồi và phát triển của các cường quốc Châu Âu trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; những điều chỉnh chính sách và xu thế phát triển của các quốc gia này trong giai đoạn trung hạn; đưa ra những phân tích dự báo về tác động tới thế giới, khu vực và Việt Nam; từ đó rút ra những bài học lý luận và thực tiễn đóng góp cho việc triển khai các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI; đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với EU và các quốc gia chủ chốt ở châu Âu trong trung hạn.
- Về đề tài nghiên cứu cấp cơ sở
Đề tài cấp cơ sở được thực hiện ở Viện từ năm 2005 đến 2008. Từ năm 2009 - 2012 hệ đề tài cấp cơ sở được thay thế bởi chương trình nghiên cứu và hệ các đề tài cấp Bộ. Các đề tài cấp Viện thực hiện trong thời gian 2005 - 2008 hướng tới những chủ đề có tính thời sự ở các quốc gia châu Âu và các vấn đề sau này có liên quan đến quan hệ Việt Nam với các nước châu Âu như các chính sách của EU về thương mại, an ninh, đối ngoại, môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp…; Những kinh nghiệm của EU và các nước khác trong khu vực đối với các vấn đề chính trị - xã hội như xây dựng nhà nước pháp quyền, mô hình thể chế kinh tế thị trường, phân chia thẩm quyền trong EU, giải quyết các vấn đề xã hội và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, vấn đề tôn giáo và sắc tộc trong khu vực…; Những vấn đề về đặc điểm phát triển, các chính sách và những cải cách ở Liên bang Nga và các nước Trung và Đông Âu, đặc biệt là các nước ứng viên gia nhập EU…
Trong giai đoạn 2013 - 2014, các đề tài cấp cơ sở tiếp tục được triển khai, hướng tới mục tiêu tiếp tục xây dựng và những kiến thức cơ bản về Châu Âu và nâng cao trình độ nghiên cứu chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện. Các đề tài tập trung vào nghiên cứu những vấn đề như: Những vấn đề lịch sử hình thành và phát triển của các Hiệp ước, Hiệp định trong EU; Cơ sở lý luận và thực tiễn về các chính sách của EU và các nước trong khu vực; Cơ sở lý luận và thực tiễn tại Châu Âu đối với các lý thuyết, học thuyết về kinh tế, chính trị, xã hội, hợp tác quốc tế…
Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, có thể thấy rằng, Viện Nghiên cứu châu Âu đã chủ trì thực hiện tất cả các loại đề tài các cấp: cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp cơ sở. Ngoài kinh phí do Viện Khoa học xã hội Việt Nam cấp để thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu cấp bộ và cấp cơ sở, Viện đã chủ động và tích cực tìm kiếm được các nguồn kinh phí khác của Nhà nước thông qua hình thức đấu thầu, được tuyển chọn để thực hiện các đề tài cấp Nhà nước, đề tài sử dụng kinh phí của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Ngoài kinh phí Nhà nước, Viện cũng đã tìm được các nguồn kinh phí khác, trước hết là tài trợ của nước ngoài (100% hoặc từng phần). Các đề tài đã được Viện chủ trì đều thực hiện đúng hạn, đạt chất lượng từ loại khá trở lên, trong đó có nhiều công trình đạt loại xuất sắc. Hầu hết các đề tài sau khi nghiệm thu đều được xuất bản thành sách và được công bố trong các tạp chí chuyên ngành. Chính qua việc thực hiện các đề tài nghiên cứu nói trên, vị thế và uy tín của Viện đã ngày càng nâng cao. Viện Nghiên cứu Châu Âu đã được nhiều tổ chức tài trợ nghiên cứu thuộc Liên minh châu Âu, cũng như với nhiều tổ chức nghiên cứu của các quốc gia thuộc châu Âu biết đến và đang trở thành địa chỉ hợp tác nghiên cứu có uy tín và tin cậy. Cũng thông qua thực hiện các đề tài nghiên cứu, Viện đã ký kết, thực hiện nhiều hợp đồng nghiên cứu khoa học với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Điều này đã tạo ra mạng lưới hợp tác nghiên cứu giữa Viện với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học trong và ngoài nước.
2. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu châu Âu
Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu Châu Âu, thực hiện đào tạo sau đại học và tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong những chức năng và nhiệm vụ quan trọng của Viện Nghiên cứu Châu Âu. Nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện đã và đang tham gia giảng dạy đại học và sau đại học ở nhiều cơ sở đào tạo trong nước như: Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Kinh tế, Khoa Lịch sử, Khoa Quốc tế học, Khoa Luật,...), Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Huế, Trường Đại học Ngoại thương, Học viện Ngoại giao, Học viện Khoa học xã hội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Trường Đại học sư phạm Hà Nội v.v… Ở các cơ sở đó, các cán bộ của Viện được đánh giá có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, có trách nhiệm và có phương pháp giảng dạy hiện đại, mang tính thực tế.
Các sản phẩm nghiên cứu của Viện được cán bộ của Viện tham gia đào tạo sử dụng làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Sau khi mã ngành châu Âu học được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo thí điểm (tháng 12 - 2012), với tư cách là bộ môn trực tiếp giúp Học viện Khoa học xã hội về công tác chuyên môn, Viện đã sử dụng các sản phẩm của các đề tài đã nghiệm thu để biên soạn nội dung đào tạo, tổ chức viết giáo trình, tài liệu học tập cho học viên cao học.
3. Kết quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, trong thời gian qua Viện Nghiên cứu Châu Âu tiếp tục hợp tác có hiệu quả với các đối tác của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu, của Pháp, Bỉ, Italia, Thuỵ Điển và Liên minh Châu Âu.... trong việc xây dựng, chủ trì và tổ chức thực hiện một số chương trình, dự án nghiên cứu.
Viện Nghiên cứu Châu Âu đã chủ trì và tổ chức thực hiện có kết quả “Chương trình nghiên cứu Châu Âu tại Việt Nam”; Chương trình này được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và Chính phủ Việt Nam; Dự án “Nâng cao vai trò của công nhân và công đoàn ở Việt Nam” do Liên minh Châu Âu tài trợ kinh phí. Hiện nay, Viện đang phối hợp với Viện Nghiên cứu tương lai (Thụy Điển) thực hiện Dự án “Chính sách bảo trợ xã hội ở Việt Nam”. Dự án này được thực hiện với sự tài trợ của Cơ quan hợp tác phát triển Thụy Điển (SIDA)...
Những chương trình, dự án hợp tác quốc tế này đã và đang có những đóng góp nhất định trên các phương diện:
+ Nâng cao kiến thức và hiểu biết của Việt Nam về EU; thúc đẩy việc nghiên cứu Châu Âu ở Việt Nam; đào tạo các chuyên gia Việt Nam nhằm nâng cao trình độ giảng dạy và nghiên cứu về EU; thiết lập mạng lưới thông tin tại Việt Nam, ASEAN và Châu Âu; phổ biến kiến thức chung về EU ở Việt Nam.
+ Xây dựng phương pháp tiếp cận từ dưới lên trong nghiên cứu khu vực nông thôn và nông dân, góp phần thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững.
+ Tăng cường năng lực của Công đoàn Việt Nam trong việc nhận biết, nêu rõ và tổ chức nhu cầu cũng như lợi ích của những thành phần dễ bị tổn thương nhất trong lực lượng lao động công nghiệp mới. Bên cạnh đó, dự án xây dựng một phương pháp luận nghiên cứu và tiếp cận đối với công nhân, từ đó giúp hiểu biết về các điều kiện sống và làm việc của công nhân nhằm ban hành và thực hiện các chính sách an sinh xã hội đối với công nhân tốt hơn. Những kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ Châu Âu, sẽ là bài học bổ ích cho Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước, nâng cao thu nhập và đời sống của người lao động, cũng như đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
+ Nhận thức những khó khăn và thách thức đối với hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi dân số, từ đó đề ra các điều chỉnh chính sách nhằm xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện và bao quát hơn. Thụy Điển là quốc gia nổi bật với mô hình an sinh xã hội toàn diện, kinh nghiệm từ Thụy Điển là những đúc rút có giá trị cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và cải cách hệ thống an sinh xã hội của mình.
