Tham dự hội thảo, về phía các đơn vị tổ chức có GS.TSKH. Đào Trí Úc (Viện trưởng Viện Chính sách công và Pháp luật), PGS.TS. Trương Hồ Hải (Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) và TS. Phạm Thị Thúy Nga (Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam).
Hội thảo cũng chào đón sự tham gia của PGS.TS. Tạ Minh Tuấn (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) và các giáo sư đầu ngành luật: GS.TS. Phạm Hồng Thái, GS.TS. Võ Khánh Vinh, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, GS.TS. Nguyễn Minh Đoan, GS.TS. Vũ Công Giao... Đến dự hội thảo còn có nhiều đại biểu, chuyên gia và đông đảo các nhà khoa học của 03 viện nghiên cứu.
Hội thảo diễn ra đồng thời qua hai hình thức, trực tiếp tại trụ sở số 1 Liễu Giai, phường Ngọc Hà, Tp. Hà Nội và trực tuyến trên nền tảng Zoom. Đồng chủ trì hội thảo là GS.TS. Vũ Công Giao, TS. Phạm Thị Thúy Nga và PGS.TS. Trương Hồ Hải.
PGS.TS. Tạ Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam phát biểu chào mừng hội thảo
Phát biểu chào mừng hội thảo, PGS.TS. Tạ Minh Tuấn nhấn mạnh, Đảng đã ban hành bốn nghị quyết trọng tâm, được xem là bốn đột phá chiến lược mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững của đất nước gồm: (i) Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; (ii) Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; (iv) Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Bốn nghị quyết này không chỉ mang ý nghĩa chiến lược mà còn thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng trong việc tháo gỡ điểm nghẽn, tạo động lực cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trong toàn bộ tiến trình đó, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng vừa là công cụ điều chỉnh, vừa là nền tảng thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy, PGS.TS Tạ Minh Tuấn khẳng định, Hội thảo khoa học “Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện bốn đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần chỉ ra những điểm nghẽn pháp lý, những bất cập trong triển khai chính sách, đồng thời đề xuất các giải pháp đột phá nhằm hoàn thiện pháp luật, đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
TS. Phạm Thị Thúy Nga phát biểu khai mạc hội thảo
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Phạm Thị Thúy Nga cho biết, hội thảo được tổ chức trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa ba cơ quan nghiên cứu chuyên ngành: Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam), Viện Chính sách công và Pháp luật và Viện Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), với sự hỗ trợ chuyên môn, tư vấn học thuật của Hội đồng Giáo sư ngành Luật học.
Các tham luận gửi tới hội thảo cho thấy một điểm hội tụ quan trọng: Muốn thực hiện được những đột phá lớn về phát triển, chúng ta buộc phải nghĩ lại, thiết kế lại cách thức xây dựng, tổ chức thi hành và bảo đảm tính tối cao của pháp luật. Nói cách khác, trọng tâm của hội thảo không phải chỉ là “vai trò của pháp luật” theo nghĩa thông thường, mà là câu hỏi sâu hơn: Chúng ta đang kiến tạo một mô hình pháp luật nào cho một giai đoạn phát triển mới của quốc gia? Với cách đặt vấn đề như vậy, Ban Tổ chức mong muốn rằng hội thảo sẽ không chỉ dừng lại ở việc phân tích những bất cập, chồng chéo hay kiến nghị sửa đổi từng đạo luật, mà hướng tới những gợi mở mang tính kiến tạo cho mô hình pháp luật của một giai đoạn phát triển mới, một hệ sinh thái pháp luật vừa vững chắc về nguyên tắc nhà nước pháp quyền, vừa đủ linh hoạt để đồng hành và dẫn dắt các đột phá chiến lược của đất nước.
