PGS.TS. Tạ Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm phát biểu Khai mạc Hội thảo
Hội thảo diễn ra dưới sự chủ trì của PGS.TS. Tạ Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm và TS. Nguyễn Đình Chúc, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, cùng với sự tham gia của Thượng tướng PGS.TS. Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài Viện Hàn lâm.
Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS. Tạ Minh Tuấn nhấn mạnh: thế giới đang trải qua giai đoạn nhiễu động nhất của lịch sử, đánh dấu bởi các cuộc xung đột vũ trang và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Chiến tranh và xung đột không chỉ gây thiệt hại trực tiếp mà còn châm ngòi cho những bất ổn kéo dài, tác động sâu rộng đến kinh tế - xã hội toàn cầu. Việt Nam – một quốc gia với độ mở ngày càng lớn cũng không nằm ngoài vòng xoáy đầy bất định đó, khi đang phải đối diện với nhiều rủi ro, từ gián đoạn chuỗi cung ứng, biến động thị trường năng lượng, giá vàng… cho đến những thách thức về ổn định thương mại và phát triển bền vững. Do đó, Hội thảo được tổ chức nhằm nhận diện và phân tích những tác động, rủi ro của chiến tranh và xung đột đến an ninh kinh tế và đề xuất những giải pháp chính sách phù hợp với điều kiện của Việt Nam, hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực tự cường và khả năng thích ứng của nền kinh tế.
PGS.TS. Tạ Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm và TS. Nguyễn Đình Chúc, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới đồng chủ trì Hội thảo
Các tham luận trình bày tại Hội thảo tập trung phân tích các tác động từ các xung đột toàn cầu. Theo TS. Đoàn Trường Thụ, Tạp chí Cộng sản: cơ chế tác động gián tiếp của chiến tranh đến an ninh kinh tế các quốc gia không tham chiến được thể hiện qua bốn kênh chính: thương mại và chuỗi cung ứng; năng lượng và lương thực; tài chính – tiền tệ và chính trị - xã hội. Ông đưa ra ví dụ cụ thể: (i) về năng lượng, khi xung đột Nga – Ukraine nổ ra, Liên minh châu Âu cắt giảm nhập khẩu năng lượng từ Nga, khiến giá khí đốt tại châu Âu có thời điểm tăng gấp 5-7 lần so với trước xung đột; (ii) về lương thực, Nga và Ukraine chiếm 30% lượng lúa mì xuất khẩu toàn cầu nhưng khi xung đột bùng phát, hoạt động xuất khẩu ngũ cốc qua Biển Đen bị đình trệ, khiến nhiều nước châu Phi và Trung Đông đối mặt khủng hoảng lương thực. Xung đột ở Biển Đỏ buộc các tàu phải đi vòng qua Mũi Hảo Vọng, làm chi phí vận chuyển tăng gấp nhiều lần. Đồng thời, Ông cũng cho rằng chiến tranh và xung đột là nguyên nhân của tình trạng phân mảnh kinh tế, phân cực chính trị và ảnh hưởng tới hợp tác đa phương. Các nước thường điều chỉnh quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao theo các khối đối tác khác nhau, dẫn đến việc hình thành các tuyến kinh tế - chính trị phân cực, làm suy yếu tính thống nhất trong các cơ chế đa phương
TS. Đoàn Trường Thụ, Tạp chí Cộng sản trình bày tham luận tại Hội thảo
Thảo luận về thách thức an ninh chuỗi cung ứng và thương mại, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới đã phân tích bối cảnh thế giới VUCAD (Volatility-Uncertainty-Complexity-Ambiguity-Disruption) và nhấn mạnh 74% doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi yêu cầu kiểm tra chuỗi cung ứng. Ông chỉ rõ, các doanh nghiệp FDI chiếm 73% kim ngạch xuất khẩu nhưng chỉ sử dụng 10-20% nhà cung cấp trong nước (tính riêng trong ngành ngành điện tử tỷ lệ nội địa hóa mới chỉ dừng lại ở mức từ 10-15%). Các nghiên cứu cũng cho thấy chỉ có 2,5% doanh nghiệp có khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu… Cùng vấn đề này, ThS. Phạm Thị Hồng Nhung, Học viện Cảnh sát nhân dân cũng cảnh báo về gian lận xuất xứ hàng hóa gia tăng khi Mỹ áp thuế 20% hàng xuất khẩu trực tiếp và 40% hàng "trung chuyển" từ Việt Nam, buộc doanh nghiệp phải chứng minh xuất xứ 100% nội địa để được giảm thuế còn 10%.