+ Thông qua các dự án nghiên cứu trên, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã thiết lập được một mạng lưới các mối quan hệ với các trường đại học và trung tâm nghiên cứu lớn tại Châu Âu, như Đại học Naples “Phương Đông” (Italy), Đại học Roskilde (Đan Mạch), Đại học Metropolitan (Đan Mạch), Đại học Bocconi (Italy), Đại học Paris 1 Soborne (Pháp), Tổng liên đoàn lao động Italia (CGIL) (Italy), Viện Nghiên cứu Tương Lai (Thụy Điển), Đại học Stockholm (Thụy Điển), Đại học Oslo (Na Uy), Đại học Coimbra (Bồ Đào Nha), Đại học Chulalongkorn (Thái Lan)...
Cũng trong khuôn khổ mở rộng hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã cử hàng chục đoàn, cán bộ khoa học đi khảo sát, nghiên cứu, trao đổi khoa học tại nhiều nước trên thế giới như Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu, các quốc gia Châu Âu như Nga, Pháp, Bỉ, Italia, Ba Lan, Ucraina, Mông Cổ.... Bên cạnh đó, hàng năm Viện đã đón tiếp, trao đổi khoa học với nhiều học giả, các nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới. Các cán bộ khoa học của đơn vị qua các thời kỳ cũng tham gia và đóng góp kết quả nghiên cứu của mình trong nhiều hội thảo, hội nghị khoa học quốc tế quan trọng được tổ chức trong nước và ngoài nước.
4. Kết quả công tác tư liệu, thư viện, xuất bản, phổ biến các kết quả nghiên cứu và truyền bá các kiến thức khoa học
a) Về quản lý tư liệu, thư viện
Thư viện Viện Nghiên cứu Châu Âu đã có một nguồn lực thông tin tương đối dồi dào, phong phú thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp, quan hệ quốc tế, môi trường… Ở nhóm tài liệu truyền thống, Thư viện hiện có hơn 6500 cuốn sách, trong đó có 3127 cuốn sách tiếng Việt, 3495 cuốn sách tiếng nước ngoài (chiếm hơn 50% tổng số sách của thư viện). Ngoài ra, Thư viện đang lưu giữ 7500 tài liệu, báo, tạp chí tiếng Việt; 4.000 tài liệu, báo, tạp chí tiếng nước ngoài; gần 140 đầu báo tạp chí tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Trong đó có 97 đầu báo trong nước và 37 đầu báo tạp chí nước ngoài. Ngoài trao đổi tư liệu với các Viện trong hệ thống Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2009 Thư viện đã tham gia vào chương trình tài trợ sách của Quỹ Châu Á cho các thư viện Việt Nam, Thư viện được nhận trị giá sách khoảng 41.890 USD.
Ở nhóm tài liệu điện tử, đến nay Thư viện đã xây dựng được trên 17.000 biểu ghi được cập nhật thường xuyên, đều đặn giúp bạn đọc khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thông tin tại Viện. Hiện Thư viện đang có: CSDL sách Việt: 2980 biểu ghi; CSDL sách La tinh: 1950 biểu ghi; CSDL sách dự án: 1265 biểu ghi; CSDL sách tiếng Nga: 150 biểu ghi; CSDL bài trích tạp chí Châu Âu và đề tài: 1400 biểu ghi; CSDL bài trích báo tạp chí tiếng việt: 7052 biểu ghi; CSDL bài trích báo, tạp chí tiếng nước ngoài: 2686 biểu ghi. Ngoài ra, Thư viện còn lưu giữ gần 200 đĩa CDROM và 2 CSDL sách, bài trích tạp chí với hơn 130.000 biểu ghi của các Viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
b) Về xuất bản
Trên cơ sở các đề tài nghiên cứu của Viện và liên quan đến Viện, từ năm 1993 đến nay các nhà khoa học đã và đang công tác tại Viện đã xuất bản được 39 cuốn sách. Ngoài ra, Viện đã công bố hàng chục kỷ yếu hội thảo khoa học; cán bộ nghiên cứu của Viện công bố được hàng trăm bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. Các công trình nghiên cứu khoa học, sách và ấn phẩm do tập thể và các cá nhân trong đơn vị thực hiện và xuất bản có giá trị khoa học và thực tiễn cao, đóng góp thiết thực vào việc tạo dựng cơ sở khoa học cho quá trình hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước; phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo đại học, sau đại học. Với điều đó, Viện Nghiên cứu Châu Âu đang khẳng định là cơ quan nghiên cứu hàng đầu ở Việt Nam về Châu Âu. Điều này thể hiện ở khối lượng các công trình nghiên cứu đã công bố và đặc biệt ở tính hệ thống, toàn diện và thực tiễn của các đề tài nghiên cứu và công trình đã công bố.