Tham luận mở đầu hội thảo là của GS.TSKH. Đào Trí Úc có chủ đề “Kiến tạo hệ sinh thái pháp luật để thực hiện bốn đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới”. Bài viết phân tích vai trò trung tâm của pháp luật trong việc thực hiện bốn đột phá chiến lược phát triển đất nước theo tinh thần các Nghị quyết 57, 59, 66, 68 của Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất khái niệm và khung khổ “hệ sinh thái pháp luật” cho phát triển, với tính chất là một cấu trúc thể chế thống nhất, đồng bộ nhưng mở, linh hoạt, thích ứng, gắn kết giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, để bảo đảm pháp luật không chỉ là công cụ quản lý mà còn là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế, làm tăng năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bàn về khái niệm hệ sinh thái pháp luật, tác giả cho rằng, trước đó, chúng ta nói đến hệ thống pháp luật với việc chi phối các yếu tố là các văn bản pháp luât, mặc dù hiện nay mở rộng nguồn pháp luật khác như án lệ nhưng vẫn còn cứng nhắc. Hệ sinh thái đặt ra vấn đề tôn trọng các quy tắc tham gia vào điều chỉnh xã hội, tôn trọng độc lập và hiệu lực của nó. Chẳng hạn như việc tôn trọng các quy tắc của cộng đồng khoa học. Trước hết, cộng đồng khoa học phải tự bảo vệ, thực hiện quy tắc của mình, biết công nghệ, nắm chắc và chịu trách nhiệm . Đặc điểm của hệ sinh thái đa dạng, độc đáo và tôn trọng ý chí của các quy tắc.
GS.TSKH. Đào Trí Úc đưa ra một số yêu cầu cụ thể về việc xây dựng hệ sinh thái pháp luật để thực hiện bốn đột phá chiến lược. Một trong số đó là đổi mới lý luận pháp luật trong thời đại chuyển đổi số. Đa số các định nghĩa hiện nay về chuyển đổi số đều xác định hai mức độ. Theo nghĩa rộng, chuyển đổi số (digitalization) được hiểu như là xu hướng toàn cầu về một sự phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội và cải thiện cuộc sống một cách có hiệu quả trên cơ sở chuyển hóa thông tin dưới hình thức số. Ở nghĩa hẹp, chuyển đổi số được hiểu là quá trình chuyển hóa thông tin dưới hình thức số hóa nhằm tạo ra những khả năng mới trong từng lĩnh vực nhất định.
Nhận thức đầy đủ về chuyển đổi số và về ảnh hưởng to lớn của quá trình đó đối với mọi mặt của đời sống xã hội là điều mà lý luận pháp luật cơ bản cần giải quyết nhằm góp phần thúc đẩy hiểu biết và khả năng của người dân trong chuyển đổi số và các hoạt động đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực kinh tế, quản trị quốc gia, giáo dục, y tế v.v...
Ngoài yêu cầu trên, tác giả còn nhắc đến các vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo; tính chất, mức độ, vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với chuyển đổi số; điều chỉnh pháp luật kinh tế số…
Tiếp theo, hội thảo lắng nghe GS.TS. Võ Khánh Vinh trình bày tham luận “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước”. Báo cáo phân tích một cách hệ thống về tư duy xây dựng pháp luật trong bối cảnh mới của đất nước, làm rõ khái niệm, thành tố, đặc điểm, nội hàm tư duy pháp lý, nội dung, bối cảnh và các yêu cầu đặt ra đối với đổi mới tư duy pháp lý, thực trạng tư duy xây dựng pháp luật hiện nay, kinh nghiệm quốc tế về đổi mới tư duy xây dựng pháp luật và bài học cho Việt Nam, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới tư duy xây dựng pháp luật trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Tư duy xây dựng pháp luật được hiểu là hệ thống các quan điểm, cách tiếp cận, phương pháp, nguyên tắc và mô hình nhận thức chỉ đạo, dẫn dắt quá trình thiết kế pháp luật. Nó phản ánh cách thức chủ thể xây dựng pháp luật, nhất là chủ thể lập pháp luận giải hiện thực xã hội, xác định vấn đề pháp lý cần điều chỉnh, lựa chọn giải pháp pháp lý tối ưu và thể chế hoá, cấu trúc hoá chúng thành quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật.