TS. Phạm Quỳnh Mai, Học viện Tài chính trình bày tham luận tại Hội thảo
Liên quan đến vấn đề an ninh tài chính-tiền tệ, TS. Phạm Quỳnh Mai, Học viện Tài chính phân tích qua ba kênh tác động: dự trữ ngoại hối Việt Nam giảm mạnh từ 109 tỷ USD (1/2022) xuống 79,8 tỷ USD (8/2025), chỉ đủ 2,39 tháng nhập khẩu - thấp nhất ASEAN; lạm phát nhập khẩu tăng do Việt Nam nhập >70% xăng dầu và >50% than; vốn FPI biến động với khối ngoại bán ròng kỷ lục 90 nghìn tỷ đồng năm 2024. Tuy nhiên, bà cũng chỉ ra cơ hội từ xu thế "China+1" khi đa cực hóa tạo cơ hội cho Đông Nam Á trở thành trung tâm sản xuất thay thế, đặc biệt có lợi cho vùng biên giới đất liền Việt Nam.
Đối với những rủi ro từ cạnh tranh chiến lược và an ninh kinh tế, ThS. Phạm Thị Hồng Nhung đã cảnh báo ba thách thức nghiêm trọng khác bao gồm: (1). Đầu tư gián tiếp nước ngoài kiểm soát các nền tảng thương mại điện tử, tạo rủi ro an ninh thông tin và nguy cơ "đầu tư chui", rửa tiền. (2). Trữ lượng đất hiếm đạt tỷ suất 22 triệu tấn (đứng thứ 2 thế giới), Việt Nam đang đối mặt "chảy máu tài nguyên" và hình thành "nhóm lợi ích" trục lợi, thất thu ngân sách hàng trăm tỷ đồng. (3). Nguy cơ lệ thuộc công nghệ khi các công nghệ then chốt bị kiểm soát bởi nước lớn.
PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hải, Viện Trần Nhân Tông, Đại học Quốc gia Hà Nội trình bày tham luận tại Hội thảo
Trao đổi tại Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hải, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra định hướng đột phá về an ninh công nghệ và tầm nhìn phát triển. Thay vì "theo sau" và lệ thuộc như trong 4 cuộc cách mạng trước, Việt Nam cần chuyển sang tư duy "từ trong ra ngoài". Ông phân tích các cuộc cách mạng trước chỉ tập trung vào GDP, dẫn đến "tăng trưởng vô nghĩa", bất bình đẳng xã hội và suy thoái môi trường. Cách mạng công nghiệp lần thứ 5 cần hướng tới "Vietnam Well-being & Resilience" - một bộ chỉ số đo lường hạnh phúc dài hạn thay vì chỉ GDP. Ông xác định ba trụ cột phát triển nội lực: lợi thế nội tại như năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, du lịch cộng đồng; ba lĩnh vực công nghệ cao trọng điểm gồm bán dẫn (đóng gói và kiểm tra chip, chip chuyên dụng cho nông nghiệp), AI & Big Data (trung tâm tính toán quốc gia, nông nghiệp thông minh, công nghệ tiếng Việt), công nghệ sinh học (giống cây chịu hạn/mặn, vắc-xin thủy sản, vật liệu sinh học) và mục tiêu cuối cùng là chuyển từ "công xưởng rẻ" thành "nguồn sáng tạo giá trị".

Thượng tướng PGS.TS. Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phát biểu tại Hội thảo
Sau các tham luận, Hội thảo diễn ra phiên thảo luận sôi nổi với sự tham gia của Thượng tướng PGS.TS. Nguyễn Văn Thành, PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh, TS. Lê Xuân Sang, PGS. TS Phạm Thái Quốc cùng nhiều nhà khoa học khác. Các chuyên gia đề xuất hệ thống giải pháp như đổi mới tư duy, đổi mới mô hình và đổi mới cơ chế quản lý, cũng như bổ sung thêm khái niệm an ninh tiền tệ, an ninh kinh tế... Cũng theo các chuyên gia, bên cạnh những khó khăn thì Việt Nam cũng có những thuận lợi nhất định cần được nhìn nhận để phát huy và khai thác các yếu tố nội sinh như: vị trí địa chính trị, tài nguyên, nhân lực để đối phó với cơn lốc chiến tranh và xung đột này.
Toàn cảnh Hội thảo
Tổng kết Hội thảo, TS. Nguyễn Đình Chúc cho rằng các bài tham luận đã làm sâu sắc được bối cảnh quốc tế hiện nay, nơi mà chiến tranh, xung đột tác động đến an ninh kinh tế toàn cầu; đồng thời chỉ ra được những thách thức đối với Việt Nam trong đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ, công nghệ, năng lượng, lương thực, nguồn nước,…, cũng như nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng và gia tăng phụ thuộc vào bên ngoài. TS. Nguyễn Đình Chúc cho rằng các giải pháp đưa ra cho Việt Nam là rất có giá trị, tuy nhiên để phát triển kinh tế Việt Nam bền vững và có khả năng chống chịu với các “cú sốc” bên ngoài, Việt Nam cần phải kết hợp các yếu tố như: tăng cường năng lực nội tại của nền kinh tế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo và chủ động hội nhập quốc tế./.