c) Về phổ biến các kết quả nghiên cứu và truyền bá các kiến thức khoa học
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu được thành lập từ năm 1995. Tạp chí là cơ quan ngôn luận của Viện Nghiên cứu Châu Âu, là diễn đàn khoa học của ngành và của bạn đọc quan tâm đến những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn của Châu Âu. Tạp chí xuất bản mỗi tháng/số. Hàng năm, ngoài 12 số được xuất bản bằng tiếng Việt, Tạp chí xuất bản thêm 01 số bằng tiếng Anh. Tạp chí đã tổ chức và công bố các bài nghiên cứu và thông tin nhằm góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, qua đó cung cấp những căn cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến tri thức khoa học nhân văn góp phần nâng cao dân trí, tăng cường tính tích cực chính trị và trách nhiệm xã hội của công dân Việt Nam; Tạo diễn đàn chung cho các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn trao đổi, tranh luận về những vấn đề lý luận và thực tiễn, thúc đẩy ngành Châu Âu học phát triển; Thông tin, giới thiệu những thành tựu khoa học của Việt Nam ra thế giới và của thế giới với Việt Nam.
5. Về tổ chức bộ máy, nhân sự
Khi mới thành lập (năm 1993), bộ máy tổ chức của Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu còn đơn giản, chỉ gồm Ban lãnh đạo, Tạp chí (hoạt động từ năm 1995), 02 phòng nghiên cứu, thư viện, phòng hành chính tổng hợp. Đến năm 2003, Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu đã có 4 phòng nghiên cứu về Liên minh Châu Âu, các quốc gia Châu Âu, các nước thuộc SNG và Đông Âu, Quan hệ Việt Nam - Châu Âu. Đến nay, bộ máy tổ chức của Viện Nghiên cứu Châu Âu đã và đang từng bước được hoàn thiện, có đủ khả năng đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Khi mới thành lập Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học còn thiếu. Để thực hiện các nhiệm vụ, một mặt Trung tâm phải xây dựng một đội ngũ cộng tác viên gồm hàng chục giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ từ các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Mặt khác, Trung tâm phải tích cực tự đào tạo cán bộ. Kết quả, đến năm 2003, Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu đã có 30 cán bộ trong biên chế và một số người làm hợp đồng theo chế độ khoán việc, trong đó người làm công tác nghiên cứu chiếm 60% lực lượng lao động. Trong số cán bộ có học hàm, học vị, Trung tâm có 1 giáo sư tiến sĩ, 8 tiến sĩ và 4 thạc sĩ.
Tính đến cuối tháng 3 năm 2013, Viện Nghiên cứu Châu Âu có 38 cán bộ trong biên chế và 07 cán bộ làm việc theo chế độ hợp đồng, trong tổng số đó người làm công tác nghiên cứu khoa học chiếm 75%. Số cán bộ trẻ của Viện trong độ tuổi Đoàn thanh niên chiếm khoảng 50%. Hầu hết cán bộ nghiên cứu của Viện đều biết thông thạo một ngoại ngữ (phổ biến là tiếng Anh và tiếng Nga), nhiều người biết hai thứ tiếng. Hiện nay hầu hết cán bộ, viên chức của Viện Nghiên cứu Châu Âu có trình độ đại học và trên đại học, trong đó có 3 Phó giáo sư, 10 tiến sĩ, 20 thạc sĩ, 6 cán bộ đang được đào tạo tiến sĩ. Điều cần nhấn mạnh là trong công tác cán bộ Viện không chỉ đào tạo được đội ngũ cán bộ có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, Viện còn cung cấp lực lượng cán bộ quản lý cho đơn vị khác trong và ngoài Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Một số cán bộ quản lý đang giữ cương vị lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và lãnh đạo đơn vị thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từng là cán bộ nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Châu Âu.