Khái niệm tư duy xây dựng pháp luật bao hàm các yếu tố: Nền tảng lý luận, cách tiếp cận, nguyên tắc, phương pháp tư duy, mô hình thể chế và triết lý xây dựng pháp luật. Mỗi quốc gia có thể lựa chọn cách tiếp cận khác nhau tùy theo mô hình Nhà nước, mô hình hệ thống pháp luật, trình độ phát triển và mục tiêu cải cách. Điều này liên quan đến việc thiết kế hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng, dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, tư duy xây dựng pháp luật ở Việt Nam vẫn còn tồn tại các hạn chế, đó là: (i) Tư duy quản lý - kiểm soát còn phổ biến, trong khi tư duy kiến tạo phát triển chưa trở thành phương thức chủ đạo; (ii) Tư duy kinh nghiệm còn chiếm tỷ trọng lớn, thiếu tư duy dựa trên bằng chứng, phân tích định lượng và dữ liệu lớn, đánh giá tác động chính sách; (iii) Tư duy cục bộ ngành, địa phương còn tồn tại, dẫn đến tình trạng văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính liên ngành, liên thông, gây khó khăn cho việc áp dụng trong thực tiễn; (iv) Năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật chưa đồng đều, thiếu chuyên gia phân tích tác động chính sách, chuyên gia so sánh pháp luật, chuyên gia chính trị - pháp lý, kinh tế - pháp lý, xã hội học - pháp lý…; (v) Công nghệ số chưa được ứng dụng sâu, đặc biệt trong rà soát pháp luật, đánh giá tác động, mô phỏng chính sách; (vi) Thiếu cơ chế đánh giá sau lập pháp, khiến nhiều đạo luật không đạt mục tiêu nhưng chậm được sửa đổi.
Sau khi dẫn chứng kinh nghiệm về tư duy xây dựng pháp luật ở Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Hàn Quốc và một số quốc gia khác, GS.TS. Võ Khánh Vinh đã đưa ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới tư duy xây dựng pháp luật trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước Việt Nam. Theo đó, quan điểm đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bao gồm các yếu tố sau:
- Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm;
- Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản trị quốc gia, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển, kiến tạo phát triển với tầm nhìn dài hạn;
- Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật phải gắn với thực tiễn, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, chủ động hội nhập quốc tế;
- Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật phải gắn liền với đổi mới quy trình và tổ chức xây dựng pháp luật;
- Phát triển, nâng cao năng lực của nhân lực xây dựng pháp luật.
Tham luận thứ ba tại hội thảo có chủ đề “Tháo gỡ điểm nghẽn thể chế về đầu tư tài chính thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam” của PGS.TS. Tào Thị Quyên (Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào kỷ nguyên kinh tế tri thức, chuyển đổi số, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH&CN, ĐMST) đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố then chốt tạo động lực tăng trưởng của các quốc gia. Đối với Việt Nam, việc phát triển KH&CN, ĐMST không chỉ là yêu cầu khách quan của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn là giải pháp thiết yếu để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tiễn phát triển, một trong những rào cản lớn nhất hiện nay là điểm nghẽn thể chế về đầu tư tài chính cho KH&CN, ĐMST, khiến các nguồn lực không được huy động và sử dụng hiệu quả, làm suy giảm động lực đổi mới, tăng trưởng trong cả khu vực công và tư. Bài viết phân tích yêu cầu khách quan và các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn thể chế đầu tư tài chính cho KH&CN, ĐMST, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển đất nước nhanh bền vững, thịnh vượng.
GS.TS. Phạm Hồng Thái trao đổi tại hội thảo
Bàn tới pháp luật phục vụ cho phát triển khoa học công nghệ, GS.TS. Phạm Hồng Thái cho rằng, cần nhìn nhận vấn đề thuộc về ai là yếu tố quan trọng. Vấn đề cốt lõi là thái độ của Nhà nước đối với sản phẩm KHCN do nhà khoa học sáng tạo ra. Nếu coi sản phẩm đó là của Nhà nước thì rất khó, rất lâu mới có thể áp dụng, chuyển giao công nghệ được. Mặt khác, cũng cần phải thay đổi tư duy rằng việc nghiên cứu có thể thành công và có thể thất bại. Vậy nên phải thay đổi tận gốc vấn đề về tư duy, để vận hành pháp luật như thế nào, không phải pháp luật quy định như thế nào. Bên cạnh đó, các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu cũng cần đi sâu vào thực tiễn, chứ nếu chỉ quan tâm đến các quy định pháp luật thì khó có thể thay đổi.
Sau giờ nghỉ giải lao, hội thảo tiếp tục diễn ra với tham luận của TS. Phạm Thị Thúy Nga với chủ đề “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật theo Nghị quyết 66-NQ/TW: Trụ cột thể chế hiện thực hóa bốn đột phá chiến lược phát triển đất nước”. Báo cáo phân tích Nghị quyết số 66-NQ/TW trong tương quan với “bộ tứ nghị quyết trụ cột” của Đảng, qua đó lý giải vì sao đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật được coi là “đột phá của đột phá” trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Trên cơ sở nghiên cứu văn kiện Đảng, văn bản pháp luật và các công trình liên quan, bài viết làm rõ vai trò “trụ cột thể chế” của Nghị quyết số 66-NQ/TW đối với bốn đột phá chiến lược: (i) Hoàn thiện thể chế phát triển; (ii) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; (iii) Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; (iv) Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Từ đó, bài viết đề xuất một số gợi mở nhằm phát huy hiệu lực của Nghị quyết số 66-NQ/TW, tập trung vào hoàn thiện kiến trúc pháp luật gắn với bốn đột phá, đổi mới cơ chế tổ chức thi hành pháp luật theo hướng quản trị dựa trên dữ liệu và kết quả, tăng cường bảo đảm nguồn lực và phát huy vai trò của chính quyền địa phương hai cấp, cũng như sự tham gia của xã hội.
Sau đó, GS.TS. Nguyễn Minh Đoan (Trường Đại học Luật Hà Nội) trình bày tham luận có liên quan đến Nghị quyết số 66-NQ/TW với chủ đề về xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật. Có nhiều giải pháp để xây dựng, nâng cao văn hóa tuân thủ pháp luật ở Việt Nam theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, trong đó cần chú trọng các giải pháp cơ bản sau:
- Nghiên cứu, nhận thức đầy đủ về văn hóa tuân thủ pháp luật ở Việt Nam;
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững;
- Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, tạo sự nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi đúng đắn đối với pháp luật và các hoạt động pháp luật;
- Hoàn thiện cơ chế, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật;’
- Đẩy mạnh việc xây dựng cộng đồng văn hóa, môi trường sống theo pháp luật, sống đẹp, văn hóa, văn minh.
Tóm lại, GS.TS. Nguyễn Minh Đoan cho rằng, xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, Nhân dân mà Đảng đã đề trong Nghị quyết số 66- NQ/TƯ để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Có nhiều giải pháp để xây dựng, nâng cao văn hóa tuân thủ pháp luật cần được tiến hành đồng bộ, khoa học và hiệu quả. Hành vi gương mẫu trong tuân thủ pháp luật của các cơ quan đảng, nhà nước, nhất là của các vị lãnh đạo cấp cao sẽ là tấm gương sáng cho việc xây dựng, củng cố văn hóa tuân thủ pháp luật ở nước ta. Văn hoá tuân thủ pháp luật càng được nâng cao thì lòng tin đối với pháp luật, đối với sức mạnh, uy tín của Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, nền tảng tinh thần của xã hội càng thêm vững chắc và đó sẽ là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tham luận cuối cùng tại hội thảo là của NCS. Bùi Ai Giôn (Tòa án nhân dân khu vực 13 Tp. Hồ Chí Minh), “Chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật: Thực trạng và kiến nghị”. Chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) đang tạo ra một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp trên toàn thế giới, không chỉ đơn thuần là việc trang bị công cụ mới mà còn làm thay đổi căn bản tư duy, phương thức hoạt động và bản chất của công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Do đó, việc đánh giá thực trạng chuyển đổi số và AI trong hai lĩnh vực cốt lõi của đời sống pháp lý tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế từ Hoa Kỳ có ý nghĩa hết sức cần thiết. Từ đó, Việt Nam có thể xây dựng một nền tư pháp và một hệ thống pháp luật thực sự hiện đại, minh bạch, hiệu quả, dễ tiếp cận, góp phần kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên số.
Bình luận về tham luận của GS.TS. Nguyễn Minh Đoan, GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng, văn hóa pháp luật không phải là văn hóa của người dân mà phải tính từ tầng cao nhất. Pháp luật đưa ra như thế nào để người dân tuân thủ, nếu không có văn hóa pháp luật để làm luật tốt thì tình trạng cấm, không thể phân biết được, văn hóa của người thực thi pháp luật. Văn hóa pháp luật dựa trên tinh thần tự giác không phải tinh thần áp đặt, vì vậy yếu tố con người là quan trọng nhất, dựa trên tôn trọng quyền con người, phẩm giá con người, tôn trọng con người nói chung.
Trao đổi tại hội thảo, theo GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, muốn cho hiệu lực pháp luật được tốt thì bản thân hành pháp phải trực tiếp làm luật. Chúng ta áp dụng học thuyết phân quyền, mọi thứ rạch ròi nhưng sai thực tiễn. Trên thực tế, một số đạo luật chúng ta áp dụng chưa đúng, chẳng hạn như Luật Dân chủ cơ sở. Ở trường học, người lao động làm theo hợp đồng, quy chế của trường đại học, những quy định này không đáp ứng dân chủ pháp luật.
Bình luận về tham luận của NCS. Bùi Ai Giôn, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng, xã hội cần phải nâng cao nhận thức về mối liên hệ giữa công nghệ và pháp luật với nhau. Công nghệ là phương thức để thể hiện nội dung của pháp luật. Trong công nghệ có luật, trong luật có công nghệ. Có thể tìm thấy điểm chung giữa pháp luật và công nghệ, pháp luật là nội dung và công nghệ là phương tiện, đột phá đầu tiên là lập pháp.
Hội thảo cũng nhận được nhiều ý kiến phát biểu trao đổi, thảo luận của các đại biểu, nhà khoa học, chuyên gia về các vấn đề khác nhau liên quan đến chủ đề của hội thảo.
Phát biểu tổng kết hội thảo, TS. Phạm Thị Thúy Nga cảm ơn sự tham dự và phát biểu thảo luận nhiệt tình của các chuyên gia, nhà khoa học. Bà khẳng định, chủ đề hội thảo đặt ra những vấn đề mới về hệ sinh thái pháp luật, văn hóa pháp luật, đổi mới tư duy pháp luật, đạo đức công vụ, văn hóa pháp quyền… Trên cơ sở nghiên cứu và thảo luận trong hội thảo này, trong thời gian tới, Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) sẽ quan tâm đến những hướng nghiên cứu sau:
- Hoàn thiện khung lý luận và tiêu chí về hệ sinh thái pháp luật, kiến tạo phát triển trong điều kiện Việt Nam, làm nền trong các cải cách thể chế của Việt Nam trong thời gian tới.
- Thiết kế vòng đời chính sách pháp luật từ nền tảng công nghệ số từ khâu soạn thảo ý tưởng, tham vấn, ban hành đền tổ chức thi hành và đánh giá.
- Xây dựng đội ngũ “kiến trúc sư thể chế” và văn hóa pháp quyền để mỗi cải cách pháp luật không chỉ là thay đổi trên giấy, mà thực sự chuyển hóa thành thay đổi trong cách vận hành bộ máy và trong đời sống xã hôi.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại hội thảo
Những kết quả của hội thảo hôm nay sẽ là nguồn tham chiếu quan trọng để các cơ quan nghiên cứu, tham mưu tiếp tục chắt lọc, hoàn thiện thành các kiến nghị chính sách cụ thể, đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.