III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 2020
1.Về tổ chức và bộ máy
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy của Viện theo nội dung Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 2/9/2005 của Chính phủ theo hướng gọn, hiện đại, chuyên nghiệp, chuyên sâu và hiệu quả. Các bộ phận nghiên cứu được tổ chức lại theo hướng kết hợp giữa nghiên cứu với đào tạo, nghiên cứu theo lĩnh vực và nghiên cứu theo khu vực, nghiên cứu liên kết khu vực và nghiên cứu từng quốc gia thành viên.
Thường xuyên rà soát, bổ sung, xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội quy, quy chế quản lý nội bộ trong đơn vị và quy chế phối hợp giữa chính quyền và đoàn thể trong đơn vị. Đảm bảo ngoài các quy định của pháp luật và của Viện Khoa học xã hội, tất cả các hoạt động trong đơn vị được quản lý và thực hiện theo quy chế, quy định nội bộ.
2. Về công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo cán bộ quản lý và tăng cường chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ
Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ của Viện dự kiến có khoảng 65 người thuộc đối tượng được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; tùy thuộc vào nhu cầu công việc của Viện, Viện có thể sử dụng 6 - 10 người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động. Thường xuyên quan tâm công tác quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng và phương pháp làm việc, kinh nghiệm quản lý không chỉ đối với lực lượng nghiên cứu mà cả đội ngũ hành chính và phục vụ nghiên cứu; mỗi người gắn với một chức danh với nhiệm vụ, quyền lợi cụ thể. Lực lượng nghiên cứu được bố trí vị trí làm việc và giao nhiệm vụ phù hợp với chuyên môn đã được đào tạo và năng lực của họ. Phát huy dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Cải thiện điều kiện và môi trường làm việc để thu hút những nhà khoa học có trình độ, có đức, có tài, gắn bó với sự nghiệp khoa học và đào tạo tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp công việc của Viện. Phấn đấu đến năm 2020 mỗi lĩnh vực nghiên cứu ít nhất có một chuyên gia có khả năng giải đáp kịp thời các câu hỏi, nhiệm vụ chuyên môn do cấp trên giao cho. Mỗi cán bộ nghiên cứu có kiến thức chuyên ngành sâu và liên ngành trong lĩnh vực nghiên cứu.
3. Về hoạt động nghiên cứu
Hoạt động nghiên cứu được tiến hành theo hướng đa ngành và liên ngành; Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, với tư vấn chính sách và cung cấp dịch vụ trong khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học. Thực hiện đúng hạn, có chất lượng tất cả các đề tài; Ngoài các đề tài cấp Viện, cấp Bộ do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội giao hoặc đặt hàng, Viện sẽ chủ động tìm kiếm hoặc tham gia đấu thầu, nhận đặt hàng các đề tài, nhiệm vụ, dự án nghiên cứu cấp Nhà nước; đề tài, nhiệm vụ, dự án theo phương thức nghị định thư; đề tài, nhiệm vụ, dự án được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và các dự án hợp tác quốc tế.
4. Về hoạt động hợp tác quốc tế
Phát triển hoạt động hợp tác quốc tế trên tất cả các phương diện: nghiên cứu khoa học và đào tạo; duy trì và phát triển các mối quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống và với thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác mới; mở rộng địa bàn hợp tác, không chỉ quan hệ với các tổ chức ở Đông Âu mà cả với các tổ chức ở Bắc Âu, Nam Âu, Tây Âu; phát triển đồng thời quan hệ hợp tác với các tổ chức của các quốc gia với các tổ chức thuộc khối liên minh châu Âu hoặc hợp tác với các tổ chức quốc tế nghiên cứu về Châu Âu; hợp tác với các tổ chức ở cả các nước phát triển và các nước đang chuyển đổi; mở rộng các mối quan hệ hợp tác không chỉ với các tổ chức nghiên cứu mà cả với các tổ chức đào tạo; mở rộng các chủ đề trong hợp tác nghiên cứu khoa học.
5. Về hoạt động hợp tác với các tổ chức trong nước
Góp ý và phản biện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình và dự án phát triển của đất nước và địa phương theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các bộ, địa phương và doanh nghiệp. Trong phạm vi Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Châu Âu phấn đấu trở thành đầu mối kết nối hoặc hỗ trợ các tổ chức, viện nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hợp tác nghiên cứu với các tổ chức liên quan ở khu vực Châu Âu. Trong lĩnh vực hợp tác nghiên cứu và đào tạo về Châu Âu học, cũng như trong tư vấn chính sách, Viện phấn đấu trở thành trung tâm cung cấp thông tin, kết nối hoặc điều phối hợp tác nghiên cứu với các tổ chức ở các nước trong khu vực Châu Âu. Ngoài ra, Viện sẽ tăng cường hợp tác với các cơ quan quản lý, tổ chức nghiên cứu, cơ sở đào tạo và địa phương trong nước trong phát hiện vấn đề nghiên cứu, triển khai thực hiện các dự án, đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu. Qua đó, gắn kết nhiệm vụ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của Viện với yêu cầu và nhiệm vụ phục vụ thực tiễn trong nước.
6. Về hoạt động đoàn thể xã hội
Xây dựng khối đoàn kết thống nhất và đồng thuận giữa lãnh đạo Viện và các đoàn thể xã hội trong Viện; các thành viên sống và làm việc có trách nhiệm, trung thực, hợp tác, thi đua và tương thân, tương ái. Phát huy dân chủ và vai trò của các đoàn thể xã hội. Mỗi tổ chức xã hội và đoàn thể trong đơn vị hoạt động đúng mục tiêu, tôn chỉ của mình.
7. Về cơ sở vật chất, kỹ thuật
Ngoài kinh phí do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cấp từ ngân sách nhà nước, Viện sẽ tìm kiếm các nguồn kinh phí khác từ việc thực hiện các hợp đồng nghiên cứu, đào tạo, tư vấn ở các cấp độ như đề tài, nhiệm vụ, dự án cấp Nhà nước, nghị định thư, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và các dự án hợp tác quốc tế. Quản lý, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích tài sản và các khoản thu hoặc kinh phí được cấp.
Trang bị các phương tiện làm việc hiện đại, phục vụ tốt cho hoạt động nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu như phòng làm việc, máy vi tính, hạ tầng mạng thông tin v.v…
8. Trao đổi thông tin, quản lý tư liệu, thư viện, xuất bản, phổ biến các kết quả nghiên cứu và truyền bá các kiến thức khoa học
Tăng số lượng đầu sách, tạp chí và các tài liệu khác bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài về các lĩnh vực liên quan đến đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của Viện. Cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu của thư viện. Các tài liệu, dữ liệu có thể được tra cứu trong mạng nội bộ và trên mạng internet. Kết nối thư viện của Viện với mạng lưới thư viện của Viện Khoa học xã hội, thư viện quốc gia, thư viện địa phương và thư viện của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong nước. Mở rộng việc khai thác các tài liệu dưới dạng số hóa. Ứng dụng và khai thác triệt để công nghệ thông tin trong công tác thông tin, tư liệu, thư viện.
Mở rộng mạng lưới cộng tác viên của Tạp chí; tăng cường giao lưu và tham khảo kinh nghiệm của các tạp chí khác trong việc tăng chất lượng bài viết và nguồn kinh phí cho hoạt động của Tạp chí; tăng số lượng phát hành Tạp chí qua kênh các trường đại học.
Công bố, xuất bản thành sách các sản phẩm của các đề tài, nhiệm vụ, dự án nghiên cứu cấp Nhà nước, nghị định thư, cấp bộ (đạt loại khá trở lên), đề tài, nhiệm vụ, dự án được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và các dự án hợp tác quốc tế. Khuyến khích các cán bộ Viện công bố các kết quả nghiên cứu của mình với yêu cầu tối thiểu mỗi cán bộ nghiên cứu hàng năm công bố ít nhất một bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành.
Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN