Hướng tới kỷ niệm 70 năm hình thành, phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

17:00 12/03/2023
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Hướng tới kỷ niệm 70 năm ngày thành lập, Cổng thông tin điện tử Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trân trọng giới thiệu loạt bài giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong 70 năm qua.

Nhìn lại những chặng đường lịch sử phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cần tổng kết những thành tựu nghiên cứu nêu trên, nhất là những quan điểm phát triển, những đóng góp khoa học trong từng thời kỳ, trên mọi lĩnh vực hoạt động của Viện Hàn lâm (lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phát triển tổ chức và nguồn nhân lực, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hợp tác quốc tế, xây dựng cở sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật phục vụ nghiên cứu…) trong 70 năm qua kể từ khi Ban Văn - Sử - Địa ra đời đến nay.

 

 

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

 

I. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM QUA 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH([1])

           Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (dưới đây gọi tắt là Viện Hàn lâm) kể từ cơ quan tiền thân được thành lập năm 1953 đến nay có lịch sử hình thành và phát triển liên tục tròn 60 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Viện Hàn lâm đã có bước trưởng thành và phát triển về mọi mặt, có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng như sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà nói chung, sự nghiệp phát triển Khoa học xã hội và nhân văn nói riêng.

           Quá trình hình thành và phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có thể chia thành 4 thời kỳ, tương ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam.

           1.Thời kỳ hình thành, bước đầu xây dựng và phát triển (1953-1959)

           Cuối năm 1953, cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống bọn thực dân Pháp xâm lược đã bước vào giai đoạn quyết định. Thắng lợi trên cả hai mặt trận chống đế quốc và phong kiến đã cho phép chúng ta chuẩn bị bước chuyển biến mới của cách mạng Việt Nam. Tuy các ngành khoa học lúc này đều đòi hỏi được phát triển, nhưng do khả năng của ta có hạn, nên Trung ương Đảng mới cho xây dựng một tổ chức nghiên cứu về Khoa học xã hội đầu tiên ở nước ta([2]).  Đó là Ban Nghiên cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học (gọi tắt là Ban Nghiên cứu Sử - Địa - Văn). Ban Nghiên cứu Sử - Địa - Văn được thành lập trên đất Tân trào lịch sử, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, theo Quyết định số 34/NQ/TW ngày 2/12/1953 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Ban này trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng(BCHTWĐ). Ban Nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học từ giữa năm 1954 được đổi tên thành Ban Nghiên cứu Văn học - Lịch sử - Địa lý, gọi tắt là Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa.

           Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa ra đời nhằm đáp ứng một số yêu cầu sau:

           - Góp phần vào việc bồi dưỡng lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của Đảng.

           - Góp phần nâng cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân ta.

           - Phê phán những quan điểm, tư tưởng phản động, sai lầm.

           - Phát triển giao lưu, văn hóa, khoa học với các nước(1). Đó là Ban Nghiên cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học (gọi tắt là Ban Nghiên cứu Sử - Địa - Văn).

           Nhiệm vụ của Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa ghi rõ trong Quyết định thành lập do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định như sau:

           a) Sưu tầm và nghiên cứu những tài liệu lịch sử, địa lý và văn hóa Việt Nam và biên soạn những tài liệu về sử học, địa lý, văn học Việt Nam.

           b)  Nghiên cứu và giới thiệu lịch sử, địa lý, văn học các nước bạn(2).       

           Về mặt tổ chức, Ban Văn - Sử - Địa khi thành lập có 6 thành viên là Trần Huy Liệu, Tôn Quang Phiệt, Hoài Thanh(3), Minh Tranh, Vũ Ngọc Phan và Trần Đức Thảo, do nhà sử học Trần Huy Liệu là Trưởng ban, các vị khác là ủy viên của Ban. Ngoài ra còn có các cán bộ, nhân viên mà cho đến ngày về Thủ đô (4/11/1954), số cán bộ, nhân viên của Ban là 14 người(4). Nếu kể cả Trưởng ban, các ủy viên của Ban và cán bộ, nhân viên thì tổng số cán bộ, nhân viên của Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa lên tới 19 người.

           Sau khi miền Bắc được giải phóng, Ban Văn - Sử - Địa có điều kiện bổ sung cán bộ nghiên cứu ở trong nước và ở nước ngoài về. Ban tiếp nhận các nhà nghiên cứu từ Bộ giáo dục, nhất là từ Khu Học xá Trung ương của nước ta đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc) trong  những năm 1951-1955 trở về và một số cán bộ của quân đội ham thích Khoa học xã hội chuyển ngành sang, cùng với một số trí thức trong thành Hà Nội ở lại với chế độ mới và một số trí thức ở nông thôn ra(1). Nhờ vậy mà cán bộ của Ban lúc đầu là 6 thành viên, cuối năm 1954 tăng lên 19 thành viên và năm 1959 đã tăng tới hơn 50 thành viên. 

           Từ tháng 9 năm 1956, do yêu cầu phát triển các cơ quan khoa học, Đảng và Chính phủ quyết định chuyển Ban Văn - Sử - Địa trực thuộc Ban Bí thư Trung ương Đảng sang trực thuộc Bộ Giáo dục. Nhà xuất bản Văn - Sử - Địa cũng ra đời cuối năm 1956 thay thế cho Tổ xuất bản của Ban trước đây, còn in ấn do Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách(2).

           Mặc dù cán bộ còn ít, nhưng Ban Văn - Sử - Địa rất chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhất là khi chuyển từ Tân trào về Hà Nội, với phương châm tự vươn lên “Vừa học vừa làm”, người đi trước dạy người đi sau, trước hết là bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cho cả Ban. Đồng thời mỗi thành viên trong Ban phải phấn đấu trở thành các nhà nghiên cứu, thành chuyên gia trong từng lĩnh vực như lịch sử, văn học, địa lý hoặc cán bộ thư viện, tòa soạn tập san, tổ xuất bản.

           Về tổ chức nghiên cứu Ban Văn - Sử - Địa lúc đầu có: Tổ Cổ sử, Tổ Lịch sử cận hiện đại, Tổ Văn học, Tổ Địa lý và Tổ Quan hệ quốc tế. Ngoài ra còn có Văn phòng Ban, Tòa soạn Tập san Văn - Sử - Địa.

           Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương Đảng nên các vấn đề nghiên cứu thời kỳ này của Ban bám sát yêu cầu thực tiễn:

           Về sử học, giai đoạn 1953-1954 tập trung nghiên cứu các vấn đề về ruộng đất và nông dân trong lịch sử, giai đoạn 1958-1960 nghiên cứu giải đáp các vấn đề về công nhân và tư bản trong lịch sử, trong đó chú trọng nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản và sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam. Tiếp đến nghiên cứu về trí thức, nhất là trí thức cách mạng Việt Nam; nghiên cứu về lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam, trong đó có nguồn gốc dân tộc, sự hình thành dân tộc Việt Nam, sự phân kỳ lịch sử xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, nô lệ, tư bản chủ nghĩa trong lịch sử Việt Nam cùng với việc phê phán các quan điểm sai trái trong việc nhìn nhận lịch sử xã hội và con người Việt Nam. Nhiều công trình về lịch sử có giá trị được xuất bản trong thời kỳ này.

           Về văn học, tập trung nghiên cứu văn học cổ điển và văn học dân gian Việt Nam trên các lĩnh vực như tục ngữ, dân ca, thần thoại, cổ tích, văn học trào phúng. Trong văn học cổ điển, đi sâu nghiên cứu về văn thơ thời Lý - Trần (tiêu biểu như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, thơ văn Nguyễn Trãi), nghiên cứu thơ văn cách mạng từ các nhà văn thân Cần Vương, phong trào Duy Tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục đến các áng văn thơ của các chiến sĩ cách mạng vô sản đã được sưu tầm, công bố. Văn học dân gian được quan tâm nghiên cứu trên nhiều khía cạnh, kể cả nghiên cứu từng tác phẩm của văn học dân gian Việt Nam (bao gồm cả những bài văn do người Việt Nam trước kia viết bằng chữ Hán). Vì vậy nhiều công trình có giá trị được sưu tầm, chỉnh lý và công bố được nhân dân ưa chuộng. Ngoài ra, lĩnh vực văn học còn đi sâu nghiên cứu các vấn đề phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam để hình thành Bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (5 tập) được xuất bản vào thời kỳ đó.

           Về địa lý, tuy là ngành khoa học còn non trẻ, thiếu cán bộ, kể cả cán bộ đầu đàn(1) nhưng Ban Văn - Sử - Địa vẫn đặt nhiệm vụ biên soạn và xuất bản công trình Địa lý Việt Nam theo quan điểm mác xít phục vụ cho yêu cầu xây dựng miền Bắc, giảng dạy ở các trường đại học và trung học. Nhiều vấn đề khí hậu, phân vùng địa lý, tính chất bất thường của tự nhiên tác động đến sinh hoạt xã hội Việt Nam vv... được đặt ra nghiên cứu, thảo luận trong Ban và mời các cộng tác viên bên ngoài tham gia. Đồng thời, các công trình địa lý của ông cha để lại như của Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú, vv… và của nước ngoài đã được dịch và công bố để tham khảo. Do sự chuẩn bị tích cực và việc nghiên cứu nghiêm túc và khẩn trương nên công trình Sơ thảo Địa lý Việt Nam, tập I, đã ra đời đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy, phục vụ thực tiễn lúc đó.

           Ngoài hoạt động nghiên cứu, biên soạn các công trình khoa học, Ban Văn -Sử - Địa còn phục vụ yêu cầu của Trung ương Đảng và Chính phủ lúc đó trên phương diện lịch sử, văn học, địa lý. Đồng thời mở rộng dần quan hệ hợp tác nghiên cứu với một số nước bạn, chủ yếu với Trung Quốc và Liên Xô, tổ chức một số đoàn đi trao đổi, học tập kinh nghiệm của nước ngoài cũng như tiếp xúc trao đổi với các nhà khoa học, nhà quản lý tại các sứ quán ở Hà Nội.

           Nhìn chung lại, tuy là thời kỳ đầu mới thành lập, đội ngũ cán bộ còn mỏng nhưng với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức nêu trên cùng với sự nỗ lực vươn lên, Ban Văn - Sử - Địa đã có nhiều đóng góp đáng kể về mặt khoa học: 36 đầu sách được xuất bản, 48 số Tạp chí Văn - Sử - Địa với gần 300 luận văn nghiên cứu trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, địa lý của nước ta và trên thế giới đã được công bố. Điều đáng chú ý là nhiều công trình khoa học cùng với tên tuổi tác giả của nó trong thời kỳ này (1953-1959) và một số công trình của thời kỳ tiếp theo, là những công trình nghiên cứu cơ bản xuất sắc, đã được Đảng và Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (năm 1996) và đợt II (năm 2000) và Giải thưởng Nhà nước năm 2000. Những thành tựu về mặt khoa học của thời kỳ này trong thực tế đã góp phần quan trọng vào việc đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ đi đến thắng lợi, phục vụ sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, đưa cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ hình thành, bước đầu xây dựng và phát triển của cơ quan tiền thân của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày nay (1953-1959). Tại lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã khẳng định: “Thực tế đã chứng minh rằng, Ban Nghiên cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học Việt Nam là tổ chức tiền thân, đồng thời là hạt nhân của Ủy ban Khoa học xã hội sau này của nước ta”.

           2. Thời kỳ trưởng thành, phục vụ 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam (1959-1975)

           Sau ngày miền Bắc nước ta được giải phóng và chuyển sang nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh, thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh, hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phòng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đây là thời kỳ đòi hỏi đất nước ta phải phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ nói chung, KHXH&NV nói riêng. Nghị quyết BCHTW Đảng lần thứ 14 khóa II (1958) đã chỉ rõ: “Từ hòa bình lập lại, miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH… nhưng lúc đầu chúng ta chưa quán triệt nhiệm vụ cách mạng ấy trong toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng”. Vì vậy “Việc giáo dục tư tưởng XHCN làm chậm…”. Trong 7 công tác lớn mà Nghị quyết đề ra, có nhiệm vụ đẩy mạnh công tác tư tưởng và văn hóa, làm cho tư tưởng XHCN chiếm ưu thế, nâng cao dần trình độ văn hóa và kỹ thuật của nhân dân lao động. Cho nên, đồng thời với nhiệm vụ phát triển khoa học kỹ thuật, Nghị quyết trên còn nêu rõ: “Về mặt Khoa học xã hội cần chú trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu về kinh tế, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ,v.v… giúp ích thiết thực cho công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa”(1). Về mặt Nhà nước, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I (từ ngày 16 đến ngày 29/4/1958) cũng thông qua Nghị quyết về xây dựng CNXH ở miền Bắc, trong đó có việc quyết định “thành lập Ủy ban Khoa học, phụ trách nghiên cứu Khoa học xã hội và khoa học tự nhiên” (KHXH&KHTN). Đề án thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội được hoàn thành ngày 20 tháng 11 năm 1958 và sau đó được công bố rộng rãi để nhiều người thấy rõ thực trạng của nền khoa học Việt Nam lúc đó cũng như tính chất bức thiết phải xây dựng một tổ chức khoa học chung của nước ta. Ngày 4 tháng 3 năm 1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký sắc lệnh số 01/SL thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Nhiệm vụ của Ủy ban Khoa học Nhà nước lúc này là “giúp Chính phủ xây dựng và lãnh đạo công tác khoa học về mọi mặt, nhằm phục vụ sự nghiệp kiến thiết XHCN ở miền Bắc, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, phục vụ sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà và sự nghiệp hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc..”(2).

           Trong cơ cấu tổ chức của Ủy ban Khoa học Nhà nước lúc bấy giờ đứng đầu là đồng chí Trường Chinh (1959-1960), đồng chí Võ Nguyên Giáp (1961-1963), đồng chí Nguyễn Duy Trinh (1964-1965), Ban Khoa học xã hội (KHXH) do đồng chí Trần Quang Huy làm Trưởng ban(3). Ngoài đồng chí Trần Quang Huy, lãnh đạo Ban Khoa học xã hội còn có một số đồng chí khác. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban KHXH lúc này là tập trung thực hiện các vấn đề sau đây:            

           - Xây dựng tổ chức, đặt nền móng cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam sau này.

           - Tích cực tham gia nghiên cứu một số vấn đề phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.

           - Gấp rút đào tạo cán bộ cho KHXH.

           - Mở rộng quan hệ quốc tế về KHXH.

           - Giúp Ủy Ban Khoa học Nhà nước trong việc quản ký KHXH(4).

           Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, Ban KHXH đã đệ trình Chính phủ Đề án kiện toàn tổ chức và nhận được một số Quyết định của Chính phủ về việc thành lập một số Viện nghiên cứu trực thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Ngày 6/2/1960, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Viện Văn học, Viện Sử học, Viện Kinh tế, Thư viện Khoa học Trung ương và cử các đồng chí Trần Huy Liệu giữ chức Viện trưởng Viện Sử học, Bùi Công Trừng Viện trưởng Viện Kinh tế, Đặng Thai Mai Viện trưởng Viện Văn học và Ca Văn Thỉnh Giám đốc Thư viện Khoa học. Tiếp đó là hình thành một số tổ nghiên cứu như Tổ Triết học, Tổ Luật học để chuẩn bị thành lập Viện đó sau này. Các tập san khoa học cũng được đổi thành tạp chí nghiên cứu khoa học như Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế… Đây là lần đầu tiên Nhà nước phê chuẩn về việc ra đời một số Viện nghiên cứu khoa học, trong đó có Khoa học xã hội và nhân văn do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như yêu cầu của thực tiễn đất nước đòi hỏi.

           Công tác nghiên cứu khoa học của Ban Khoa học xã hội lúc này là tiếp tục triển khai các công trình trọng điểm được đặt ra từ cuối thời kỳ 1953-1959 chuyển sang trong lĩnh vực lịch sử, văn học, địa lý. Ngoài ra còn bắt đầu triển khai một số công trình trong lĩnh vực kinh tế, luật học, triết học…

           Đi đôi với sự phát triển về tổ chức, đội ngũ cán bộ khoa học và phục vụ khoa học của Ban KHXH cũng được tăng nhanh. Từ 50 cán bộ nhân viên thời kỳ Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa năm 1959, đến năm 1964 được tăng lên 100 cán bộ, trong đó có 70 cán bộ nghiên cứu, 30 cán bộ phục vụ nghiên cứu, từ một số ngành như giáo dục, trường đại học chuyển sang, một số khác từ các địa phương và ở nước ngoài về. Trong số đội ngũ cán bộ Khoa học xã hội, nhiều cán bộ đã trưởng thành. Được sự quan tâm đặc biệt của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, một số cán bộ cốt cán của Ban KHXH đã được tham gia góp phần vào việc chuẩn bị Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Ngoài việc tham gia tổ chức học tập cho giới văn nghệ sĩ và giới trí thức, góp phần chuẩn bị Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II, kịp thời viết các bài lý luận phục vụ các yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đăng trên các tạp chí sử học, văn học và các tạp chí khác, Ban KHXH lúc bấy giờ còn mở nhiều lớp đào tạo trên đại học về các lĩnh vực triết học và kinh tế chính trị học cho đội ngũ cán bộ có chuyên môn về triết học, kinh tế học, sử học, văn học trong và ngoài Ban KHXH. Hầu hết cán bộ cốt cán về nghiên cứu và giảng dạy thuộc Ban KHXH và các trường đại học đều tham gia các lớp học này, đều qua khảo sát thực tiễn và được cấp chứng chỉ công nhận trình độ tối thiểu của nghiên cứu sinh. Ngoài ra, ban KHXH còn cử cán bộ đi đào tạo ở Liên Xô và một số nước XHCN khác. Quan hệ hợp tác quốc tế của Ban KHXH ngày càng được mở rộng trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo cán bộ, bắt đầu đón tiếp các nhà khoa học của các nước XHCN vào làm việc. Lãnh đạo Ban KHXH cũng như một số cán bộ của các Viện nghiên cứu về KHXH bắt đầu được cử đi trao đổi, nghiên cứu và làm việc ở các nước XHCN(1).

           Trong khoảng 6 năm (1959-1965), Ban KHXH thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước đã tiếp tục được sự nghiệp phát triển các ngành KHXH&NV kể từ khi Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa đặt nền móng. Đây thực sự là một bước chuẩn bị quan trọng cho việc ra đời một cơ quan Khoa học xã hội độc lập (xứng đáng với một lĩnh vực khoa học quan trọng của đất nước). Đó là việc thành lập Viện Khoa học xã hội, rồi Ủy Ban Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Khoa học xã hội Việt Nam sau này, và nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

           Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta ngày càng quyết liệt. Cả nước đều “Vì miền Nam ruột thịt”, vì Tổ quốc quyết hi sinh để bảo vệ nền tự do và độc lập của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, những tư tưởng xét lại đã nảy sinh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đòi hỏi các ngành KHXH nước ta, đặc biệt là triết học, kinh tế, chính trị học, luật học…phải trực tiếp tham gia nghiên cứu, đề xuất ý kiến. Do yêu cầu phát triển của đất nước cũng như yêu cầu phát triển của các ngành khoa học nói chung, Khoa học xã hội và nhân văn nói riêng, ngày 11/10/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên thường lệ dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh có sự tham gia của các vị đại diện của Hội đồng Chính phủ, của Toàn án Nhân dân Tối cao và của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao trao đổi về mặt tổ chức các ngành khoa học. Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước ta đã quyết định tách Ủy ban Khoa học Nhà nước thành 2 cơ quan độc lập: Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học xã hội (Quyết định số 165/TVQH ngày 11/10/1965 của Quốc hội)(2).

           Đội ngũ cán bộ của Viện Khoa học xã hội lúc này được bổ sung nhanh bằng lực lượng sinh viên đã tốt nghiệp đại học thuộc các khóa đào tạo từ năm 1960 đến năm 1965 về KHXH, trong đó có một số được đào tạo ở Liên Xô về nước. Các tổ chức nghiên cứu của Viện KHXH cũng được mở rộng dần phạm vi nghiên cứu. Ngoài các Viện đã được thành lập từ trước như Viện Văn học (1960), Viện Sử học (1960), Viện Kinh tế (1960), Viện Triết học (1962) còn được bổ sung thêm các tổ nghiên cứu như Tổ Ngôn ngữ học, Tổ Luật học, Tổ Từ điển Bách khoa, Tổ Dân tộc học,  Đội Khảo cổ học. Cán bộ khoa học và phục vụ cho khoa học được tăng lên gấp 4 lần. Nếu như năm 1959, Ban KHXH thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước chỉ có 100 cán bộ, thì năm 1965 khi thành lập Viện Khoa học xã hội đã có 345 cán bộ khoa học (bao gồm 47 cán bộ lãnh đạo quản lý, 298 cán bộ nghiên cứu). Ngoài ra còn có 83 cán bộ nhân viên phục vụ khoa học đưa tổng số cán bộ, nhân viên của Viện KHXH đạt tới 428 người.

           Các tạp chí thuộc các Viện nghiên cứu về Khoa học xã hội và nhân văn lúc bấy giờ được thành lập gồm có Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và một số tờ thông báo khoa học của một số Viện khác. Một số Viện nghiên cứu về KHXH&NV như Viện Kinh tế, Viện Triết học được chú trọng đầu tư phát triển cả về cơ sở vật chất cũng như nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của đất nước. Đồng thời xúc tiến mọi điều kiện để xây dựng Viện Luật học, tích cực chuẩn bị để sớm đưa các tổ nghiên cứu như nói ở trên trở thành Viện nghiên cứu khoa học.

           Theo Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của các ngành KHXH&NV nước ta lúc bấy giờ được xác định là: “Dưới ánh sáng của tư tưởng Mác-Lênin, tổng kết những kinh nghiệm về đấu tranh xã hội của nhân dân ra, dân tộc ta, từ đó rút ra những kết luận, những nguyên lý có tính chất cơ bản để góp phần vào việc bổ sung, xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về các mặt hoạt động, đặng thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên mạnh mẽ hơn nữa”(1). Rõ ràng là, chức năng, nhiệm vụ của KHXH&NV trong giai đoạn này không chỉ thuyết minh đường lối, mà đã góp phần vào việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trên thực tế, Viện Khoa học xã hội, tuy mới chỉ hình thành chưa đầy 2 năm, nhưng đã có nhiều đóng góp về mặt khoa học đối với sự nghiệp xây dựng miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Một số công trình khoa học đã được xuất bản và hàng loạt bài báo đăng tải trên các Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và các Thông báo khoa học về Triết học, Luật học… đã góp phần thuyết minh, lý giải, làm sáng tỏ các chủ trương, đường lối, các chính sách lớn của Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong giai đoạn các mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

           Trước những đòi hỏi bức xúc của sự phát triển cũng như quản lý phát triển của KHXH&NV ở nước ta, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Quyết định số 47/TVQH ngày 19/6/1967 về việc chuyển Viện Khoa học xã hội Việt Nam thành Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Ủy ban KHXH Việt Nam). Đây không phải là sự chuyển tên đơn thuần mà chính là sự tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của ngành KHXH&NV nước ta đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Ngày 31/7/1967, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 117/CP quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban KHXH Việt Nam là: “Trung tâm nghiên cứu và quản lý việc nghiên cứu của Khoa học xã hội nước ta. Nhiệm vụ chung của nó là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu những vấn đề Khoa học xã hội nhằm góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta ..”, “là Trung tâm tập hợp cán bộ nghiên cứu Khoa học xã hội của cả nước, là một chỗ dựa của Trung ương Đảng và Chính phủ về mặt nghiên cứu lý luận chính trị, là một chỗ dựa của các cơ quan giảng dạy và truyền bá Khoa học xã hội”(1).

           Cơ cấu tổ chức của Ủy ban KHXH Việt Nam lúc mới thành lập gồm có: Viện Triết học, Viện Kinh tế, Viện Sử học, Viện Văn học, Viện Luật học, Thư viện Khoa học xã hội, Văn phòng, Vụ Tổ chức cán bộ và một số đơn vị sự nghiệp do Ủy ban quản lý. Nhưng chưa đầy 1 năm sau, sự phát triển về mặt tổ chức của Ủy ban KHXH Việt Nam đã có bước phát triển mới, nhất là về các tổ chức nghiên cứu khoa học. Ngày 16/5/1968, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP, một số Viện nghiên cứu mới thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam đã được thành lập. Đó là các Viện Ngôn ngữ học, Viện Dân tộc học, Viện Khảo cổ học. Riêng Nhà xuất bản Khoa học xã hội, việc chuẩn bị tách khỏi Nhà xuất bản Khoa học đã được tiến hành từ năm 1965 nhưng cho đến năm 1967 mới có quyết định (số 01-VH/QĐ ngày 16/1/1967 do Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hoàng Minh Giám ký) thành lập với nhiệm vụ “Xuất bản các công trình nghiên cứu về Khoa học xã hội, đặc biệt chú ý các công trình nghiên cứu về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, …xuất bản các sách công cụ tra cứu (các loại từ điển,…), xuất bản những công trình phổ cập kiến thức Khoa học xã hội”.

           Ủy ban KHXH Việt Nam lúc này do đồng chí Nguyễn Khánh Toàn là Chủ nhiệm, các đồng chí Trần Huy Liệu, Trần Phương là Phó Chủ nhiệm Ủy ban. Mặc dù đã có một bước tiến quan trọng về mặt tổ chức nêu trên, nhưng lãnh đạo của Ủy ban KHXH Việt Nam vẫn coi trọng việc tăng cường và củng cố về mặt tổ chức nghiên cứu khoa học, nhất là về đội ngũ cán bộ chủ chốt, không ngừng đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và công tác quản lý. Năm 1970, Ban Hán Nôm thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam được Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam ký quyết định thành lập để quản lý công tác sưu tầm, nghiên cứu, bảo quản và khai thác các di sản văn hóa Hán Nôm quý giá của ông cha ta để lại. Năm 1973, một số lĩnh vực khác của Ủy ban KHXH Việt Nam cũng đã được Chủ nhiệm ra quyết định thành lập mới như Ban Thông tin KHXH, Ban Đông Nam Á, Ban Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ.

           Cùng với những chuyển biến mới về tổ chức, phương hướng và phương pháp nghiên cứu của Ủy ban KHXH Việt Nam cũng có những khởi sắc mới. Để khắc phục tình trạng nghiên cứu chưa tập trung và sát với yêu cầu thực tiễn của đất nước, Ủy ban KHXH Việt Nam đã thực hiện yêu cầu nghiên cứu Khoa học xã hội phải tập trung vào những đề tài thiết thực phục vụ 3 cuộc cách mạng ở miền Bắc - mà chủ yếu là cuộc đấu tranh tư tưởng và văn hóa và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam (1). Với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai để đáp ứng yêu cầu của đồng bào miền Nam ruột thịt” như Bác Hồ đã kêu gọi, Ủy ban KHXH Việt Nam đã đề ra phương châm hành động “thiết thực, tập trung và dứt điểm”. Để thực hiện phương châm này, ngoài việc thực hiện kế hoạch chuyên môn của từng lĩnh vực, nhiệm vụ trọng tâm của Ủy ban, là phải biên soạn xong các công trình cấp Nhà nước đã đặt ra từ thời kỳ trước. Đó là Bộ Lịch sử Việt Nam; Bộ Lịch sử Văn học Việt Nam; Bộ Từ điển tiếng Việt; Công trình Ngữ pháp tiếng Việt. Đồng thời, tuy chưa có một tổ chức nghiên cứu địa lý, nhưng do đòi hỏi bức bách của thực tiễn, Nhà nước vẫn giao cho Ủy ban KHXH Việt Nam biên soạn sớm để công bố công trình Địa lý Việt Nam. Công việc này được bắt đầu từ năm 1969 và xúc tiến mạnh vào những năm sau đó.

           Để tăng cường tính chủ động đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước cũng như sự nghiệp khoa học, Ủy ban KHXH Việt Nam đã trình lên Trung ương và Chính phủ 10 đề nghị(2) nhằm cải tiến sự lãnh đạo khoa học, tăng cường đào tạo và bố trí cán bộ cho khoa học xã hội. Đó là:

           - Trao việc phê bình văn học cho Đảng đoàn Văn hóa, văn nghệ.

           - Trao việc cấp giấy phép khai quật khảo cổ (trước kia là cho Bộ Văn hóa) cho Viện Khoa học xã hội Việt Nam (như ở Liên Xô trao cho Viện Hàn lâm).

           - Các Bảo tàng lịch sử, Bảo tàng Dân tộc, Khảo cổ… nên đặt bên các Viện nghiên cứu của các ngành này.

           - Cho thi hành cải tiến chữ quốc ngữ.

           - Trang bị cho Phòng Ngữ âm thực nghiệm ở Viện Ngôn ngữ.

           - Nhà nước có chế độ bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ khoa học xã hội.

           - Lập 3 khoa: Kinh tế Chính trị học, Triết học, Luật học ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, có các Viện tương ứng của Ủy ban KHXH Việt Nam tham gia.

           - Khi phân phối sinh viên đại học các ngành Khoa học xã hội ra trường, cần ưu tiên cho các Viện nghiên cứu những sinh viên giỏi.

           - Cử các Viện phó phụ trách hành chính cho các Viện nghiên cứu.

           - Bổ sung các thành viên cho Ủy ban KHXH Việt Nam.

           Các đề nghị trên thể hiện tính năng động và tinh thần trách nhiệm của Ủy ban KHXH Việt Nam trước nhiệm vụ mới. Những đề nghị này về cơ bản đã được chấp nhận và thực hiện trong những năm tiếp theo.

           Cuối năm 1969, để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm 1971-1975, Ủy ban KHXH Việt Nam đã xây dựng Dự thảo phương hướng nghiên cứu khoa học xã hội, đồng thời trình lên Trung ương dự án kế hoạch 5 năm nói trên. Dự thảo khẳng định: “Khoa học xã hội thực chất là khoa học chính trị, cho nên phương hướng đúng đắn của khoa học xã hội Việt Nam là phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, từ đường lối của cách mạng Việt Nam mà đặt mục tiêu nghiên cứu để phục vụ cách mạng Việt Nam” (trích Dự thảo). Đồng thời Dự thảo nêu rõ 2 phương hướng chính là:

           - Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và xây dựng con người mới - con người XHCN và cộng sản chủ nghĩa.

           - Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

           Dự thảo còn xác định cần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu rõ “cả ngành khoa học xã hội làm công tác nghiên cứu lý luận phục vụ cách mạng Việt Nam, tựu trung là để vận dung đúng đắn lý luận Mác-Lênin vào thực tế Việt Nam, góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho đường lối cách mạng của Đảng và phát triển lý luận Mác-Lênin vào thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã vận dụng lý luận ấy một cách thiên tài, sáng tạo trong đường lối cách mạng Việt Nam và trong thực hiện đường lối ấy. Vì vậy chúng ta phải khai thác triệt để di sản của Người về các mặt: Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng; Hồ Chí Minh là nhà hoạt động cách mạng; Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho đạo đức cách mạng”.

           Phương hướng nghiên cứu khoa học xã hội tiếp tục đề cập đến phương châm, phương pháp triển khai thực hiện “thiết thực, tập trung và dứt điểm” trong thời gian tới như nói ở trên. Đồng thời đề cao yêu cầu sáng tạo trong vận dụng lý luận Mác-Lênin. Dự thảo nêu rõ “Tuy lý luận Mác-Lênin vẫn là cái gốc những khi vận dụng nó thì bao giờ cũng phải căn cứ vào điều kiện của ta về mọi mặt, nghĩa là những khả năng hiện có và những đòi hỏi cấp thiết của đất nước ta, nhân dân ta”; “ta xây dựng con người XHCN Việt Nam phải là con người phát triển toàn diện, những có sắc thái Việt Nam, có tính dân tộc, nghĩa là đức và trí phải phù hợp với những đòi hỏi của đất nước, hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam”.

           Những quan điểm đúng đắn về học thuật trên đây được quán triệt trong xây dựng kế hoạch nghiên cứu giai đoạn 1971-1975. Kế hoạch này còn được bổ sung trên tinh thần của Nghị quyết Trung ương lần thứ 19, khóa III (tháng 2/1971) là: “Nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn quân, toàn dân ta lúc này… và nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa phải nhằm bảo đảm yêu cầu của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, từng bước xây dựng cơ cấu sản xuất lớn XHCN, chuẩn bị cho sự phát triển kinh tế sau này” (trích Nghị quyết). Nghị quyết cũng cho thấy triển vọng thắng lợi của công cuộc giải phóng miền Nam mặc dù khó khăn gian khổ còn nhiều. Vì vậy, kế hoạch nghiên cứu 1971-1975 của Ủy ban KHXH Việt Nam lúc này đã dự kiến 2 khả năng:

           - Hoặc là chiến tranh còn rất ác liệt và kéo dài thì vẫn là tiếp tục các công tác lớn như cũ.

           - Hoặc là tình hình chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi thì phải có kế hoạch bổ sung. Song bất kỳ như thế nào, đều phải có đề tài nghiên cứu về miền Nam và những công trình chuẩn bị cho miền Nam. Cần phải sớm chuẩn bị cho miền Nam khi có chính phủ Liên hiệp và cả sau này(1). Công tác đào tạo cán bộ cũng phải sát sao và khẩn trưởng, phải đi trước một bước. Đề nghị của Ủy ban KHXH Việt Nam về việc mở thêm các khoa Kinh tế, Triết học, Luật học và Hán Nôm tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã được thực hiện nhằm để bổ sung cán bộ khoa học xã hội không chỉ cho hiện tại mà còn để cho miền Nam sắp tới.

           Tháng 2/1971, trong khi xây dựng kế hoạch nghiên cứu, Ủy ban KHXH Việt Nam tiếp nhận được ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua bài phát biểu nhân kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng và bài của đồng chí Tố Hữu - Ủy viên Bộ Chính trị (phụ trách công tác tư tưởng lý luận và khoa học xã hội) nhân đợt kết nạp đảng viên Khóa Hồ Chí Minh, đã bổ sung, hoàn chỉnh chương trình nghiên cứu 1971-1975 với quan điểm, phương hướng nhiệm vụ là: “Các khoa học xã hội phải xuất phát đầy đủ từ toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta hiện nay mà nghiên cứu về mặt lý luận trong việc xây dựng đường lối cách mạng của Đảng và trong việc xây dựng con người mới, với 3 nhiệm vụ cụ thể là:

           - Nghiên cứu nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống lại những quan điểm sai lầm như xét lại hiện đại cũng như giáo điều, biệt phái và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhằm phát hiện ra những cơ sở khoa học cho việc xây dựng đường lối chủ chương của Đảng và Nhà nước. Sau khi Trung ương và Chính phủ đã ra quyết định thì nghiên cứu trình bày làm sáng tỏ cơ sở khoa học của đường lối, chủ trương để mọi người nắm vững mà vận dụng cho đúng.

           - Dưới ánh sáng đường lối chủ trương của Đảng, tiến hành tổng kết các mặt đấu tranh xã hội của nhân dân ra trước đây và ngày này, khai thác một cách có hệ thống toàn bộ giá trị văn hóa và tinh thần của ông cha để lại, nhằm kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp vào sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng con người mới thấm nhuần bản sắc văn hóa và tâm hồn Việt Nam.

           - Nghiên cứu tình hình kinh tế và văn hóa của một số nước trên thế giới, trước hết là các nước XHCN anh em và các nước tư bản đế quốc có quan hệ trực tiếp đến nước ta để tiếp thu một cách sáng tạo những thành tựu khoa học mới nhất của loài người tiến bộ và để ngăn ngừa, chống lại, quét sạch những ảnh hưởng của những tư tưởng phản động và văn hóa nô dịch, đồi bại” (1) .

           Ba nhiệm vụ có tính chất chiến lược nêu trên đã thể hiện tính đúng đắn, khách quan, đồng thời thể hiện sự sáng tạo trong nghiên cứu KHXH&NV. Chẳng hạn nhiệm vụ thứ nhất không chỉ đòi hỏi khoa học xã hội phải thuyết minh các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, mà trước khi hình thành chủ trương, đường lối phải có nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc định ra các chủ trương, đường lối đó. Còn nhiệm vụ thứ ba, không chỉ nghiên cứu kinh tế, văn hóa của các nước XHCN mà còn phải nghiên cứu các nước tư bản đế quốc có quan hệ trực tiếp đối với nước ta, cũng không chỉ ngăn ngừa, chống lại những ảnh hưởng của tư tưởng phản động và văn hóa nô dịch, mà còn để tiếp thu có chọn lọc một cách sáng tạo những thành tựu khoa học mới nhất của loài người tiến bộ.

           Cũng chính nhờ những quan điểm, phương hướng nghiên cứu trên đây mà giai đoạn 1971-1975, Ủy ban KHXH Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học phong phú và đa dạng, không chỉ trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, địa lý, như trước đây, mà còn cả trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quan hệ quốc tế. Một số công trình biên soạn và công bố trong thời kỳ này cũng được Đảng và Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I và đợt II và Giải thưởng Nhà nước năm 1996 và năm 2000.

            3. Thời kỳ thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên CNXH (1975-1985)

           Cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc chiến đấu lâu dài gian khổ và anh dũng của nhân dân ta, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

           Sau khi giải phóng miền Nam, theo yêu cầu của Trung ương Đảng, Ủy ban KHXH Việt Nam đã cử một đoàn cán bộ khoa học cốt cán thuộc các lĩnh vực KHXH&NV vào miền Nam góp phần cùng các ngành tuyên huấn, văn hóa, giáo dục của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp quản các cơ quan khoa học, giáo dục, trường đại học về KHXH ở miền Nam. Trong thời gian từ 18/5 đến 23/7/1975 đoàn cán bộ của Ủy ban làm việc với các cơ quan quản lý, tiếp xúc với các trí thức ở miền Nam vừa được giải phóng thuộc các Thành phố Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế. Sau chuyến công tác, đoàn đã trình lên Trung ương Đảng Báo cáo về thực trạng và giải pháp tiếp thu, củng cố và phát triển ngành KHXH&NV ở miền Nam. Cũng trong thời gian này, Ủy ban KHXH Việt Nam xây dựng Tờ trình gửi lên Trung ương Đảng với chủ đề: Vị trí và trách nhiệm của KHXH đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đi đôi với Tờ trình, Ủy ban còn chuẩn bị một bản gợi ý về xây dựng Dự thảo Đề cương Văn hóa cho miền Nam của Trung ương Đảng, trong đó nhấn mạnh truyền thống vốn có của các phong trào đô thị miền Nam, “phát huy tinh thần độc lập, lòng mong muốn hòa bình và ý thức bảo vệ danh dự dân tộc, bảo vệ phẩm giá con người”, “nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc sâu sắc và ý thức làm chủ”. Bản gợi ý cũng nhấn mạnh “tránh các bệnh đố kỵ, hẹp hòi, cô độc”, đồng thời “tránh hữu khuynh” trong việc tiếp thu, bồi dưỡng, sử dụng trí thức miền Nam. “Cần làm cho trí thức miền Nam hiểu biết cái vốn văn hóa to lớn của dân tộc, mà nhiệm vụ đó các ngành Lịch sử, Văn học, Triết học, Ngôn ngữ học, Khảo cổ học, Luật học, Dân tộc học đều có thể đóng góp”. Các bản báo cáo, gợi ý cũng như Tờ trình của Ủy ban KHXH Việt Nam nêu trên đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị báo cáo Chính trị và các Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng.

           Cũng sau ngày đất nước được thống nhất, Trung ương cục miền Nam đã có Quyết định số 13/QĐ/75 ngày 12/9/1975 về việc thành lập Viện Khoa học xã hội Việt Nam tại B2 (miền Nam) trên cơ sở sắp xếp lại các tổ chức nghiên cứu khoa học hiện có tại miền Nam. Nhiệm vụ chính của Viện lúc này là phổ biến rộng rãi những quan điểm Mác-Lênin về KHXH, đấu tranh chống những quan điểm sai lầm và phản động trên lĩnh vực này. Tổ chức nghiên cứu một số vấn đề KHXH có khía cạnh địa phương trong khuôn khổ chung của toàn quốc; tập hợp, sử dụng và bồi dưỡng những người làm công tác KHXH hiện có ở vùng mới giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi cho anh chị em có thể cống hiến tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước; góp phần đào tạo cán bộ KHXH mới ở miền Nam. Trong 2 năm hoạt động (1976-1977), Viện KHXH miền Nam vừa được xây dựng tổ chức vừa thực hiện nghiên cứu một số vấn đề cấp thiết đạt kết quả tốt. Đến năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 95/CP ngày 27/4/1978 chuyển Viện Khoa học xã hội miền Nam thành Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam. Chức năng mới của Viện là “Tổ chức nghiên cứu những chuyên đề có tính chất địa phương, góp phần vào công tác nghiên cứu KHXH cả nước và trực tiếp phục vụ sự nghiệp cải tạo XHCN và xây dựng CNXH ở các tỉnh phía Nam”(1). Từ những năm 1978, hoạt động khoa học của Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy tác dụng rõ rệt, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của khoa học xã hội và nhân văn nước ta; đồng thời cũng thể hiện là một Viện nghiên cứu mang tính chất tổng hợp, đa ngành, với chức năng nghiên cứu các vấn đề KHXH&NV có khía cạnh địa phương đặt trong khuôn khổ chung của cả nước. Bởi vậy, cơ cấu tổ chức của Viện có gần đủ các bộ phận nghiên cứu gần như tương ứng với các Viện nghiên cứu của Ủy ban KHXH Việt Nam thời kỳ đó. Điều này cũng đánh dấu một bước tiến mới về mặt tổ chức khoa học của Ủy ban KHXH Việt Nam lúc đó nhằm bổ sung cho hệ thống các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành còn thiếu về mặt tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn theo vùng lãnh thổ.

           Cũng trong năm 1975, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 93/CP ngày 8/5/1975 về việc thành lập Viện Thông tin Khoa học xã hội trên cơ sở thống nhất Thư viện Khoa học xã hội với Ban Thông tin Khoa học xã hội của Ủy ban KHXH Việt Nam.

           Lãnh đạo Ủy ban KHXH Việt Nam thời gian này cũng có những thay đổi: Năm 1976, đồng chí Trần Phương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban được Trung ương Đảng điều động đi công tác khác. Đồng chí Phạm Huy Thông được Nhà nước bổ nhiệm là Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam. Năm 1977, để tăng cường cán bộ lãnh đạo cấp Ủy ban, Nhà nước đã bổ nhiệm các đồng chí Vũ Khiêu, Phạm Như Cương và Đào Văn Tập làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam. Đây là thời kỳ đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Ủy ban đông đảo nhất, ngoài chủ nhiệm Nguyễn Khánh Toàn còn có 4 Phó Chủ nhiệm Ủy ban (Phạm Huy Thông, Vũ Khiêu, Phạm Như Cương và Đào Văn Tập).

           Về mặt tổ chức, sau Đại hội IV của Đảng, Ủy ban KHXH Việt Nam cũng có bước phát triển mới. Năm 1977, Ban Xã hội học và Ban Địa lý kinh tế được Chủ nhiệm Ủy ban ra Quyết định thành lập và đi vào hoạt động. Năm 1979, Chính phủ đã ký Quyết định số 326/CP ngày 13/9/1979 thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm trên cơ sở Ban Hán Nôm được thành lập từ trước. Và để đảm nhận nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ khoa học, Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam đã ký Quyết định tách Ban Kiến thiết cơ bản ra khỏi Văn phòng Ủy ban thành một đơn vị độc lập.

           Năm 1980, Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam ra quyết định thành lập Ban thư ký khoa học, Ban Hợp tác Quốc tế, Ban Thanh tra và Ban Văn hóa Dân gian nhằm giúp Chủ nhiệm Ủy ban trong công tác quản lý khoa học, công tác thanh tra, mở rộng phạm vi nghiên cứu trong nước và quan hệ hợp tác quốc tế.

           Năm 1981, Ban Trung Quốc học, Ban Kinh tế Thế giới, Ban Từ điển Bách khoa, Phòng Bảo vệ của Ủy ban KHXH Việt Nam được thành lập nhằm mở rộng các chuyên ngành khoa học không chỉ trong nước mà đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.

           Từ năm 1980 đất nước ta cũng như nhiều nước XHCN khác lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng. Trong kế hoạch công tác 5 năm 1981-1985, Ủy ban KHXH Việt Nam đã nhận thấy cần phải tăng cường các hoạt động của KHXH&NV để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng. Một mặt, Ủy ban KHXH Việt Nam đã đề cao tinh thần trách nhiệm về nhiều mặt nghiên cứu, làm rõ những căn cứ khoa học cho việc hoạch định các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác cũng kiến nghị với Đảng và Nhà nước cho phép cán bộ KHXH trong quá trình nghiên cứu được phát huy tự do tư tưởng có tổ chức để đề ra những giải pháp góp phần giải quyết các yêu cầu cấp bách của thực tiễn. Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Chính phủ đã chủ động gặp gỡ, giao nhiệm vụ cho Ủy ban KHXH Việt Nam, một số cán bộ chủ chốt của Ủy ban được góp phần tham gia khắc phục một số vấn đề khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước.

           Năm 1982, đồng chí Đào Văn Tập được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Năm 1985, đồng chí Phạm Như Cương được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam thay đồng chí Đào Văn Tập.

           Nhìn lại hơn 20 năm hoạt động, rà soát lại chức năng, nhiệm vụ được giao, Ủy ban KHXH Việt Nam đã cụ thể hóa thành 5 nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn phát triển mới như sau:

           a) Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phương pháp luận của ngành KHXH, giảng dậy, truyền bá, góp phần làm cho hệ tư tưởng Mác-Lênin chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội nước ta.

           b) Phát huy những truyền thống và giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc góp phần tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và xây dựng CNXH ở nước ta, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác-Lênin.

           c) Góp phần giải quyết những vấn đề do thực tiễn cách mạng nước đặt ra.

           d) Đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ trên đại học.

           e) Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trước hết là với Liên Xô và các nước XHCN khác(1).

           Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, Ủy ban KHXH Việt Nam đã quyết định phương châm kế hoạch hóa đi đôi với quy chế hóa các hoạt động khoa học. Trong công tác chỉ đạo, đã tiến hành duyệt các đề tài đưa vào chỉ tiêu pháp lệnh, thực hiện quản lý khoa học theo quy trình nghiên cứu, xây dựng đơn giá cho các hoạt động khoa học, khuyến khích lao động sáng tạo theo tinh thần “lấy chất xám nuôi chất xám” mà Đại hội Đảng bộ Ủy ban KHXH Việt Nam đã đề ra. Một số quy chế quản lý được hình thành như quy chế Hội nghị khoa học, quy chế điều tra thực tiễn, quy chế hợp tác với nước ngoài, ngoài ra còn có quy chế thi đua khen thưởng, ký kết hợp đồng trong các hoạt động khoa học bắt đầu được thực hiện.

          Về mặt tổ chức, đây là thời kỳ đáng chú ý trong lịch sử phát triển của Ủy ban KHXH Việt Nam. Năm 1983, để đánh dấu một bước trưởng thành mới và để khẳng định sự cần thiết phải phát triển và mở rộng phạm vi nghiên cứu khoa học, Chính phủ đã cho phép Ủy ban KHXH Việt Nam xây dựng Đề án nâng các Ban nghiên cứu khoa học hiện có của Ủy ban thành các Viện nghiên cứu khoa học. Ngày 9/9/1983, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 96/HĐBT thành lập 4 Viện nghiên cứu và 1 Vụ quản lý trực thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam. Đó là Viện Xã hội học, Viện Kinh tế Thế giới, Viện Văn hóa Dân gian, Viện Đông Nam Á và Vụ Kế hoạch - Tổng hợp. Ngày 10/10/1983, Chính phủ lại ban hành Quyết định số 11/HĐBT thành lập thêm 2 Viện nghiên cứu và 1 Vụ quản lý: Viện Châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở Ban Trung Quốc học, Viện Từ điển Bách Khoa và Vụ Hợp tác Quốc tế.

          Để giới thiệu kết quả nghiên cứu về KHXH&NV của nước ta đối với các tổ chức nghiên cứu khoa học của các nước trong khu vực và trên thế giới, Ủy ban KHXH Việt Nam đã lập Đề án thành lập cơ quan ngôn luận chung và tháng 11 năm 1983, Tạp chí Việt Nam - Khoa học xã hội bằng 3 thứ tiếng: Nga, Anh. Pháp (trên thực tế chỉ 2 thứ tiếng Anh và Pháp). Cùng với sự ra đời của Tạp chí Việt Nam - Khoa học xã hội, Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam cũng ra Quyết định thành lập Nhà in Khoa học xã hội.

          Tính đến năm 1983, Ủy ban KHXH Việt Nam đã có 16 Viện nghiên cứu khoa học đã được hình thành, đánh dấu một bước phát triển khởi sắc về mặt tổ chức hệ thống các Viện khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta. Về nghiên cứu các vấn đề KHXH&NV ở trong nước đã có các viện: Viện Triết học, Viện Kinh tế, Viện Luật học, Viện Xã hội học, Viện Sử học, Viện Văn học, Viện Ngôn ngữ học, Viện Dân tộc học,Viện Khảo cổ học, Viện Văn hóa Dân gian, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Từ điển Bách khoa, Viện Khoa học xã hội tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Về nghiên cứu các vấn đề quốc tế và khu vực có các viện: Viện Kinh tế Thế giới, Viện Đông Nam Á, Viện Châu Á - Thái Bình Dương.

          Đi đôi với vấn đề tổ chức là công tác cán bộ cũng được tăng cường. Qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển kể từ ngày Viện Khoa học xã hội được thành lập, đội ngũ cán bộ được tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 1959 mới có 100 cán bộ, thì năm 1977 là 737 cán bộ, năm 1980 là 979 cán bộ, năm 1982 tăng lên tới 1.112 cán bộ, trong đó cán bộ nghiên cứu 819 người (bao gồm 16 cán bộ lãnh đạo, quản lý), cán bộ phục vụ nghiên cứu 306 người (bao gồm 159 cán bộ thông tin - tư liệu - thư viện, 124 cán bộ tổ chức, hành chính; 23 cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật).

          Căn cứ vào thực trạng về tổ chức và cán bộ, về những kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong hơn 20 năm hoạt động, Ủy ban KHXH Việt Nam đã xây dựng Tờ trình kiến nghị với Trung ương Đảng và Chính phủ, trong đó thể hiện những quan điểm lý luận, quan điểm xây dựng và phát triển tổ chức khoa học như sau:

          - Khẳng định vai trò quan trọng của KHXH, tạo điều kiện cho việc phát triển và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ Khoa học xã hội trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng CNXH.

           - Quy định rõ mối quan hệ giữa các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy về KHXH và lập Ủy ban hay Hội đồng Trung ương để điều hòa phối hợp hoạt động giữa các cơ quan đó.

           - Sử dụng cả bộ máy và tập thể cán bộ của Ủy ban KHXH Việt Nam vào việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từng thời gian có nghe báo cáo, nhận xét và chỉ đạo thực hiện.

           - Cho phép tăng cường biên chế và phát triển tổ chức để có thể đảm nhận những nhiệm vụ được giao.

           - Về chính sách cán bộ: đề nghị sử dụng những cán bộ khoa học xuất sắc như là cố vấn có trách nhiệm trong các Bộ chuyên môn, các Ban của Đảng và các địa phương, đồng thời bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ.

           - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo cán bộ trong nước (bảo vệ luận án phó tiến sĩ theo chế độ đặc biệt) và gửi cán bộ ra nước ngoài học tập.

           - Xác định chủ trương cụ thể hợp tác với các nước tư bản phương Tây, các nước trong khu vực Đông Nam Á(1).

           Nhìn rõ xuất phát điểm và thực trạng của Viện KHXH Việt Nam, Ủy ban KHXH Việt Nam đã chủ động đặt ra phương hướng chiến lược dài hạn từ năm 1983 đến năm 1990 và chủ động đề ra kế hoạch đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ Đại hội lần thứ V của Đảng.

           Việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ V được tiến hành từ trước khi công bố đề cương báo cáo chính trị. Trên cơ sở chức năng nghiên cứu của mình, Ủy ban KHXH Việt Nam đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị Quyết Đại hội IV, các Nghị quyết Trung ương khóa IV (kể cả các Nghị quyết của Bộ Chính trị) và tổng kết tình hình thực tế về các mặt kinh tế - xã hội trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội (1976-1980), từ đó nêu lên nhưng thành tựu đạt được, những bài học kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị và biện pháp khắc phục trình lên Tiểu ban chuẩn bị Văn kiện Đại hội.

Hệ thống đề tài nghiên cứu chuẩn bị cho những kiến nghị trình lên Tiểu ban Văn kiện Đại hội V gồm 16 đề tài về những vấn đề kinh tế - xã hội, như vấn đề phân kỳ và bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ ở nước ta, vấn đề cách mạng quan hệ sản xuất, vấn đề cơ cấu kinh tế, quản lý kinh tế, về con người mới, về nhà nước và pháp luật, vấn đề xã hội Việt Nam trong truyền thống và hiện đại…

           Đi đôi với việc tập trung lực lượng chuẩn bị phục vụ Đại hội V, công tác nghiên cứu của các Viện thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam trong 3 năm: 1981 đến 1983 cũng tập trung nghiên cứu 15 đề tài, làm rõ những vấn đề cơ bản về lịch sử, văn hóa và văn minh Việt Nam qua các thời kỳ, góp phần làm cơ sở cho việc giảng dạy, truyền bá, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho cán bộ, nhân dân ta.

           Năm 1983, để rút kinh nghiệm đưa khoa học phục vụ cho việc chuẩn bị Đại hội V của Đảng, Ủy ban KHXH Việt Nam đã xây dựng kế hoạch dài hạn 1983-1990, nhằm trước mắt phục vụ Đại hội VI của Đảng và sau đó chuẩn bị xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990 một cách hiệu quả. Có thể nói, đây là lần đầu tiên, Ủy ban KHXH Việt Nam đã xác định phương hướng nghiên cứu dài hạn 1983-1990 bao gồm 5 lĩnh vực nghiên cứu lớn với 13 đề tài trọng điểm:

           + Về thời kỳ quá độ được xác định 2 đề tài lớn: Đặc điểm xã hội Việt Nam trước thời kỳ quá độ và đề tài Những vấn đề lý luận của thời kỳ quá độ ở Việt Nam.

           + Về những vấn đề lịch sử và văn hóa Việt Nam được xác định 3 đề tài lớn: Những công trình thông sử Việt Nam; Các lịch sử chuyên ngành và Các lịch sử địa phương.

           + Về những vấn đề tình hình quốc tế và đường lối đối ngoại của Đảng được xác định 3 đề tài lớn: tình hình và triển vọng các hệ thống thế giới và khu vực; Cục diện thế giới, ba dòng thác cách mạng, cơ sở chiến lược của cách mạng thế giới; Những cơ sở khoa học của đường lối đối ngoại của Đảng ta.

           + Về vấn đề đấu tranh trên mặt trận tư tưởng được xác định 2 đề tài lớn: Đấu tranh tư tưởng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam và tuyên truyền phổ biến về chủ nghĩa Mác - Lênin

           + Về điều tra cơ bản và dự báo xã hội được xác định 2 đề tài lớn: điều tra cơ bản về tình hình kinh tế chính trị, văn hóa xã hội tại một số vùng trọng điểm (Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long; Hà Nội và Đồng bằng sông Hồng; Tây nguyên và một số vùng miền núi); Dự báo về tình hình kinh tế - xã hội của thế giới và Việt Nam đến năm 2000.

           Trên cơ sở định hướng nghiên cứu nêu trên, Ủy ban KHXH Việt Nam còn xác định các đề tài trọng tâm từ năm 1983 đến năm 1985 gồm 7 đề tài và nhiệm vụ. Ngoài ra còn xác định 58 đề tài chủ yếu của các khối Viện cho giai đoạn 1983-1985 (khối Kinh tế, khối Triết học, khối Sử học, khối Văn học, khối Nghiên cứu Thế giới).

           Cuối năm 1985, khi xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990 và cụ thể hóa kế hoạch năm 1986 nhằm phục vụ Đại hội VI của Đảng, Ủy ban KHXH Việt Nam đã quyết định “Tập trung lực lượng chuyên gia, tập trung thời gian và phương tiện cần thiết để bổ sung, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng các bản kiến nghị và các công trình khoa học phục vụ kịp thời cho Hội nghị Trung ương 10 bàn về chiến lược kinh tế - xã hội và Đại hội VI của Đảng”(1).

           Ủy ban KHXH Việt Nam đã chỉ đạo các Viện nghiên cứu, các chương trình đề tài do Ủy ban chủ trì thực hiện, tập trung xây dựng các kiến nghị gửi lên Tiểu ban chuẩn bị Đại hội VI, theo 8 lĩnh vực quan trọng sau đây:

           -Về đặc điểm, phân kỳ, nội dung kinh tế - xã hội, hệ thống quy luật và vận dụng quy luật trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.

           - Về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và trên từng vùng trọng điểm của nước ta.

           - Về cơ chế quản lý và cơ cấu kinh tế hiện nay.

           - Về các chính sách xã hội (dân tộc, dân số, dân cư, lao động, phụ nữ…).

           - Về cách mạng tư tưởng văn hóa và chiến lược con người.

           - Về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

           - Về các vấn đề quốc tế (chiến lược kinh tế đối ngoại, tình hình và đối sách trong khu vực…).

           - Về chiến lược phát triển khoa học xã hội.

           Kết quả là, Ủy ban KHXH Việt Nam đã xây dựng được 40 bản kiến nghị gửi lên Trung ương, theo 8 lĩnh vực chủ yếu nói trên. Các kiến nghị này chủ yếu nhằm cung cấp luận cứ khoa học, góp phần xây dựng chủ trương, đường lối chính sách, đường lối đổi mới của Đại hội VI của Đảng.

           4. Thời kỳ đổi mới và phát triển (1986-2013)

           Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội của sự nghiệp Đổi mới đất nước đã mở ra cho nước ta bước phát triển mới. Các ngành KHXH &NV nước ta, dưới sự chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng và Chính phủ đã hướng mạnh việc nghiên cứu phục vụ thực tiễn, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, góp phần đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, vì vậy đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ. Điều này đã được Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị trong sự nghiệp đổi mới khẳng định: “Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, hoạt động khoa học cà công nghệ (trong đó có khoa học xã hội) tiếp tục phát triển, gắn bó hơn với sản xuất, kinh doanh và đời sống, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Trong điều kiện làm việc và sinh hoạt hết sức khó khăn, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tiếp thu được nhiều thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, góp phần tích cực vào việc soạn thảo Cương lĩnh của Đảng, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược khoa học và công nghệ của nước ta, tham gia đẩy mạnh điều tra cơ bản, xây dựng các chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, khai thác, phát huy giá trị nhân văn của dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao trí tuệ và năng lực sáng tạo của cán bộ và nhân dân…”.  Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra “khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới”. Riêng về khoa học xã hội, Nghị quyết nêu rõ, “Khoa học xã hội chưa nghiên cứu sâu sắc và lý giải một cách thuyết phục, có căn cứ khoa học nhiều vấn đề cơ bản của thời đại, về CNXH, chủ nghĩa tư bản, về thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của nước ta, chưa cung cấp đầy đủ luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục thế giới quan và phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng nhân sinh quan và đạo đức cách mạng”.

           Sau khi chỉ ra những nguyên nhân của các yếu kém đó, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị cũng đề ra những nhiệm vụ cho khoa học xã hội: “Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận để hoàn thiện và triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, tập trung nghiên cứu những vấn đề về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, về CNXH, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu hướng cơ bản của thời đại. Nghiên cứu những vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính, ngân hàng tiền tệ, chống lạm phát, quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, vấn đề sở hữu, vai trò Nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi lên CNXH, nghiên cứu con đường, hình thức, bước đi của quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nghiên cứu các vấn đề cơ cấu xã hội và chính sách xã hội, các vấn đề lịch sử, văn hóa, đạo đức, ngôn ngữ, dân tộc, tôn giáo, các vấn đề dân cư, lao động, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, xây dựng con người mới. Nghiên cứu các vấn đề đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề Nhà nước, pháp luật và dân chủ XHCN, các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới”.

           Nghị quyết cũng chỉ ra: “để khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội cần phải phát triển nhanh các ngành triết học, kinh tế học, xã hội học, luật học, khoa học chính trị và khoa học quản lý, đặc biệt khoa học quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước”. Mở rộng điều tra cơ bản một cách có hệ thống về điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái, đồng thời thường xuyên bám sát và tổng kết thực tiễn để kịp thời phát hiện những vấn đề kinh tế - xã hội cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước”. “Khoa học xã hội có nhiệm vụ nghiên cứu tạo ra cơ sở lý luận cho các hoạt động trên mặt trận tư tưởng, nhằm tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những quan điểm sai lầm, đấu tranh chống những tư tưởng và luận điệu thù địch”(1).

                   Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Ủy ban KHXH Việt Nam (từ năm 1993 là Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia) đã có một bước chuyển quan trọng, đánh dấu việc đổi mới tư duy, khắc phục sự chậm trễ của Khoa học xã hội do Đại hội VI đề ra, thể hiện trên các mặt hoạt động sau đây:

           A/ Về hoạt động khoa học, là thời kỳ đã chuyển mạnh việc tổ chức nghiên cứu khoa học nhằm mục tiêu cơ bản phục vụ yêu cầu thực tiễn đổi mới đất nước, khắc phục khuynh hướng nghiên cứu mang tính “hàn lâm”, kinh viện, xa rời thực tiễn, minh họa một chiều của những giai đoạn trước. Sự chuyển hướng này ngày càng được chú trọng đi vào chiều sâu sau Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX với một hệ thống các chương trình, đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ, Dự án điều tra cơ bản nhằm nghiên cứu, giải quyết các vấn đề có tầm chiến lược đối với sự phát triển của cách mạng nước ta trong từng giai đoạn của sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

           Lần đầu tiên sau Đại hội VI, Nhà nước hình thành hệ thống các chương trình đề tài cấp Nhà nước về Khoa học xã hội bắt đầu từ kế hoạch 5 năm 1991-1995. Và từ đó đến nay, trong 3 kỳ kế hoạch 5 năm 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005, mỗi kỳ kế hoạch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được Nhà nước giao chủ trì 3 chương trình.

           Giai đoạn 1991-1995, 3/10 chương trình cấp Nhà nước về Khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

           - Chương trình KX.01 “Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta”, gồm 15 đề tài.

           - Chương trình KX.04 “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách xã hội và quản lý việc thực hiện chính sách xã hội”, gồm 17 đề tài.

           - Chương trình KX.06 “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”, gồm 17 đề tài.

           Giai đoạn 1996-2000, 3/7 chương trình cấp Nhà nước về Khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

- Chương trình KHXH.01 “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, gồm 10 đề tài.

- Chương trình KHXH.02 “Phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm CNH, HĐH đất nước”, gồm 7 đề tài.

- Chương trình KHXH.06 “Những vấn đề về chủ nghĩa tư bản hiện đại”, gồm 9 đề tài.

Giai đoạn 2001-2005, 3/8 chương trình cấp Nhà nước về Khoa học xã hội do Viện Hàn lâm chủ trì, đó là:

           - Chương trình KH.02 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN - con đường và bước đi”, gồm 10 đề tài.

           - Chương trình KX.04 “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, gồm 9 đề tài.

           - Chương trình KH.05 “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, gồm 12 đề tài.

           Tổng số đề tài của 9 chương trình của 3 kỳ kế hoạch là 106 đề tài, trong đó Viện Hàn lâm trực tiếp thực hiện là 48 đề tài. Ngoài ra Viện Hàn lâm còn thực hiện 21 đề tài thuộc các chương trình KHXH cấp Nhà nước khác. Đồng thời, mỗi kỳ kế hoạch, Viện Hàn lâm còn thực hiện từ 3 đến 5 đề tài độc lập cấp Nhà nước.

           Bên cạnh các chương trình đề tài cấp Nhà nước, Đảng và Thủ tướng Chính phủ còn trực tiếp giao Viện Hàn lâm mỗi kỳ kế hoạch thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng điểm phục vụ trực tiếp cho những nhiệm vụ trong nước và quốc tế được nêu trong các Nghị quyết của Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương các khóa. Chẳng hạn, thời kỳ 1991-1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười giao Viện Hàn lâm nghiên cứu, giải đáp các vấn đề: về nguyên nhân và bài học rút ra từ sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đặt điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại; chủ nghĩa xã hội dân chủ; những biến đổi trong quan hệ quốc tế và dự báo xu hướng phát triển của thế giới và khu vực trong những thập kỷ tới; tính chất, đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta và làm thế nào để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đó; Những tiêu chuẩn chủ yếu kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và những biện pháp lớn để hoàn thành chặng đường này; Nghiên cứu về lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta. Thời kỳ 1995-1997, Thủ tướng chính phủ giao Viện Hàn lâm nghiên cứu về các giải pháp quản lý sử dụng quỹ đất 5% theo Luật Đất đai và việc huy động các nguồn lực trong dân để xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hộ ở nông thôn; nghiên cứu khủng hoảng tài chính tiền tệ các nước Châu Á và tác động của chúng đối với Việt Nam; nghiên cứu luận cứ khoa học cho các giải pháp phòng, chống các tệ nạn xã hội ở nước ta, v.v…

           Từ quý 2 năm 1999, thực hiện Chỉ thị của thủ tướng Chính phủ, với sự tài trợ của UNDP, Viện Hàn lâm phối hợp với một số Bộ, ngành triển khai xây dựng Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2001 (Báo cáo này được nhận giải thưởng của UNDP).

           Các nhiệm vụ nêu trên vừa thể hiện sự tín nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với Viện Hàn lâm, sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm, đồng thời mở ra những cơ hội cho Viện Hàn lâm có điều kiện tham gia trực tiếp nghiên cứu, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.

           Bên cạnh các nhiệm vụ được cấp trên giao, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn còn chủ động xây dựng các chương trình nghiên cứu của mình (thường gọi là Chương trình cấp Viện Hàn lâm). Giai đoạn 1986-1990 Viện Hàn lâm xây dựng 5 chương trình nghiên cứu trọng điểm gồm 41 đề tài(1). Đây là bước chuyển có tính chất đột phá trong tổ chức nghiên cứu khoa học kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.

           Để góp phần chuẩn bị cho các Văn kiện Đại hội VII, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, các chương trình cấp Nhà nước do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, cùng với đội ngũ cán bộ cốt cán của Viện Hàn lâm đã tích cực tham gia, chủ động xây dựng nhiều kiến nghị. Có thể nêu lên một số kiến nghị tiêu biểu như kiến nghị về chính sách kinh tế của Việt Nam sau khi Mỹ bỏ cấm vận,  góp ý kiến hoàn chỉnh Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hoàn chỉnh Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) về một số vấn đề công tác tư tưởng - lý luận trong tình hình hiện nay, kiến nghị hoàn chỉnh Dự thảo Luật Dân sự, Đề án cải cách hành chính quốc gia, Đề án năm quốc tế về gia đình… Để góp phần chuẩn bị cho các văn kiện của Đại hội VIII, Viện Hàn lâm đã chủ động xây dựng 8 kiến nghị gửi lên Ban Bí thư và trực tiếp báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư, Tiểu ban chuẩn bị Văn kiện Đại hội một số chuyên đề về chủ doanh nghiệp tư nhân; sự phân tầng xã hội; kinh tế tư bản nhà nước trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta; bối cảnh quốc tế và đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam; vấn đề phát triển xã hội,v.v… Một số báo cáo chuyên đề, kiến nghị của Viện Hàn lâm được đánh giá tốt và sử dụng vào việc chuẩn bị các văn kiện của Đại hội VIII của Đảng.

           Từ năm 1996, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã chủ động xây dựng và thực hiện 6 chương trình nghiên cứu cấp Viện Hàn lâm sau đây:

           - Triết lý về sự phát triển của Việt Nam, gồm 6 đề tài.

           - Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2010, gồm 6 đề tài.

           - Một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn hóa cơ bản ở Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình CNH, HĐH, gồm 5 đề tài.

           - Những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH, gồm 6 đề tài.

           - Bối cảnh quốc tế và sự điều chỉnh chính sách kinh tế của các nước lớn, gồm 6 đề tài.

           - Những vấn đề cấp bách về dân tộc - tôn giáo trong những năm đầu thế kỷ XXI, gồm 3 đề tài.

           Các chương trình cấp Viện Hàn lâm trên đây đã cung cấp những cơ sở khoa học góp phần vào hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần giải quyết một số vấn đề cấp bách của đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước.

           Tiếp theo, Viện Hàn lâm đang xây dựng 3 chương trình cấp Viện Hàn lâm mới: “Những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc và tôn giáo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình CNH, HĐH”, trong đó có nghiên cứu lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ; chương trình “Những đặc điểm mới của bối cảnh quốc tế, khu vực và đối sách của Việt Nam” và chương trình “Những cơ sở xã hội nhân văn của quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường trong quá trình công nghiệp hóa: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

           Trong các kế hoạch 5 năm từ 1991 đến 2005, Viện Hàn lâm đã chủ động đề xuất với sự giúp đỡ, hợp tác của một số bộ, ngành, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, triển khai trên diện rộng nhiều dự án điều tra cơ bản (ĐTCB) về kinh tế, văn hóa, xã hội trên các địa bàn trọng điểm của đất nước. Giai đoạn 1991-1995 xây dựng và triển khai 8 dự án ĐTCB kinh tế - xã hội vùng lòng hồ sông Đà, 11 tỉnh miền núi phía Bắc, nông dân vùng đồng bằng sông Hồng, 4 quận nội thành Hà Nội, đồng bằng sông Cửu Long, điều tra cơ bản về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, tình hình tôn giáo, văn hóa dân gian các dân tộc. Giai đoạn 1996-2000 đã triển khai thực hiện 23 dự án, ĐTCB, trong đó riêng năm 1999-2000 thực hiện 20 dự án, trong các lĩnh vực KHXH&NV. Từ 2001 đến 2005, Viện Hàn lâm chủ trì thực hiện 16 dự án, trong đó có nhiều dự án lớn, có tính chất liên ngành(1).

           Đáng chú ý là năm 2000, Viện Hàn lâm đã chủ động xây dựng và trình Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Đề án “Những nhiệm vụ nghiên cứu của KHXH&NV nước ta 10 năm đầu thế kỷ XXI”. Ngoài các chương trình cấp Nhà nước về Khoa học xã hội của 2 kỳ kế hoạch 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010 được nêu trong bản Đề án, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Viện Hàn lâm đề xuất một hệ thống công trình trọng điểm có tính chất quốc gia mà việc thực hiện phải huy động lực lượng, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dậy KHXH&NV trong cả nước. Đó là những công trình: Lịch sử Việt Nam (Thông sử), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Lịch sử văn học Việt Nam, từ điển tiếng Việt (cỡ lớn), Những vấn đề cơ bản về dân tộc ở Việt Nam, Những vấn đề cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam, Địa chí các tỉnh thành phố trong cả nước, Khai thác di sản Hán Nôm, Kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Một số công trình nêu trên, như bộ Lịch sử văn học Việt Nam gồm 10 tập chia thành 16 quyển đang được thực hiện trong khuôn khổ đề tài độc lập cấp Nhà nước giai đoạn 2002-2005.

           Kỷ niệm nửa thế kỷ xây dựng và phát triển từ Ban Nghiên cứu Lịch sử - Văn học - Địa lý đến Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, đồng thời để đánh giá những thành tựu đạt được qua 50 năm trưởng thành, ngày 26/12/2003, tại Hội trường Ba Đình, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đã long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1953-2003)”.

           Về những thành tựu của Trung tâm, trong diễn văn đọc tại buổi lễ, GS.TS. Đỗ Hoài Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Giám đốc Trung tâm nhấn mạnh những đánh giá của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về những đóng góp của các thế hệ cán bộ Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia: “Trung tâm đã cố gắng từng bước khắc phục sự chậm trễ, đưa khoa học xã hội và nhân văn dần bắt kịp những vấn đề của thời đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới(1); “Nhiều sản phẩm khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng ra đời, đặc biệt phải kể đến sự đóng góp của Trung tâm trong việc góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta(2); “Nhiều kết luận của khoa học xã hội và nhân văn đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các Nghị quyết, hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc Đổi mới(1).

           Phát huy những thành tựu đã đạt được, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia xác định nhiệm vụ trong những năm tiếp theo là:

           - Tổ chức nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách của khoa học xã hội Việt Nam, khu vực và quốc tế; tổng kết thực tiễn, góp phần từng bước phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; giải đáp những vấn đề khoa học xã hội của cả nước và từng vùng phục vụ cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, văn hóa, môi trường và con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển trong quá trình tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

           - Đẩy mạnh việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa, tinh thần các của tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

           - Tổ chức điều tra cơ bản về kinh tế - văn hóa - xã hội trên những địa bàn trọng điểm của đất nước; tiến hành phân tích và dự bảo về kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

           - Đẩy mạnh việc kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội. Thực hiện đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ về khoa học xã hội tại Trung tâm; Tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của cả nước, ngành, vùng, địa phương và doanh nghiệp.

Trong khoảng thời gian 2 năm 2004 và 2005, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đẩy mạnh tiến độ thực hiện các chương trình cấp Nhà nước gồm:

- Chương trình KX.02: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Con đường và bước đi, gồm 10 đề tài.

- Chương trình KX.04: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, gồm 9 đề tài.

- Chương trình KX.05: Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gồm 12 đề tài.

Viện Hàn lâm cũng tiếp tục triển khai thực hiện và nghiệm thu nhiều đề tài độc lập, nhiệm vụ cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Cơ sở. Trong đó có một số nhiệm vụ được Chính phủ giao như:

- Xây dựng Quy chế dân chủ nhằm phát huy tự do sáng tạo để khai thác mọi tiềm năng trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận; đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ (Sau đó, Viện Hàn lâm và một số cơ quan phối hợp đề nghị gọi tắt là: Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận).

- Xây dựng Đề án “Đẩy mạnh nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Riêng trong năm 2004, Viện Hàn lâm đã tổ chức hoặc phối hợp tổ chức thành công một số cuộc Hội thảo Quốc gia và Quốc tế, như:

- Hội thảo Quốc gia và Hội thảo Quốc tế “50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại tỉnh Điện Biên và Thủ đô Hà Nội”.

- Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ II tại Thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề: Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại.

- Hội thảo quốc tế tại Thủ đô Viên Chăn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 30 năm ký Hiệp định hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (năm 2007).

- Hội thảo về Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào tại cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) (năm 2008).

- Các cuộc Hội thảo khác như: Hội thảo Quốc tế Về các nền kinh tế chuyển đổi và hợp tác Á - Âu và triển vọng tham gia của Việt Nam; Hội thảo Quốc tế Hợp tác ASEAN - EU; Hội thảo Quốc tế về Nguôn ngữ học Liên Á lần thứ IV; Hội thảo Quốc tế Việt Nam - Na Uy đương đại; Hội thảo về Di sản Hán Nôm; Hội thảo Nho giáo tại Hà Nội; Hội thảo kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc tại Bắc Ninh…

Vào thời gian này, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đẩy mạnh việc thực hiện một số Dự án và Nhiệm vụ lớn như: Dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên; Dự án Khai quật và chỉnh lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long và một số Dự án điều tra cơ bản kinh tế, xã hội, văn hóa ở một số địa phương trong cả nước; Dự án Điều tra, sưu tầm tổng thể về Hán Nôm; Dự án Điều tra tổng thể văn học Việt Nam 10 thế kỷ; Dự án Điều tra tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số…; Dự án Điều tra cơ bản các dân tộc vùng Tây Bắc, miền Trung và Tây Nam Bộ; Điều tra cơ bản các yếu tố phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; Điều tra cơ bản và hệ thống hóa tư liệu khảo cổ học vùng Nam Bộ, hoàn thành bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập, xuất bản 75 tập Sử thi Tây Nguyên… Hoàn thành việc biên soạn và xuất bản bộ sách Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số (23 tập), cơ bản hoàn thành việc biên soạn bộ sách Lịch sử văn hóa Việt Nam (6 tập), Dự án “Sưu tầm, mã hóa, nghiên cứu, khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”…

Nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức thực hiện một số đề tài phục vụ công tác đối ngoại và phục vụ nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, như: Nghiên cứu cơ sở lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia; Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ; Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; Sự biến động chính trị Đông Á hai thập niên đầu thế kỷ XXI - Những vấn đề đặt ra và đối sách của Việt Nam; Quan hệ Nga - ASEAN trong những thập niên đầu thế kỷ XXI; Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên mới của ASEAN trong bối cảnh Đông Á đầu thế kỷ XXI; Hoàn thành Dự án hợp tác quốc tế “Hợp tác nghiên cứu giữa Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Quốc gia Lào” và hỗ trợ Lào “Tổng kết 25 năm đổi mới kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”. Một số kết quả nghiên cứu đã phục vụ trực tiếp theo yêu cầu của Trung ương Đảng và Chính phủ như: Năm 2009, Viện đã thực hiện nhiệm vụ đột xuất “Đánh giá, dự báo tình hình kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động đến Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ giao. Nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện đã thực hiện một số báo cáo chuyên đề nhằm phục vụ việc soạn thảo Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Đại hội X, XI của Đảng… Trên cơ sở kết quả khai quật khu dích tích khảo cổ học và thực hiện Dự án “Chỉnh lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long”, Viện đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, các chuyên gia UNECO quốc tế và Bộ Ngoại giao Việt Nam hoàn chỉnh bộ Hồ sơ về “Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội”, đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới đúng dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Trong những năm gần đây, trước những chuyển biến mau chóng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta và trước những biến đổi bất thường về chính trị và kinh tế - xã hội trong khu vực và quốc tế, Viện Hàn lâm càng ra sức đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình, đề tài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của đất nước theo Chiến lược phát triển khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Quy hoạch tổng thể về phát triển khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Điều đó thể hiện qua việc tổ chức thực hiện và đề xuất một số chương trình như: Chương trình Tây Nguyên 3 (giai đoạn 2011-2015): Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên; Nghiên cứu tổng thể tư liệu về Hoàng Sa và Trường Sa; Nghiên cứu đánh giá tổng hợp tài nguyên môi trường, kinh tế, xã hội và đề xuất luận cứ khoa học vụ phục chiến lược phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (Chương trình Tây Nam Bộ) …

           Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam rất chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản. Trong các chương trình, đề tài khoa học đều có sự kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng. Nhờ vậy trình độ nghiên cứu lý luận, nghiên cứu cơ bản của đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm ngày càng được nâng cao. Điều đó đã tạo tiền đề quan trọng cho Viện Hàn lâm thực hiện tốt các chương trình, đề tài, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao, tạo cơ hội cho việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của KHXH&NV vào đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội - văn hóa của đất nước một cách có hiệu quả.

  Tóm lại, trong 10 năm gần đây, phát huy các thành tựu đã đạt được trong suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có những bước trưởng thành vượt bậc trên nhiều phương diện: Về xây dựng hệ thống các cơ quan và lĩnh vực nghiên cứu, về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, về hợp tác nghiên cứu với các tổ chức quốc tế nghiên cứu về khoa học xã hội, về xây dựng cơ sở vật chất… Bước trưởng thành ấy thể hiện trên một số thành tựu cụ thể sau:

Về nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm đã tích cực triển khai đồng bộ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng với tư vấn chính sách và đào tạo. Các chương trình, dự án và đề tài nghiên cứu khoa học tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn, vừa cơ bản, vừa cấp bách của Việt Nam và các nước thuộc các lĩnh vực chủ yếu như: kinh tế - xã hội, chính trị và hệ thống chính trị, văn hóa và con người, dân tộc và tôn giáo, quốc phòng và an ninh, khu vực và quốc tế, … Các kết quả nghiên cứu của đội ngũ các nhà nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kết tinh trong nhiều công trình khoa học đã được nghiệm thu và đang thực hiện, trong hàng vạn bài báo công bố trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước và trên hơn 7 ngàn đầu sách đã được xuất bản… Các kết quả nghiên cứu ấy đã có tác động tích cực vào sự phát triển của đất nước, đã:

- Góp phần nhận thức ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Viện đã thực hiện nhiều chương trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở và chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, góp phần cung cấp cơ sở lý luận để nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, những kết quả nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới về kinh tế và chính sách xã hội, góp phần vào sự hình thành đồng bộ, hệ thống những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và của Việt Nam.

Nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và soạn thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và các Nghị quyết của nhiều Hội nghị Trung ương, cũng như tham gia vào việc Tổng kết 20 năm Đổi mới, bổ sung và phát triển Cương lĩnh phát triển đất nước năm 1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030…

- Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội, khoa học nhân văn và nghiên cứu quốc tế, cung cấp luận cứ khoa học nhằm hoạch định đường lối và chính sách phát triển toàn diện đất nước.

Viện Hàn lâm đã và đang tiếp tục nghiên cứu nhằm luận giải sự tồn tại tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong quá trình phát triển đất nước ở Việt Nam, về vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước và tham khảo kinh nghiệm thế giới, các cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã tập trung nghiên cứu sâu về kinh tế thị trường, luận chứng về sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận giải bản chất và đặc trưng của nền kinh tế thị trường, từ đó góp phần định hướng cơ chế phân bổ nguồn lực và phân phối thu nhập một cách hợp lý theo yêu cầu phát triển bền vững, đề xuất một hệ thống những biện pháp quan trọng và cần thiết để giải phóng và phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho nhiệm vụ trọng đại này. Các kết quả nghiên cứu của các chương trình và đề tài trọng tâm như: “Phương hướng, mục tiêu, tiến trình và những giải pháp nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa - con đường và bước đi”, và một số đề tài trọng điểm khác đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là khâu đột phá để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; luận giải cơ sở khoa học của mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, đặc biệt lợi thế so sánh động do con người Việt Nam tạo ra và được thực hiện trong môi trường hội nhập, dựa vào phát huy tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hóa…

- Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, góp phần đổi mới hệ thống chính trị.

Trong những năm gần đây, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần làm rõ thực chất của công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân; về dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở. Những công trình nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, “Nâng cao năng lực cầm quyền và lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”, “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều kiện Đổi mới ở Việt Nam” … đã góp phần vào nhiệm vụ đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta.

Viện cũng đã tham gia tích cực vào quá trình cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn và đề xuất nhiều nội dung của Chiến lược lập pháp đến năm 2020.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nhằm phát triển văn hóa, xã hội và con người.

Trong nhiều năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã triển khai nhiều công trình, đề tài khoa học các cấp nghiên cứu về văn hóa, góp phần luận chứng cho quan điểm coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã hội; khẳng định văn hóa Việt Nam có sự thống nhất trong đa dạng và việc củng cố sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa là cơ sở giữ vững bình đẳng và phát huy tính đa dạng của văn hóa các tộc người, ở các vùng miền trên cả nước. Phân tích nhằm làm sáng tỏ những giá trị thể hiện bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam trong lịch sử cũng như ý nghĩa và vai trò to lớn của các giá trị đó trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa đất nước ngày càng phát triển.

Viện cũng đã có những nghiên cứu quan trọng về xã hội và con người trong quá trình phát triển: luận chứng về sự cần thiết phải gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó là phương thức hiệu quả nhất để phát triển xã hội một cách bền vững, hài hòa; luận chứng làm rõ vị trí trung tâm cũng như mục tiêu, động lực của con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời gian qua góp phần khẳng định: Phát triển vì con người là mục tiêu cao nhất của mọi chính sách kinh tế - xã hội của đất nước.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu các vấn đề về lịch sử, dân tộc và tôn giáo.

Nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, trong những năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tập trung làm rõ các vấn đề về sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam qua các thời kỳ; các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam; khẳng định chủ quyền quốc gia và tính toàn vẹn lãnh thổ, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết sách của Đảng và Nhà nước.

Các nghiên cứu cũng làm rõ truyền thống bất khuất, kiên cường, cần cù, thông minh, sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm rõ sự hình thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ và vùng đất Tây Nguyên, những bộ phận không thể tách rời của đất nước Việt Nam trong lịch sử.

Các nhà Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học, Tâm lý học… của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, bằng các cuộc điền dã hàng vạn ki-lô-mét trên mọi nẻo đường Tổ quốc, bằng các kết quả nghiên cứu của mình đã khẳng định việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc anh em là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu đã tiếp tục làm rõ những biến đổi về thành phần ở một số tộc người và nhóm địa phương trong điều kiện mới, trong đó chỉ ra nhận thức lịch sử, lợi ích chính trị, kinh tế, quyền sử dụng tài nguyên, chính sách ưu đãi của Nhà nước là những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trên. Đồng thời, góp phần xác định và làm sáng tỏ những vấn đề cấp bách về dân tộc trong bối cảnh có những biến động về tình hình tộc người và tôn giáo ở các vùng Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc nước ta.

Những kết quả nghiên cứu trên đã góp phần giáo dục nhân sinh quan và thế giới quan cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Đồng thời, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Những kết quả nghiên cứu này cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý ở cấp Trung ương và địa phương.

Trong lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng, Viện Hàn lâm đã góp phần làm sáng tỏ những luận điểm có tính đột phá trong nhận thức về tôn giáo như tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; văn hóa và đạo đức tôn giáo có những điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, về hệ thống tôn giáo ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa; trong đó nêu bật hai khuynh hướng có thể coi là cơ bản trong đời sống của các cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là: đồng hành cùng dân tộc và tích cực hiện đại hóa tôn giáo theo hướng trở thành các tôn giáo xã hội. Viện cũng đã có những đóng góp thiết thực vào việc xây dựng và hoàn thiện luật pháp của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu về xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại và hội nhập.

Nghiên cứu những vấn đề quốc tế và khu vực là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một mặt nhằm giúp người Việt Nam hiểu rõ về các quốc gia, dân tộc, các nền văn minh thế giới, mặt khác nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế” của Đảng và Nhà nước… Viện Hàn lâm đã có những nghiên cứu cơ bản về thời đại, về tình hình thế giới và đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng về thế giới, khu vực; góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng, khẳng định Việt Nam muốn và sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và hợp tác phát triển. Đồng thời, Viện Hàn lâm cũng đã góp phần luận giải khoa học về các phương châm đối ngoại của Đảng và Nhà nước như: giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác, tránh đối đầu trực diện, tự đẩy mình vào thế cô lập, tăng cường hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là với các nước lớn, chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. Trên cơ sở làm rõ hơn lý luận về toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế với tư cách là khuôn khổ phát triển mới của nền kinh tế thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là một trong những cơ quan đầu tiên nghiên cứu và đưa ra quan điểm Việt Nam cần phải chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trên tất cả các cấp độ: song phương, tiểu khu vực và đa phương toàn cầu.

Nhìn chung, trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - từ bước khởi đầu là Ban Nghiên cứu Lịch sử - Văn học và Địa lý, đến Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ngày càng trưởng thành và phát triển về mọi mặt: Về cơ cấu tổ chức, về đội ngũ cán bộ công chức và năng lực nghiên cứu, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và quan hệ với các cơ quan hữu quan trong nước và nước ngoài. Một khối lượng lớn các kết quả nghiên cứu đạt chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã tạo nên uy tín khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Đây là thành quả lao động của hàng ngàn cán bộ nghiên cứu, phục vụ nghiên cứu và công chức, viên chức của Viện Hàn lâm qua các thời kỳ. Các kết quả ấy đã phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý.

Dù vậy, bên cạnh những thành tựu chủ yếu, công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, tham mưu và tư vấn chính sách khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn bộc lộ một số mặt hạn chế: Cho đến nay, vẫn chưa hình thành được một hệ thống lý luận đầy đủ về khoa học xã hội của Việt Nam; sự phối hợp giữa các Viện nghiên cứu trong và ngoài nước chưa chặt chẽ và có hiệu quả; sản phẩm nghiên cứu của Viện Hàn lâm cũng như của các Viện nghiên cứu trực thuộc tuy nhiều về số lượng nhưng còn ít những công trình có giá trị cao về lý luận và thực tiễn; Đội ngũ các nhà khoa học chủ chốt ngày càng mỏng, đặc biệt là thiếu các chuyên gia đầu ngành đủ năng lực chủ trì, triển khai các chương trình, đề tài trọng điểm; mức đầu tư cho nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu còn thấp so với yêu cầu, đồng thời còn dàn trải mang nặng tính chất hành chính.

Vì vậy, trong thời gian tới Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể, có hiệu quả nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phục vụ và tổ chức nghiên cứu khoa học để đáp ứng được yêu cầu phát triển khoa học xã hội đặt ra, cụ thể gồm một số nhiệm vụ như sau:

1. Tổ chức nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách của khoa học xã hội Việt Nam, khu vực và quốc tế trong thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI. Tiếp tục tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước và tiếp tục làm rõ và phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, khải thác, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

3. Tổ chức việc nghiên cứu, điều tra cơ bản về kinh tế - văn hóa - xã hội trên những địa bàn trọng điểm của đất nước, tiến hành phân tích và dự báo về kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

4. Kết hợp hoạt động nghiên cứu với công tác đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học xã hội có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ cho Viện Hàn lâm và cho cả nước.

  Nhìn chung lại, có thể khẳng định, thời kỳ từ năm 1986 đến nay là thời kỳ phát triển phong phú và toàn diện nhất về hoạt động khoa học của Viện Hàn lâm. Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tập trung lực lượng nghiên cứu những vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách về lý luận và thực tiễn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần hình thành cơ sở lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, hoạch định các chủ trương đương lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát hiện, sưu tầm, khai thác và phát huy những giá trị của lịch sử, văn hóa, văn minh Việt Nam, góp phần vào việc nâng cao dân trí, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ và nhân dân. Tích cực điều tra cơ bản về kinh tế - xã hội - văn hóa nhằm tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng quy hoạch phát triển của từng vùng cũng như chung cho cả nước. Việc hợp tác nghiên cứu của Viện Hàn lâm với cán bộ, ngành, tỉnh, thành phố trong cả nước không ngừng được mở rộng. Việc hợp tác nghiên cứu về các vấn đề KHXH&NV của thế giới và khu vực của Viện Hàn lâm với các nước trên thế giới cũng ngày càng được tăng cường. Đến nay, Viện Hàn lâm đã có quan hệ hợp tác nghiên cứu, đào tào cán bộ, trao đổi thông tin khoa học với hơn 50 nước và các tổ chức KHXH trên thế giới. Cùng với sự trưởng thành của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, xu thế này sẽ ngày càng phát triển trong những thập niên tới của thế kỷ XXI.

           B/ Về tổ chức và cán bộ cũng là thời kỳ có những thay đổi lớn

           Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 244/NQ/HĐNN phê chuẩn chuyển Ủy ban KHXH Việt Nam thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam làm chức năng nghiên cứu Khoa học xã hội. Cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam lúc này gồm có 16 Viện, 2 Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành và một số cơ quan phục vụ nghiên cứu, cơ quan chức năng giúp việc Viện trưởng.

           Ngày 19/10/1990, đồng chí Đặng Xuân Kỳ được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Các đồng chí Phạm Xuân Nam, Lê Hữu Tầng làm Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam(1).

           Ngày 16/9/1991, đồng chí Nguyễn Duy Quý được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam thay đồng chí Đặng Xuân Kỳ.

           Ngày 22/5/1993, Chính phủ ra Nghị định số 23/CP Quyết định thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia trên cơ sở tổ chức lại Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Duy Quý được cử giữ chức Giám đốc Trung tâm. Các đồng chí Phạm Xuân Nam, Lê Hữu Tầng Phó Giám đốc Trung tâm.

           Theo Nghị định 23/CP của Chính phủ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia là cơ quan khoa học thuộc Chính phủ, hoạt động theo quy chế riêng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trung tâm có chức năng nghiên cứu những vấn đề Khoa học xã hội và nhân văn trọng điểm của Nhà nước, cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan lãnh đạo định ra đường lối, chính sách xây dựng và phát triển đất nước; xây dựng và phát triển tiềm lực Khoa học xã hội và nhân văn cả nước( 2).

           Dựa trên chức năng nghiên cứu đó, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

           - Xây dựng trình Chính phủ xem xét và quyết định phương hướng nhiệm vụ và kế hoạch dài hạn về nghiên cứu KHXH&NV của Trung tâm.

           - Tổ chức chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch nghiên cứu và xây dựng tổ chức của Trung tâm.

          - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KHXH&NV có trình độ đại học và trên đại học.

           - Tham gia việc hoạch định chính sách phát triển KHXH&NV của cả nước.

           - Xây dựng và thực hiện kế hoạch hợp tác với nước ngoài theo các quy định hiện hành của Nhà nước.

           - Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản và kinh phí của Trung tâm theo các quy định hiện hành của Nhà nước(1).

           Ngày 23/5/1996, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 335/TTg về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc Trung tâm, Hội đồng Khoa học Trung tâm, các Viện nghiên cứu và các đơn vị phục vụ nghiên cứu khoa học trực thuộc Trung tâm, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, tiêu chuẩn công chức, viên chức, quy định về tài chính, tài sản của Trung tâm và các đơn vị trực thuộc. Đây là những quy định rất quan trọng về mặt tổ chức và hoạt động của Trung tâm, tạo hành lang pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của một cơ quan khoa học.

           Ngày 6/9/1996 đồng chí Đỗ Hoài Nam được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm. Ngày 7/4/1999, đồng chí Hồ Ngọc Hải được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm.

           Trong lịch sử 60 năm xây dựng và phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,  sau khi Trung tâm được thành lập là giai đoạn có bước phát triển về tổ chức các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành chưa từng có ở các thời kỳ trước. Tại thời điểm thành lập Trung tâm mới chỉ có 16 Viện nghiên cứu khoa học và một Viện Thông tin Khoa học xã hội. Nhưng 4 tháng sau đó, trong khi hệ thống các Viện nghiên cứu của cả nước được sắp xếp lại theo hướng sát nhập hoặc giảm bớt về số lượng theo yêu cầu của cải cách hành chính, thì Đảng và Nhà nước vẫn rất quan tâm phát triển thêm các Viện nghiên cứu khoa học của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Ngày 13/9/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 466/TTg thành lập một lúc 5 Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Đó là Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu (năm 1998 đổi thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu)(2), Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ. Gần 1 năm sau, ngày 21/6/1994, Thủ tướng Chính phủ lại ra Quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu Địa lý Nhân văn trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.Tiếp theo, ngày 24/10/1995 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 689/TTg về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trên cơ sở tách Bảo tàng Dân tộc học ra khỏi Viện Dân tộc học) trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, đặt trong hệ thống Bảo tàng Quốc gia. Ngày 20/9/1999, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 190/QĐ-TTg về việc thành lập Viện nghiên cứu Con người trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Như vậy, trong vòng 10 năm, Chính phủ đã ra Quyết định thành lập mới 8 Trung tâm và 1 Viện nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Và nếu tính từ năm 1990 đến năm 2003, hệ thống các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Trung tâm đã tăng 10 đơn vị nghiên cứu, đưa tổng số Viện và Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đạt tới 24 đơn vị nghiên cứu (17 Viện, 6 Trung tâm nghiên cứu và 1 Bảo tàng Dân tộc) chưa kể hệ thống các cơ quan phục vụ nghiên cứu như Viện Thông tin KHXH, Nhà xuất bản KHXH và hệ thống các tạp chí khoa học chuyên ngành. Có thể nói, giai đoạn phát triển từ năm 1990 đến năm 2003 của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về tổ chức, cả số lượng và chất lượng, tạo điều kiện cho Viện Hàn lâm sớm đi đến định hình của sự phát triển về mặt tổ chức nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học.

           Để tạo điều kiện cho việc thực hiện các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó, một số quyết định về tổ chức của Trung tâm được thực hiện. Đầu năm 2004, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia đổi tên thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam theo Quyết định số 26/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004 của Chính phủ. Theo đó, các đơn vị trực thuộc Viện cũng có một số thay đổi về tên gọi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thành lập thêm một số đơn vị mới. Các đơn vị mới lần lượt được thành lập trong thời gian này là: Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên, Trung tâm phân tích và dự báo và Ban Quản lý khoa học…

           Các Quy chế tổ chức và hoạt động của các đơn vị trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam được xây dựng mới cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao đồng thời với việc xây dựng và ban hành thực hiện Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

           Về lãnh đạo cấp Viện Khoa học xã hội Việt Nam, trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2009, Viện có những thay đổi như:

- Tháng 2/2004, PGS.TS. Trần Đức Cường, Viện trưởng Viện Sử học được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 1/12/2005, TS. Hồ Ngọc Hải được nghỉ hưu theo chế độ.

- Tháng 14/11/2007, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 2/2008, PGS.TS. Trần Đức Cường thôi giữ chức Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam để làm công tác chuyên môn.

- Tháng 8/8/2008, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chánh Văn phòng Viện Khoa học xã hội Việt Nam được Thủ tướng ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 20/5/2010, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Trưởng Ban Kế hoạch -  Tài chính được Thủ tướng ra Quyết định bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

- Tháng 5/2011, GS.TS. Đỗ Hoài Nam thôi giữ chức Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam để làm công tác chuyên môn.

- Tháng 5/2011, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định bổ nhiệm làm Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Trong năm 2007 và đầu năm 2008, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan chức năng của Chính phủ soạn thảo và trình Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 53/2008-NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2008 quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Theo Nghị định này, “Viện Khoa học xã hội là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển nhanh, bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện dịch vụ tư vấn về chính sách phát triển, đào tạo sau đại học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực khoa học của cả nước”.

Viện có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức với tổng cộng 29 đơn vị nghiên cứu, trong đó đổi tên hai đơn vị là Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ thành Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ và Viện Khoa học xã hội Miền Trung – Tây Nguyên thành Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên; thành lập mới hai đơn vị là Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam và Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên theo Quyết định số 1055/QĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành về các đơn vị sự nghiệp khác thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam có 27 tạp chí chuyên ngành và 2 Nhà xuất bản là Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Nhà xất bản Từ điển Bách khoa.

Nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của khoa học xã hội nói chung và của một trong nhiều cơ quan hàng đầu về khoa học nói riêng, đồng thời tạo điều kiện để tăng cường hội nhập quốc tế, ngày 26/12/2012, Chính phủ ra Nghị định số 109/2012/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trên cơ sở Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Về vị trí và chức năng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Nghị định nêu rõ: “Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội; cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội;tham gia phát triển tiềm lực khoa học của cả nước.

Nghị định của Chính phủ cũng xác định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có các nội dung cơ bản là:

1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về khoa học xã hội:

- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam;

- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;

- Những vấn đề cơ bản về phát triển toàn diện con người Việt Nam và các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hóa và văn minh nhân loại;

- Những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, văn học, ngôn ngữ, tâm lý học nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

- Những vấn đề cơ bản, toàn diện, có hệ thống về lý thuyết phát triển của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế;

- Những khía cạnh khoa học xã hội của nền kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và ứng phó với biến đổi khí hậu và đánh giá tác động đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam;

- Lý luận và kinh nghiệm phát triển trên thế giới, dự báo xu hướng phát triển chủ yếu của khu vực và thế giới, đánh giá những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến sự phát triển toàn cầu, khu vực và Việt Nam;

- Nghiên cứu, điều tra cơ bản, liên ngành về khoa học xã hội, phân tích và dự báo kinh tế - xã hội phục vụ nhu cầu phát triển đất nước, chú trọng những lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu, những ngành, vùng kinh tế trọng điểm và các liên kết vùng;

- Nghiên cứu, tổ chức biên soạn những công trình khoa học tiêu biểu, những bộ sách lớn, thể hiện tinh hoa của trí tuệ Việt Nam và thế giới, phục vụ công trình nghiên cứu và truyền bá tri thức về khoa học xã hội.

2. Tổ chức sưu tầm, khái quát, nghiên cứu, bảo tồn và bảo tàng nhằm phát huy những giá trị di sản văn hóa của các dân tộc Việt Nam.

3. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội; đào tạo và cấp bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật; tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của cả nước, ngành, vùng, địa phương và doanh nghiệp.

4. Tổ chức hợp tác nghiên cứu và liên kết đào tạo về khoa học xã hội với các tổ chức quốc tế, các viện, và trường đại học nước ngoài theo quy định của pháp luật.

5. Tư vấn phản biện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

6. Tổ chức tư vấn và thực hiện dịch vụ công theo quy định của pháp luật.

7. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin khoa học xã hội, phố biến tri thức khoa học, góp phần nâng cao trình độ dân trí.

           C/ Công tác đào tạo, cán bộ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng ngày càng được coi trọng, nhất là đào tạo sau đại học. Trước khi Học viện Khoa học xã hội trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ra đời, Viện Hàn lâm đã có 17 cơ sở đào tạo sau đại học. Ngày 10/01/2010 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 35/QĐ-TTg về việc thành lập Học viện Khoa học xã hội trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong những năm gần đây, hàng năm Học viện Khoa học xã hội đã thu hút hàng ngàn cán bộ trong và ngoài Viện Hàn lâm thi vào các khóa nghiên cứu sinh và cao học. Tính đến tháng 10 năm 2013, tổng số cán bộ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ là 2.593 người, trong đó có 1.080 tiến sĩ, 1.513 thạc sĩ. Cùng với các cơ sở đào tạo sau đại học của các trường đại học và các học viện, viện nghiên cứu trong cả nước, các cơ sở đào tạo sau đại học trước đây và Học viện Khoa học xã hội hiện nay của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp phần tích cực trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ KHXH&NV có học vị cao cho cả nước. Chất lượng đào tạo nhìn chung được đảm bảo.

           Bên cạnh việc đào tạo về chuyên môn ở trình độ trên đại học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hàng năm còn chú trọng mở nhiều lớp đào tạo kiến thức mới, nâng cao trình độ lý luận, phương pháp nghiên cứu, ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước, nghiệp vụ tạp chí, xuất bản, tài chính - kế toán… cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc Viện Hàn lâm.

           Do những cố gắng đó, số lượng cán bộ có học vị tiến sĩ và thạc sĩ của Viện Hàn lâm những năm gần đây tăng gấp nhiều lần so với 20 năm trước. Tỷ lệ cán bộ có học hàm và học vị từ thạc sĩ trở lên đạt hơn 44.8 % tổng số cán bộ. Nếu tính riêng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, tỷ lệ đó đạt tới gần 60%. Có những  viện như Viện Sử học, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Văn học, Viện Ngôn ngữ học, Viện Kinh tế Việt Nam,… đạt tới tỷ lệ 70-80%  tổng số cán bộ nghiên cứu.

           Sự phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong 60 năm qua không tách rời sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, sự phối hợp chặt chẽ với Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm.

           Sự lãnh đạo của Đảng bộ Viện Hàn lâm là vai trò quyết định đối với việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước giao cho Viện Hàn lâm. Trong 60 năm qua, Đảng bộ Viện Hàn lâm không ngừng lớn mạnh và phát triển về mọi mặt. Số lượng chi bộ và đảng viên tăng dần theo mức tăng của đội ngũ cán bộ công chức của Viện Hàn lâm. Đến nay, Đảng bộ có 43 chi bộ với 695 đảng viên, trong đó 367 đảng viên nam, 328 đảng viên nữ. Trong phong trào xây dựng Đảng bộ và Chi bộ trong sạch, vững mạnh, hầu hết các chi bộ thuộc Đảng bộ Viện Hàn lâm đều được công nhận là chi bộ trong sạch, vững mạnh. Và Đảng bộ Viện Hàn lâm là một trong những Đảng bộ thuộc Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương nhiều năm được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Nhiều cán bộ đảng viên của Đảng bộ đóng góp nhiều thành tích nên được xét tặng huy hiệu 40 năm và 50 năm tuổi Đảng. Năm 2002, Đảng bộ Viện Hàn lâm được Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương xét tặng cờ và bằng khen về thành tích xuất sắc trong hoạt động 5 năm 1997-2002. Năm 2010, Đảng bộ Viện Hàn lâm được Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương xét bằng khen về thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ 5 năm 2005-2010. Tháng 10 năm 2013, Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được công nhận là Đảng bộ trên cấp cơ sở.

           Cùng với sự phát triển của Đảng bộ, Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm cũng không ngừng phát triển trong 60 năm qua. Trước đây, Công đoàn Viện Hàn lâm thuộc Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội. Từ năm 1994, Công đoàn Viện Hàn lâm thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam và được nâng cấp thành Công đoàn cấp trên cơ sở từ năm 1999. Hiện nay Công đoàn Viện Hàn lâm có 47 đơn vị, trong đó có 41 đơn vị công đoàn cơ sở thành viên và 6 đơn vị công đoàn bộ phận, với tổng số 1929 đoàn viên Công đoàn. Từ năm 1992 đến nay, Chủ tịch Viện và Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm đã ký kết Quy chế phối hợp hoạt động giữa chính quyền và công đoàn  trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Bởi vậy, Công đoàn ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát về quản lý, động viên đoàn viên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Do đạt được nhiều thành tích trong mọi mặt hoạt động, nên từ năm 2000 đến nay, hàng năm, Công đoàn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đều được Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Công đoàn Viên chức Việt Nam khen thưởng. Trong các hoạt động của Công đoàn Viện Hàn lâm, đáng chú ý nhất là mặt hoạt động về nữ công. Nhờ có nhiều đóng góp tích cực và đạt được nhiều thành tích xuất sắc, hoạt động nữ công của Công đoàn Viện Hàn lâm được nhận nhiều bằng khen của Công đoàn Viên chức Việt Nam. Đặc biệt, tập thể nữ Ban biên soạn từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) được Quỹ hỗ trợ tài năng sáng tạo nữ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (FAWIC) tặng giải thưởng về tài năng sáng tạo nữ và PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm (Viện Ngôn ngữ học) được tặng bằng lao động sáng tạo năm 2001.

           Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tích cực hoạt động, có nhiều đóng góp vào sự tiến bộ chung của Viện Hàn lâm.

           Mặc dù là một cơ quan nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia như Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhưng cán bộ trẻ sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vẫn không ngừng được phát triển. Ngoài các hoạt động văn hóa, thể thao, v.v…đáng chú ý của các phong trào Đoàn Thanh niên của Viện Hàn lâm là tiến quân vào khoa học và phấn đấu vươn lên Đảng, nhằm mục tiêu sớm trở thành cán bộ khoa học có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường chính trị vững vàng và trình độ khoa học cao. Hiện nay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của Viện Hàn lâm có 36 Chi đoàn trực thuộc, 2 Chi đoàn cơ sở, 1 Đoàn cơ sở với tổng số 909 đoàn viên, sinh hoạt trực thuộc Đoàn khối các cơ quan Trung ương. Từ năm 2002, Đoàn Thanh niên của Viện Hàn lâm được nâng cấp thành Đoàn Thanh niên cấp cơ sở tương đương quận, huyện. Do có nhiều thành tích trong hoạt động, từ năm 1996 đến nay, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm được tặng nhiều bằng khen của Trung ương đoàn và Đoàn Khối các cơ quan Trung ương. Đặc biệt, Ban Chấp hành Đoàn Viện được Trung ương Đoàn tặng thưởng Cờ thi đua của Đơn vị xuất sắc công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cấp huyện 5 năm liền (2007-2011). Các đoàn viên thanh niên thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ tự vệ Viện Hàn lâm. Viện Hàn lâm được chia thành 29 trung đội, 10 tiểu đội theo tổ chức hành chính của cơ quan. Trong những năm gần đây, lực lượng tự vệ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam liên tục được tặng cờ là đơn vị quyết thắng. Từ năm 2000 đến nay, lực lượng tự vệ Viện Hàn lâm còn tích cực tham gia các hội thao quân sự hàng năm do Quận đội Hai Bà Trưng, Quận đội Ba Đình, Hà Nội tổ chức, và năm nào Đại đội tự vệ Viện Hàn lâm cũng đạt giải cao về đồng đội và cá nhân, nhất là các môn về lý luận chính trị và bắn súng.

           Trong 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp về mặt khoa học, được Đảng và Chính phủ đánh giá cao, góp phần quan trọng vào việc hoạch định các chủ trương, đường lối chính sách  của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ và góp phần vào việc phát triển nền văn hóa, khoa học nước nhà. Trong số hàng trăm công trình khoa học đã công bố, có thể nêu lên những công trình nghiên cứu xuất sắc, có đóng góp khoa học tiêu biểu, đã được Đảng và Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước năm Đợt 1 năm 1996, Đợt 2 năm 2000, Đợt 3 năm 2005 và Đợt 4 năm 2012 như sau:

           a) Về Giải thưởng Hồ Chí Minh có các công trình Vài nhận xét về thời kỳ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn Gia Long (1954) và Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản (1960) của GS. VS. Nguyễn Khánh Toàn; Bộ lịch sử 80 năm chống pháp - 3 tập (1956, 1959, 1960) của GS. Trần Huy Liệu; các công trình về lịch sử Việt Nam: Giai cấp công nhân Việt Nam - 4 tập (1956-1957) và Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám - 3 tập của GS. Trần Văn Giàu; công trình Nghiên cứu Văn học Việt Nam và Văn học Thế giới (1945-1984) của GS. Đặng Thai Mai; công trình: Anh hùng và nghệ sĩ (1972), Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng và văn hóa (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử của GS. Vũ Khiêu; cụm công trình: Bàn về văn học viết Thân phận con người, Tiểu thuyết và thời gian, Đối thoại văn học, Từ ký hiệu học đến thi pháp học của GS. VS. Hồ Tôn Trinh; công trình: Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu của GS. Cao Xuân Huy; Các công trình: Văn học dân gian- tập 1, 2 (1972, 1973), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam và sự phát triển của xã hội Việt Nam (1995) của GS. Đinh Gia Khánh; các công trình: Truyện cổ Việt Nam (1955) và Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1972) của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan; các công trình: Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ (1964), Người anh hùng làng Gióng (1969), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974) của nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh; các công trình Lược khảo về thần thoại Việt Nam (1957), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam - 5 tập (1958-1982), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh (1995 - chủ biên) của GS. Nguyễn Đổng Chi; cụm công trình lịch sử văn hóa Việt Nam: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Lịch sử cổ đại Việt Nam, Việt Nam văn hóa sử cương, Đất nước Việt Nam qua các đời của GS. Đào Duy Anh; công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Việt Nam - 2 tập của tác giả Trần Văn Giáp; cụm công trình lịch sử: Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử, Lịch và lịch Việt Nam của GS. Hoàng Xuân Hãn; cụm công trình Khảo cổ học Việt Nam: Trống Đông Sơn ở Việt Nam, Hang Con Moong, Hùng Vương dựng nước của GS. VS. Phạm Huy Thông; công trình: Theo dấu các văn hóa cổ của GS. Hà Văn Tấn; công trình: Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam - 2 tập của GS. Nguyễn Văn Huyên; công trình: Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức của GS. Trần Đức Thảo; công trình Chiến tranh Việt Nam và Kinh tế Mỹ của GS. Đào Văn Tập; công trình, cụm công trình Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh, Lý luận văn thơ Việt Nam, Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh của GS. NGND. Hà Minh Đức.

          b) Về Giải thưởng Nhà Nước có các công trình và cụm công trình: Nam Cao đời văn và tác phẩm, Khảo luận văn chương, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Các Mác. Ph. Ănghen. V. I. Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ của GS. Hà Minh Đức; cụm công trình về văn hóa Việt Nam: Xã thôn Việt Nam, Tìm hiểu tính cách dân tộc của GS. Nguyễn Hồng Phong; cụm công trình về văn hóa Việt Nam: Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới, Thử tìm hiểu tính cách Nguyễn Du trong truyện Kiều của PGS. Phan Ngọc; cụm công trình về ngôn ngữ với văn hóa xã hội: cuộc sống trong ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hóa của GS. Hoàng Tuệ; công trình: Quang Trung anh hùng dân tộc (1988 - 1992) của tác giả Hoa Bằng; cụm công trình: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Quang Trung - Nguyễn Huệ, Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, của tác giả Nguyễn Lương Bích; cụm công trình: Cách mạng Tây Sơn, Nguyễn Huệ con người và sự nghiệp GS. Văn Tân; cụm công trình Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc, Những vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn; công trình: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của tác giả Cầm Trọng; cụm công trình: Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, Chúng ta kế thừa di sản nào của GS. Văn Tạo; Công trình: Tín ngưỡng Thành hoàn Việt Nam, Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Duy Hinh; Công trình Sử thi Ê-đê, Vùng Sử thi Tây Nguyên của GS. TSKT. Phạm Đăng Nhật; Cụm công trình khoa học “Những vấn đề ngữ nghĩa và Từ điển Tiếng Việt”: Lôgic - Ngôn ngữ học, Từ điển Chính tả, Từ điển Vần, Chính tả Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê; công trình Nghiên cứu về ngữ pháp Tiếng Việt của GS. Lê Khả Kế; công trình Từ điển Anh - Việt của tập thể tác giả do GS. Hoàng Phê chủ biên; Cụm công trình khoa học Văn học Việt Nam hiện đại: Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu biểu, Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại của GS. Phong Lê - Lê Phong Sừ; Cụm công trình khoa học về Văn học Trung đại Việt Nam: Những suy nghĩ từ văn học Trung đại, Ngô Thi Sỹ - Những chặng đường thơ văn của PGS. Trần Thị Băng Thanh; công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam và những chứng tích Lịch sử của GS. Văn Tạo và GS.TS. Furuta Moto (đồng chủ biên) và các tác giả; công trình Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách Mạng tháng tám năm 1945 của Dương Kinh Quốc; công trình Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam, Địa lý tự nhiên Việt Nam, Sự phát triển của khoa học địa lý trong thế kỷ XX của GS.TS. Vũ Tự Lập; công trình Truyện Nôm công trình lịch sử và thi pháp thể loại, Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại của GS.TS. Kiều Thu Hoạch; công trình Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Hồ Quý Ly của PGS.TS. Nguyễn Danh Phiệt; công trình Tính dân tộc trong văn học, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Động lực dân tộc và thực tiễn sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của PGS.TS. Thành Duy (Nguyễn Thành Truy).

           20 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 24 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước trên đây xứng đáng tiêu biểu cho hàng trăm công trình khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã được công bố trong 60 năm xây dựng và phát triển.

           Các hoạt động của Viện Hàn lâm tiến tới kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Hàn lâm đã được triển khai từ năm 2012. Từ đầu năm 2013 đến nay, các hoạt động kỷ niệm đã được thực hiện như xây dựng phòng truyền thống của Viện Hàn lâm; tổ chức thi hội diễn văn nghệ quần chúng đạt kết quả tốt.

II. VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CÁN BỘ HIỆN NAY CỦA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM1

           Sau 60 năm xây dựng và phát triển, hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã được kiện toàn, phát triển một bước cơ bản. Theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012 của Chính phủ, Viện Hàn lâm có 37 đơn vị trực thuộc bao gồm 30 Viện và Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành, Học viện Khoa học xã hội, Bảo tàng Dân tộc học, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Trung tâm ứng dụng Công nghệ thông tin và 5 cơ quan chức năng giúp việc Chủ tịch Viện trên mọi lĩnh vực hoạt động. Cùng với các thành phần tổ chức theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn có 4 đơn vị do Chủ tịch Viện thành lập. Toàn Viện Hàn lâm hiện có 1912 cán bộ, trong đó 1688 cán bộ nghiên cứu khoa học.

  1. Về hệ thống tổ chức các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành

           Mặc dù sự ra đời và trình độ phát triển khác nhau, nhưng đến nay, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện có gần như toàn bộ các đơn vị nghiên cứu trong các lĩnh vực KHXH&NV.

           Theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012 của Chính Phủ, các đơn vị nghiên cứu trong các lĩnh vực KHXH&NV gồm:

  1. Viện Triết học.
  2. Viện Nhà nước và Pháp luật.
  3. Viện Kinh tế Việt Nam.
  4. Viện Xã hội học.
  5.  Viện Nghiên cứu Văn hoá.
  6.  Viện Nghiên cứu Con người.
  7.  Viện Tâm lý học.
  8.  Viện Sử học.
  9.  Viện Văn học.
  10.   Viện Ngôn ngữ học.
  11.   Viện Nghiên cứu Hán - Nôm.
  12.   Viện Dân tộc học.
  13.   Viện Khảo cổ học.
  14.   Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
  15.   Viện Địa lý nhân văn.
  16.  Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.
  17.  Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
  18.  Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ.
  19.  Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên.
  20.  Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng.
  21.  Viện Kinh tế và Chính trị thế giới.
  22.  Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
  23.  Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
  24.  Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
  25.  Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á.
  26.  Viện Nghiên cứu Châu Âu.
  27.  Viện Nghiên cứu Châu Mỹ.
  28.  Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông.
  29.  Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
  30.  Trung tâm Phân tích và Dự báo.

Cùng với các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành nói trên, Viện Hàn lâm còn có 3 Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành do Chủ tịch Viện thành lập gồm:

  1. Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành.
  2. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Phát triển bền vững.
  3. Trung tâm nghiên cứu Việt - Nhật.

           Như vậy, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện có 29 Viện, 4 Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành và Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Tuy gọi là Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, nhưng nhiệm vụ được giao là tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bầy, giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa về phương diện dân tộc học của các dân tộc anh em trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam; cung cấp tư liệu nghiên cứu dân tộc học cho các ngành,…”. Với chức năng nhiệm vụ nêu trên, có thể xếp Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam như một đơn vị nghiên cứu. Do vậy, hệ thống tổ chức các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có tới 34 đơn vị, bao gồm tương đối đầy đủ các lĩnh vực nghiên cứu về KHXH&NV. Hệ thống tổ chức nghiên cứu này, bên cạnh những tổ chức nghiên cứu về những vấn đề KHXH&NV ở trong nước, còn có những tổ chức nghiên cứu về những vấn đề KHXH&NV của thế giới và khu vực, kể cả một số quốc gia lớn trên thế giới. Vì vậy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay được coi là một trong hai Trung tâm Quốc gia lớn về hai lĩnh vực khoa học: Khoa học xã hội và nhân văn và khoa học tự nhiên và công nghệ của nước ta. Đây là thành quả vô cùng to lớn về mặt phát triển tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam sau 60 năm xây dựng và phát triển.

           Nếu đi sâu hơn nữa về mặt tổ chức, trong cơ cấu tổ chức của mỗi Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành nêu trên, đều hình thành hệ thống các phòng nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ được giao. Hệ thống các phòng này được tổ chức theo phương hướng nghiên cứu cơ bản là kết hợp với nghiên cứu ứng dụng trong từng lĩnh vực KHXH&NV; đồng thời, tùy theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tính chất và đặc điểm của từng lĩnh vực khoa học để xác định số lượng các phòng, quy mô tổ chức và cán bộ cho mỗi phòng nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ. Song, nhìn chung hiện nay, ngoài Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ là Viện nghiên cứu mang tính chất tổng hợp, đa ngành, còn hầu hết các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đều hình thành cơ cấu tổ chức gồm 8 - 12 phòng nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ (chưa kể các phòng hành chính, tổ chức  đào tạo, thư viện và thông tin - tài liệu, tòa soạn tạp chí có chức năng phục vụ khoa học).

           Xét trên quan điểm phát triển tổng thể, hệ thống tổ chức nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay đã được phát triển vừa theo chiều rộng, bao gồm tương đối đầy đủ các lĩnh vực nghiên cứu trong Khoa học xã hội và nhân văn, vừa theo chiều sâu, thể hiện trong mỗi lĩnh vực đã được hình thành hệ thống các phòng nghiên cứu chuyên sâu rất đa dạng và phong phú, có thể kết hợp, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình tổ chức nghiên cứu và hoạt động khoa học. Đây cũng là kết quả rất quan trọng của một quá trình xây dựng, lựa chọn về mô hình tổ chức khoa học hợp lý và hiệu quả thông qua thực tiễn hoạt động khoa học trong 60 năm qua đối với từng lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.

           2.Về hệ thống tổ chức các cơ quan phục vụ nghiên cứu khoa học

           Theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP của Chính phủ về việc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ngoài hệ thống các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành còn có các cơ quan phục vụ nghiên cứu khoa học bao gồm:

  1. Viện Thông tin Khoa học xã hội.
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam.
  3. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
  4. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
  5. Trung tâm Ứng dụng Công nghệ thông tin.

           Trên đây là những cơ quan có chức năng cung cấp thông tin KHXH&NV, công bố những kết quả nghiên cứu về KHXH&NV ở nước ta cũng như trên thế giới. Bởi vậy, nó không chỉ là những cơ quan trực tiếp phục vụ nghiên cứu, đào tạo cán bộ và công tác quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam mà còn phục vụ các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước, trường đại học và các nhu cầu khác của xã hội nói chung.

           Về phương diện tổ chức khoa học và theo quan điểm hệ thống, các cơ quan phục vụ nghiên cứu khoa học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay còn có 3 hệ thống sau đây:

           - Hệ thống các thư viện, thông tin - tư liệu tổng hợp và chuyên ngành.

           - Hệ thống các tạp chí khoa học.

           - Cơ sở đào tạo sau đại học.

           Ngoài ra còn có một số phòng thí nghiệm, thực nghiệm phục vụ ứng dụng khoa học đối với một số lĩnh vực khoa học KHXH & NV đặc thù.

           A/ Về hệ thống thư viện và thông tin - tư liệu

           Hệ thống thư viện và thông tin - tư liệu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển rất sớm, gắn bó chặt chẽ với việc hình thành các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm. Có thể nói, kể từ tổ chức thư viện đầu tiên gắn với Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa, cơ quan tiền thân cho đến hệ thống 32 thư viện và thông tin - tư liệu tổng hợp và chuyên ngành của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày nay là một quá trình phát triển liên tục, nối tiếp nhau, kế thừa lẫn nhau. Tuy nhiên, giai đoạn đầu thành lập Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa, kể cả giai đoạn hình thành Ban Khoa học xã hội thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước vẫn còn là những giai đoạn chưa có nhiều điều kiện để xây dựng và phát triển các tổ chức phục vụ khoa học trong đó có thư viện và công tác thông tin, tư liệu. Chỉ từ sau khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định thành lập Thư viện Khoa học Trung ương (6/2/1960) thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước (bao gồm Thư viện Khoa học xã hội) mới có cơ sở xây dựng và phát triển thư viện khoa học phục vụ các ngành khoa học nói chung. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, thư viện bước đầu cũng rất hạn chế về thông tin - tư liệu cũng như sách, báo, tạp chí. Ngay cả cho đến năm 1965, Quốc hội nước ta ra Quyết định số 165/TWQH ngày 11/10/1965 về việc tách Ủy ban Khoa học Nhà nước thành lập 2 cơ quan độc lập: Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học xã hội, thì cơ sở Thư viện Khoa học Trung ương vẫn còn phục vụ khoa học chung. Cho đến năm 1967, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định số 47/ TVQH về việc đổi tên Viện Khoa học xã hội thành Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam và Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 117/CP ngày 31/7/1967 về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam(1). Đây là mốc đánh dấu bước phát triển mới về mặt tổ chức nghiên cứu khoa học cũng như về tổ chức phục vụ Khoa học xã hội và nhân văn. Từ đó, Thư viện Khoa học xã hội là nơi tập hợp, lưu trữ tài liệu, sách báo trong và ngoài nước và cung cấp những tài liệu cần thiết phục vụ khoa học và phục vụ xã hội nói chung.

           Bắt đầu từ những năm 1970, lãnh đạo Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công tác thông tin - tư liệu và thông tin phải đi trước một bước để phục vụ tốt hơn công tác nghiên cứu, vì vậy, ngoài Thư viện Khoa học xã hội là nơi phục vụ nghiên cứu chung, các Viện nghiên cứu chuyên ngành thuộc Ủy ban xây dựng các thư viện chuyên ngành - hình thành các cơ sở dữ liệu, theo chức năng nhiệm vụ của các Viện nghiên cứu cơ bản trong từng lĩnh vực KHXH&NV. Đây là một bước phát triển mới về mặt tổ chức phục vụ khoa học của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam và bắt đầu từ đây, hệ thống các thư viện chuyên ngành trong từng lĩnh vực KHXH&NV ngày càng được tích tụ, bồi đắp thêm nhiều tư liệu, thông tin khoa học giúp ích cho công tác nghiên cứu khoa học. Chất lượng các công trình, đề tài nghiên cứu được nâng cao nhờ những cơ sở dữ liệu về thông tin – tư liệu khoa học trong sách, báo, tạp chí cũng như thông tin qua hệ thống các báo cáo thực tiễn thu thập được từ cán bộ, ngành, địa phương và các đoàn điều tra, Khảo sát thực tiễn đem lại.

           Ngày 8/5/1975, Viện Thông tin Khoa học xã hội thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam được thành lập. Chức năng cơ bản của Viện là: “Nghiên cứu, thông báo, cung cấp tin tức, tư liệu về Khoa học xã hội cho các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước và các Viện thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam”. Về mặt tổ chức khoa học và phục vụ nghiên cứu khoa học, việc ra đời Viện Thông tin Khoa học xã hội là một bước tiến quan trọng. Lần đầu tiên trong hệ thống tổ chức khoa học xã hội ra đời một Viện có chức năng nghiên cứu, thông báo, cung cấp tin tức tài liệu về mặt khoa học xã hội và nhân văn cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý và các cơ quan nghiên cứu khoa học, Viện Thông tin Khoa học xã hội ra đời trên cơ sở thống nhất Thư viện Khoa học xã hội với Ban Thông tin Khoa học xã hội của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam được hình thành từ năm 1973 (tiền thân của Thư Viện  Khoa học xã hội là Thư Viện Viễn Đông Bác Cổ (Pháp) hoạt động tại Việt Nam từ năm 1902 đến năm 1957 được bàn giao lại cho Việt Nam). Đây là cơ sở phục vụ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn lớn nhất, không chỉ cho các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam trước đây (và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày nay) mà còn phục vụ cho các nhu cầu lãnh đạo, quản lý của các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước và của cả nhu cầu xã hội nói chung.

           Cũng từ sau khi thành lập Viện Thông tin Khoa học xã hội, mô hình thông tin - tư liệu phục vụ khoa học của các Viện nghiên cứu thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam cũng gắn thư viện chuyên ngành với công tác thông tin - tư liệu. Hoạt động thông tin khoa học xã hội ở nước ta cũng chuyển sang một giai đoạn mới, có hệ thống, thư viện tổng hợp và chuyên ngành bổ sung cho nhau. Một đội ngũ cán bộ chuyên môn cũng được hình thành để tiến hành các công đoạn của quá trình thông tin như thu nhập, xử lý thông tin. Nhiều loại hình sản phẩm thông tin đã được phát hành cung cấp cho người dùng tin trong cả nước với nhiều thành tựu mới, luận điểm khoa học mới, phương hướng và phương pháp nghiên cứu mới, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu và giảng dạy, công tác quản lý của lãnh đạo các cấp trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

           Như vậy, quá trình hình thành và phát triển Hệ thống các thư viện và thông tin - tư liệu tổng hợp và chuyên ngành hiện nay của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài theo hướng nói trên, nhất là thời kỳ sau năm 1983 và sau năm 1993 là những mốc đánh dấu quan trọng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về sự phát triển mang tính chất đột biến về mặt tổ chức - hình thành một loạt các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Viện Hàn lâm. Và hiện nay, sau 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có một hệ thống 33 thư viện và thông tin - tư liệu, trong đó có 2 thư viện lớn, tổng hợp và đa ngành thuộc Viện Thông tin Khoa học xã hội và Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, với tổng số gần 3 triệu đơn vị tài liệu rất phong phú và đa dạng về KHXH&NV, là những cơ sở phục vụ khoa học xã hội và nhân văn lớn nhất ở nước ta, tạo thuận lợi cho công tác nghiên cứu, quản lý và nhiều yêu cầu khác của xã hội.

           Hệ thống thư viện và thông tin - tư liệu của các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay gồm có:

          

  1. Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Triết học.
  2. Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nhà nước và Pháp luật.
  3. Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Kinh tế Việt Nam.
  4. Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Xã hội học.
  5.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Văn hoá.
  6. Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Con người.
  7.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Tâm lý học.
  8.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Sử học.
  9.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Văn học.
  10.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Ngôn ngữ học.
  11.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán - Nôm.
  12.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Dân tộc học.
  13.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Khảo cổ học.
  14.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
  15.   Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Địa lý nhân văn.
  16.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.
  17.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
  18.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ.
  19.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên.
  20.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng.
  21.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Kinh tế và Chính trị thế giới.
  22.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
  23.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
  24.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
  25.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á.
  26.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Châu Âu.
  27.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Châu Mỹ.
  28.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông.
  29.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
  30.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Trung tâm Phân tích và Dự báo.
  31.  Thư viện và Phòng Thông tin - Tư liệu Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
  32. Thư viện Khoa học xã hội (tổng hợp) và các phòng thông tin chuyên ngành, các phòng nghiệp vụ thư viện của Viện Thông tin Khoa học xã hội.
  33. Trung tâm Thông tin - Tư liệu -Thư viện Học viện Khoa học xã hội.

           Trong những năm gần đây, Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có hệ thống các thư viện, thông tin - tư liệu đã bước đầu có điều kiện tăng thêm nguồn lực thông tin. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam dành một khoản kinh phí hoạt động khoa học của Viện Hàn lâm cho việc mua sách, báo, tạp chí, tư liệu ở trong nước và xử lý thông tin, bảo quản sách báo, thực hiện tin học hóa công tác thư viện.

           Đáng chú ý trong các năm 1996-1997, Nhà nước đã đầu tư hơn 6,5 tỷ đồng cho việc kiểm kê, bảo quản, phục chế các kho sách, báo, tạp chí của Viện Thông tin Khoa học xã hội. Nhờ vậy, toàn bộ kho sách, báo, tạp chí với tổng số hơn 1 triệu 130 nghìn đơn vị tài liệu của Viện Thông tin Khoa học xã hội đã được quy hoạch, tổ chức lại một cách khoa học theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ nghiên cứu, kéo dài tuổi thọ cho vốn tài liệu hiện có, nhất là tài liệu quý, hiếm.

           Từ năm 1998 đến nay, Viện Thông tin, với tư cách là cơ quan đầu mối về công tác thông tin của Viện Hàn lâm, đã phối hợp với các thư viện và phòng thông tin - tư liệu các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã ra được gần 185 số “Thông báo sách mới”, mỗi năm ra 1 niên giám thông tin khoa học xã hội tiếng Việt, 1 niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài và 100 số “Tài liệu phục vụ nghiên cứu”, tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu và quản lý nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết về KHXH&NV.

           Từ năm 1997, việc áp dụng tin học hóa trong công tác thư viện và thông tin - tư liệu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam được đẩy mạnh. Đến nay, đã có 100% thư viện bước đầu áp dụng có kết quả tốt công tác tin học hóa theo chương trình CDS/ISIS FOR DOS và nhiều thư viện đang được chuyển sang chương trình CDS/ISIS FOR WINDOW. Một số thư viện duy trì cập nhật thông tin mới vào Website của Viện và hoạt động nối mạng Intranet, các thư viện bước đầu chuyển tải một phần các loại tư liệu quý vào đĩa CD-ROM.

           Tuy nhiên, hệ thống các thư viện và thông tin - tư liệu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đang đứng trước một khó khăn là nhu cầu đầu tư cho công tác thông tin - tư liệu ngày càng rất lớn, nhất là đối với công tác xây dựng cơ sở dữ liệu, ngân hàng dữ liệu về KHXH&NV, xây dựng hệ thống mạng và khai thác thông tin nội bộ cũng như mạng thông tin quốc gia và quốc tế, kể cả chi phí để chuyển tải thông tin tư liệu quý hiếm vào đĩa CD-ROM vừa để  bảo quản và phục vụ có hiệu quả, nhưng khả năng đáp ứng về kinh phí đầu tư của Nhà nước hàng năm có hạn. Cần phải có những giải pháp tích cực kể cả 2 phía: Nhà nước cũng như các cơ quan khoa học mới có thể tháo gỡ được khó khăn này trong thời gian tới.

          

 

           B/ Về hệ thống các tạp chí khoa học

           Hệ thống các tạp chí khoa học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng gắn bó chặt chẽ với việc hình thành và phát triển của các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành. Tuy nhiên, so với hệ thống các thư viện và thông tin - tư liệu, hệ thống các tạp chí khoa học ra đời muộn hơn, vì phải trên cơ sở phát triển của các Viện Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành đến một mức độ nhất định mới đủ điều kiện để ra đời một tạp chí khoa học.

           Mặc dù trình độ phát triển và sự ra đời khác nhau, nhưng từ 1Tạp chí Văn - Sử - Địa ra đời ở Chiến khu Việt Bắc(1), đến nay Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có một hệ thống gồm 34 tạp chí khoa học được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép hoạt động và tương ứng có 34 tòa soạn tạp chí. Xu hướng phát triển hệ thống tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là mỗi Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành đều có một tạp chí khoa học thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu và giảng dậy KHXH&NV cả nước tham gia như diễn đàn khoa học của cả giới.

Hệ thống tạp chí khoa học của

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

tính đến năm 2013

 

STT

Tên tạp chí

Số kỳ/năm

  1.  

Tạp chí Triết học

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

4

  1.  

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật

12

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế

12

  1.  

Tạp chí Vietnam’s Socio-Economic Development

4

  1.  

Tạp chí Xã hội học

 

 

  • Tiếng Việt

4

 

  • Tiếng Anh

2

  1.  

 Tạp chí Văn hoá dân gian

6

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Con người

6

  1.  

 Tạp chí Tâm lý học

12

  1.  

 Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

2

  1.  

 Tạp chí Nghiên cứu Văn học

12

  1.  

 Tạp chí Ngôn ngữ

12

  1.  

 Tạp chí Hán - Nôm

6

  1.  

 Tạp chí Dân tộc học

 

 

  • Tiếng Việt

6

 

  • Tiếng Anh

1

  1.  

Tạp chí Khảo cổ học

 

 

  • Tiếng Việt

6

 

  • Tiếng Anh

1

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

4

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn

4

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới

 

 

  • Tiếng Việt

6

 

  • Tiếng Anh

2

  1.  

 Tạp chí Khoa học xã hội (Viện KHXH vùng Nam Bộ)

12

  1.  

 Tạp chí Khoa học xã hội Miền Trung

4

  1.  

Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên

4

  1.  

Tạp chí Phát triển bền vững Vùng

4

  1.  

Tạp chí  Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

12

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc

12

  1.  

 Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á

12

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

1

  1.  

 Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á

12

  1.  

 Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

1

  1.  

Tạp chí Châu Mỹ ngày nay

12

  1.  

Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông.

12

  1.  

Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư

6

  1.  

Tạp chí Bảo tàng và nhân học

4

  1.  

Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

4

  1.  

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

 

 

  • Tiếng Việt

12

 

  • Tiếng Anh

6

  1.  

Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội

6

           Về mặt tổ chức, ngoài tòa soạn Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 33 tòa soạn khác nằm trong cơ cấu tổ chức của các Viện, Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành, Học viện Khoa học xã hội. Tuy nhiên, trong 34 Tạp chí khoa học được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép hoạt động, có 12 Tạp chí khoa học xuất bản 2 ngôn ngữ: Tiếng Việt và tiếng Anh. Như vậy, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam không chỉ có 34 tạp chí, mà thực chất là 46 “tờ” tạp chí khoa học, trong đó có 13 tạp chí bằng tiếng Anh, 33 tạp chí bằng tiếng Việt

           Có thể nói, với 46 “tờ” tạp chí nói trên, hàng năm công bố một khối lượng ấn phẩm về KHXH&NV vô cùng to lớn, mà ở nước ta, không thể có bất kỳ cơ quan chủ quản nào có được. Lực lượng này đóng vai trò rất quan trọng trong việc công bố các kết quả nghiên cứu khoa học không chỉ của cán bộ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, mà của cả giới KHXH&NV của nước ta và một bộ phận các nhà Việt Nam học ở các nước trên thế giới. Các tạp chí khoa học này cũng là phương tiện không thể thiếu trong việc tranh luận khoa học, quảng bá kiến thức về KHXH&NV, góp phần nâng cao dân trí, giới thiệu kết quả nghiên cứu về KHXH&NV của nước ta với bạn bè thế giới.

           Về số lượng bản in của tạp chí thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng ngày một tăng. Hiện nay, tạp chí có số lượng bản in bằng Tiếng Việt cao nhất là Tạp chí Triết học, Tạp chí Xã hội học và Học viện Khoa học xã hội (1.000 bản/kỳ); tiếp đến là các tạp chí: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo và Tạp chí Ngôn ngữ có số lượng bản in từ 800 đến 900 bản in mỗi kỳ. Các tạp chí  khác còn lại có số lượng bản in mỗi kỳ 150-700 bản.

 

 

 

Về tình hình xuất bản của các tạp chí năm 2012

 

Số TT

Tạp chí

Số kỳ trong một năm

Số bản in

mỗi kỳ

Số bản

in 1năm

I

Tạp chí tiếng Việt

300

 

 

1

Tạp chí Triết học

12

1.000

12.000

2

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật

12

900

10.800

3

Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế

12

850

10.200

4

Tạp chí Xã hội học

4

1.000

4.000

5

 Tạp chí Văn hoá dân gian

6

500

3.000

6

Tạp chí Nghiên cứu Con người

6

500

3.000

7

 Tạp chí Tâm lý học

12

500

6.000

8

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử

12

800

9.600

9

 Tạp chí Nghiên cứu Văn học

12

450

5.400

10

 Tạp chí Ngôn ngữ

12

900

10.800

11

 Tạp chí Hán - Nôm

6

600

3.600

12

Tạp chí Dân tộc học

6

500

3.000

13

Tạp chí Khảo cổ học

6

500

3.000

14

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo

12

800

9.600

15

Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn

4

300

1.200

16

Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới

6

150

900

17

 Tạp chí Khoa học xã hội (vùng Nam Bộ)

12

400

4.800

18

 Tạp chí Khoa học xã hội Miền Trung

4

500

2.000

19

Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên

4

500

2.000

20

Tạp chí Phát triển bền vững Vùng

 

4

500

2.000

21

Tạp chí  Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới

12

500

6.000

22

Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc

12

500

6.000

23

 Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á

12

400

4.800

24

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á

12

600

7.200

25

 Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á

12

500

6.000

26

Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu

12

500

6.000

27

Tạp chí Châu Mỹ ngày nay

12

400

4.800

28

Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông.

12

300

3.600

29

Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư

6

500

3.000

30

Tạp chí Bảo tàng và nhân học

4

500

2.000

31

Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội

12

500

6.000

32

Tạp chí Khoa học xã hội Việt NamTiếng Việt

12

300

3.600

33

Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội

6

1.000

6.000

II

Tạp chí Tiếng Anh

44

 

 

1

Tạp chí Vietnam’s Socio-Economic Development

4

300

1.200

2

Tạp chí Triết học

4

200

800

3

Tạp chí Xã hội học

2

300

600

4

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử

2

300

600

5

Tạp chí Dân tộc học

1

200

200

6

Tạp chí Khảo cổ học

1

300

300

7

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo

4

250

1.000

8

Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới

2

350

700

9

Tạp chí  Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới

12

200

2.400

10

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á

1

600

3.000

11

Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu

1

300

300

12

Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội

4

200

800

13

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

6

300

1.800

           Như vậy, mặc dù nhìn chung số lượng bản in của hệ thống tạp chí thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói chung không nhiều (tạp chí cao nhất 1.000 bản, thấp nhất 150 bản in mỗi kỳ) nhưng do số lượng tạp chí lớn, nên toàn Viện Hàn lâm hiện nay mỗi năm đã xuất bản 344 kỳ, trong đó 300 kỳ bằng tiếng Việt, 44 kỳ bằng tiếng Anh. Nội dung các bài đăng trên tạp chí rất phong phú, đa dạng, nhưng hướng trọng tâm phục vụ cho sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta và sự phát triển chính bản thân các ngành KHXH&NV.

 

           Trong bối cảnh chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường nhưng tất cả các tạp chí của Viện Hàn lâm đều giữ vững tôn chỉ mục đích và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Cụ thể là:

           - Đã tuyển chọn và công bố kịp thời các kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu KHXH&NV trong cả nước, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy nền khoa học xã hội và nhân văn nước phát triển.

           - Đã tích cực góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho công tác hoạch định và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

           - Đã làm tốt công tác cung cấp thông tin khoa học, là nơi gặp gỡ của những người quan tâm đến các vấn đề khoa học chuyên ngành.

           Tuy nhiên, bên cạnh những mặt ưu điểm nêu trên, hệ thống các tạp chí của Viện Hàn lâm vẫn còn ít những bài nghiên cứu đề cập đến những chủ đề lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chất lượng khoa học của không ít bài viết còn chưa cao và cũng chưa khai thác triệt để những kết quả nghiên cứu khoa học có giá trị cao, nhất là các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ trong thời gian qua,

           Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của công tác tạp chí trong thời gian tới, Viện Hàn lâm còn phải đầu tư hơn nữa trên một số mặt, trong đó tạo ra cơ chế quản lý thích hợp và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác chí khoa học là có ý nghĩa đột phá.

           C/ Về cơ sở đào tạo sau đại học

           Hệ thống cơ sở đào tạo sau đại học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ra đời chủ yếu trong thời kỳ đổi mới và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của với sự phát triển của các Viện nghiên cứu chuyên ngành. Trước khi Học viện Khoa học xã hội ra đời, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có 17 cơ sở đào tạo sau đại học, trong đó có 6 cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo 2 cấp tiến sĩ và thạc sĩ. Đó là Viện Triết học, Viện Nhà nước và Pháp Luật, Viện Xã hội học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, và Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 11 cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ cấp tiến sĩ gồm có Viện Sử học, Viện Dân tộc học, Viện Khảo cổ học, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Văn học, Viện Ngôn ngữ học, Viện Tâm lý học, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Con người, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á trước đây và hiện nay là Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

           Trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo sau đại học trước đây và hiện nay là Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng trong việc đào tạo cán bộ khoa học xã hội và nhân văn có trình độ cao trong cả nước. Tính đến tháng 10 năm 2013, Học viện Khoa học xã hội được giao đào tạo 64 ngành tiến sĩ và thạc sĩ, trong đó có 31 ngành tiến sĩ và 33 ngành thạc sĩ. Học viện đang quản lý và đào tạo 3.284 học viên cao học và nghiên cứu sinh, trong đó có 2.044 học viên cao học và 1.240 nghiên cứu sinh.

Nhìn chung, công tác đào tạo của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng được chú trọng, nhất là đào tạo sau đại học. Học viện Khoa học xã hội tập hợp các cán bộ có học hàm (giáo sư, phó giáo sư), học vị (tiến sĩ khoa học, tiến sĩ và thạc sĩ) đủ điều kiện và khả năng tham gia đào tạo tại Học viện. Số cán bộ này là những nhà nghiên cứu KHXH&NV có kinh nghiệm nên thuận lợi trong việc truyền thụ kiến thức, phương pháp nghiên cứu, gợi mở cho nghiên cứu sinh và học viên cao học có ý tưởng khoa học, những định hướng nghiên cứu mới, cập nhật thông tin, nhất là những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học để đưa vào bài giảng. Nhờ vậy, chất lượng đào tạo nói chung được đảm bảo. Đây là kết quả do chủ trương đúng đắn của lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong thời gian qua, chú trọng việc kết hợp nghiên cứu với đào tạo. Trong những năm gần đây, Viện Hàn lâm đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, xây dựng và đầu tư ngày càng tăng cho hệ đề tài nghiên cứu cấp Viện Hàn lâm, nhất là đề tài cấp Viện, khả năng kết hợp nghiên cứu với đào tạo càng được thể hiện rõ, luận án, luận văn của nghiên cứu sinh và học viên cao học là cán bộ của Viện Hàn lâm, thông thường được gắn với hệ đề tài cấp Viện Hàn lâm hoặc đề tài cấp Viện. Khi hoàn thành luận án đồng thời cũng hoàn thành một phần nhiệm vụ được giao của đề tài khoa học cấp Viện Hàn lâm hoặc cấp Viện. Đây là cách thức đào tạo tốt, có thể áp dụng đối với hình thức đào tạo sau tiến sĩ, đào tạo chuyên gia khoa học trong từng lĩnh vực KHXH&NV với điều kiện lựa chọn được người hướng dẫn là những chuyên gia khoa học thực sự.

            Tham gia đào tạo sau đại học, ngoài số cán bộ có học hàm, học vị của các Viện là chuyên ngành, còn có các nhà khoa học tại các Viện nghiên cứu trong và ngoài Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các trường đại học, học viện, các cơ sở nghiên cứu của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Bên cạnh các giảng viên chính nhiệm, còn có một số đội ngũ kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Sự phối hợp này không những tạo nên một lực lượng giảng viên đủ về số lượng, tốt về chất lượng, mà còn đưa ra khả năng liên kết đào tạo, áp dụng có hiệu quả phương pháp nghiên cứu liên ngành, thực hiện việc kết hợp đào tạo giữa Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam với các trường đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học.

           D/ Ngoài 3 hệ thống tổ chức phục vụ khoa học nói trên, trong một số lĩnh vực khoa học đặc thù, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn xây dựng một số phòng thí nghiệm, thực nghiệm khoa học hiện đại và bước đầu đem lại kết quả tốt. Đó là các lĩnh vực khảo cổ học, ngôn ngữ học, tâm lý học… Các phòng thí nghiệm, thực nghiệm này, tuy còn có phần bị hạn chế nhưng đã mở ra triển vọng có thể sử dụng công nghệ hiện đại phục vụ một cách có hiệu quả cho việc nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn.

3.  Về hệ thống tổ chức các cơ quan giúp việc Chủ tịch Viện

Sau khi Viện Khoa học xã hội chuyển thành Ủy ban KHXH Việt Nam, ngoài các cơ quan nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học còn có các cơ quan giúp việc Chủ nhiệm Ủy ban. Từ trước năm 1970 đã có Văn phòng và Vụ tổ chức cán bộ. Năm 1975 thành lập thêm Ban Đào tạo Cán bộ. Năm 1980 thành lập Ban Thư kí khoa học, Ban Hợp tác quốc tế, Ban Thanh tra. Năm 1983 thành lập Vụ Kế hoạch - Tổng hợp trên cơ sở Ban Thư kí khoa học, Ban Hợp tác quốc tế chuyển thành vụ Hợp tác Quốc tế. Từ năm 1985, các cơ quan giúp Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam gồm có: Văn phòng, Vụ Tổ chức Cán bộ, Vụ Kế hoạch - Tổng hợp, Vụ Hợp tác Quốc tế, Ban Đào tạo Cán bộ, Ban Thanh tra, Phòng Bảo vệ, Phòng Quân sự trực thuộc Ủy ban.

Theo Nghị định 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia trên cơ sở tổ chức lại Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ngoài hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan phục vụ nghiên cứu khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia còn có 5 cơ quan giúp việc Giám đốc Trung tâm như sau: Văn phòng; Ban Tổ chức - Cán bộ và Đào tạo; Ban Kế hoạch - Tài chính; Ban Hợp tác - Quốc tế; Thanh tra.

Theo Nghị định số 53/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, các cơ quan giúp việc Chủ tịch Viện gồm: Ban tổ chức cán bộ; Ban Kế hoạch - Tài chính; Ban Quản lý khoa học; Ban Hợp tác quốc tế; Văn phòng.

Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tiếp tục khẳng định các cơ quan giúp việc nói trên.

Cùng với các cơ quan giúp việc Chủ tịch Viện theo Nghị định 109/2012/NĐ-CP, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn có 1 cơ quan giúp việc do Chủ tịch Viện thành lập là Ban Thi đua - Khen thưởng.

Các cơ quan giúp việc trên đây đồng thời cũng là những cơ quan có chức năng tham mưu tư vấn Chủ tịch Viện Hàn lâm trong công tác xây dựng kế hoạch và tài chính hàng năm cũng như 5 năm trên mọi mặt hoạt động của Viện Hàn lâm (Chương trình đề tài khoa học, hoạt động tạp chí, xuất bản, thông tin tư liệu, tổ chức và đào tạo cán bộ, hợp tác quốc tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ khoa học), đồng thời cũng là các cơ quan tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả mọi mặt hoạt động nói trên của Viện Hàn lâm.

Tuy các tổ chức và cán bộ của các cơ quan chức năng quản lý thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay không nhiều, nhưng nhờ đẩy mạnh việc phân cấp và không ngừng đổi mới cơ chế quản lý trong thời gian qua trên mọi mặt hoạt động của Viện Hàn lâm ngày càng phát triển. Từ năm 1986 đến nay, các lĩnh vực hoạt động chủ yếu, từ nghiên cứu khoa học, hoạt động tài chính cho đến công tác tạp chí, xuất bản, thông tin sách báo, hợp tác quốc tế, tổ chức và đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ khoa học đều được quy chế hóa và thống nhất thực hiện trong toàn Viện Hàn lâm. Các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm từng bước được phân cấp quản lý trong nhiều mặt công tác, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động trên mọi mặt hoạt động của một cơ quan khoa học. Vì vậy đã khai thác và phát huy được mọi tiềm năng của đội ngũ cán bộ trong việc hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Mọi hoạt động của Viện Hàn lâm đều đảm bảo thực hiện công khai, dân chủ từ các công tác tổ chức và cán bộ cho đến nghiên cứu khoa học cũng như đầu tư, phân bổ, sử dụng kinh phí. Vì vậy đã tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, động lực của sự phát triển trên tất cả các phương diện. Kể từ ngày thực hiện sự nghiệp đổi mới, Viện Hàn lâm đã có bước chuyển quan trọng từ cơ chế bao cấp toàn bộ sang cơ chế hạch toán từng phần trong một số lĩnh vực như tạp chí, xuất bản, thông tin, sách báo và đặc biệt áp dụng ngày càng rộng rãi cơ chế kí kết hợp đồng trong hoạt động khoa học, kể cả việc “khoán” từng khâu trong quy trình nghiên cứu cũng như trong hoạt động bộ máy. Các chính sách, chế độ, đơn giá chi tiêu cho hoạt động khoa học và phục vụ khoa học cũng đã sớm được xây dựng, cụ thể hóa để thực hiện. Vì vậy, mọi hoạt động của Viện Hàn lâm đã đi vào nề nếp, công tác quản lý ngày càng đi sâu vào chất lượng và hiệu quả.

4. Về đội ngũ cán bộ công chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Cùng với sự phát triển về tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam qua 60 năm cũng trưởng thành và phát triển về mọi mặt. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay của Viện Hàn lâm có lập trường tư tưởng chính trị tốt, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Có tinh thần trách nhiệm trong nghiên cứu cũng như phục vụ nghiên cứu khoa học, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận, phương pháp luận, bồi dưỡng kiến thức mới, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ ngày càng lớn lao của Đảng và Nhà nước được giao.

60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm hiện có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là 1912 người, trong đó có 1688 cán bộ nghiên cứu (88%), số còn lại là cán bộ, công chức phục vụ nghiên cứu (thông tin, tư liệu, thư viện, tạp chí, quản lý và hành chính). Trong số cán bộ nghiên cứu, hiện có 16 người có trình độ Giáo sư, Tiến sĩ, 125 người có trình độ Phó Giáo sư, Tiến sĩ, 3 người có trình độ Tiến sĩ khoa học, 204 người có trình độ Tiến sĩ, 509 người có trình độ Thạc sĩ, chiếm hơn 44.8% tổng số cán bộ. Nếu tính riêng cán bộ, công chức, viên chức nghiên cứu khoa học đạt gần 60%, và một số đạt tới 70-80%. Đây là kết quả của quá trình tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng lâu dài và sự phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ, công chức của Viện Hàn lâm.

Nhìn lại quá trình phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Hàn lâm, có thể chia ra các giai đoạn sau đây:

- Giai đoạn hình thành cơ quan tiền thân - Ban Nghiên cứu Lịch sử - Văn học - Địa lý, từ năm 1953 - 1964, đội ngũ cán bộ còn quá ít, ban đầu chỉ 19 người, sau tăng lên 40 người, rồi 100 người. Đây là thời kì tập hợp lực lượng ở nhiều ngành có liên quan, nhất là ngành giáo dục, văn hóa, kể cả quân đội và ở nước ngoài về. Cán bộ là những người có trình độ lý luận, được rèn luyện, thử thách qua quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, có nhiều tâm huyết, say mê nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn này phần lớn có trình độ đại học hoặc tương đương, số cán bộ có trình độ trung cấp, kể cả sơ cấp (phục vụ khoa học) còn chiếm tỉ lệ đáng kể (25 - 35%). Theo phân loại cán bộ, đội ngũ cán bộ, công chức lúc bấy giờ chủ yếu là chuyên viên và cán sự, năm 1960 có 5 cán bộ được phong học hàm giáo sư (Trần Huy Liệu, Trần văn Giàu, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Huy Thông).

- Giai đoạn thành lập Viện Khoa học xã hội, rồi Ủy ban KHXH Việt Nam, từ năm 1965 đến đầu năm 1990 là giai đoạn có ý nghĩa quyết định hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Quá trình hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn này ban đầu là 345 người, sau tăng lên 446 người, từ năm 1969 đến năm 1972, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chỉ có 500 - 511 người, năm 1975 tăng lên 773 người, năm 1980: 1061 người, năm 1985: 1523 người.

Giai đoạn thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, rồi Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (từ 1993 đến 2013): Từ năm 1993-2003 đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tiếp tục được kiện toàn. Đầu năm 2004, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn Viện Hàn lâm có 1380 người, đến 31/7/2013, nếu không tính 2 đơn vị do Chủ tịch Viện Quyết định thành lập là các đơn vị tự chủ về biên chế, nhiệm vụ và kinh phí hoạt động, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có 1912 người, đạt số lượng cán bộ công chức, viên chức cao nhất trong lịch sử phát triển 60 năm qua của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Giai đoạn hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ cao của Viện Hàn lâm bắt đầu từ năm 1970. Năm 1972, số cán bộ trên đại học có 10 người, năm 1975: 13 người.  Năm 1980 và nhất là năm 1985 trở đi, số cán bộ, công chức được phong học hàm GS, PGS và có học vị TSKH, TS. Th.S tăng lên nhanh chóng(1). Nếu như năm 1980, toàn Viện Hàn lâm chỉ có 12 GS, 8 PGS, 1 TSKH, 14 TS thì năm 1985 tăng lên 14 GS, 60 PGS, 1 TSKH, 64 TS. Từ năm 1985 đến năm 1990, số cán bộ, công chức có học vị tiến sĩ tăng lên 2 lần. Năm 1992, toàn Viện Hàn lâm có 26 GS, 82 PGS, 5 TSKH, 159 ThS. Năm 1996: 29 GS, 105 PGS, 13 TSKH, 357 TS và 127 ThS. Năm 2004, toàn Viện Hàn lâm có 18 GS, 80 PGS, 13 TSKH, 276 TS, 156 ThS. Năm 2007, toàn Viện Hàn lâm có 14 GS, 103 PGS, 8 TSKH, 268 TS, 222 ThS. Năm 2009, toàn Viện Hàn lâm có 9 GS, 91 PGS, 7 TSKH, 242 TS, 266 ThS. Năm 2010, toàn Viện Hàn lâm có 16 GS, 126 PGS, 182 TS, 375 ThS. Tính đến tháng 7/2013, toàn Viện Hàn lâm có 16 GS, 125 PGS, 3 TSKH, 204 TS, 509 ThS. Đây là những năm số cán bộ, công chức, viên chức có trình độ cao đạt số lượng cao nhất từ trước tới nay.

           Để có được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức như hiện nay, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã không ngừng đổi mới về công tác tổ chức và đào tạo cán bộ. Từ năm 1986, Viện Hàn lâm đã xây dựng và ban hành thực hiện một số quy chế về đề bạt cán bộ, quy chế về quản lý và đào tạo cán bộ khoa học trong và ngoài nước. Do vậy, việc quản lý, đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức nhất là cán bộ có trình độ cao, cán bộ chuyên gia trong từng lĩnh vực KHXH&NV ngày càng tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Từ năm 1995, Viện Hàn lâm bắt đầu thực hiện cơ chế thi tuyển công chức theo quy định của Nhà nước. Số cán bộ trẻ được tuyển dụng đều phải trải qua giai đoạn tập sự dưới sự hướng dẫn của cán bộ có trình độ cao. Hết hạn tập sự phải được đánh giá qua một tập thể khoa học cùng chuyên môn, nghiệp vụ. Do thực hiện chặt chẽ quy chế tuyển dụng, nên nhìn chung, cán bộ trẻ được bổ sung vừa có trình độ chuyên  môn, ngoại ngữ, tin học, vừa có lòng say mê nghiên cứu khoa học.

           Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn đẩy mạnh CHH, HĐH đất nước, sự phát triển khoa học công nghệ nói chung, KHXH&NV nói riêng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Hàn lâm hiện nay cần sớm phải khắc phục những hạn chế yếu kém sau đây:

           - Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài, cơ cấu đào tạo một số lĩnh vực chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, nhất là các khối ngành triết, xã hội học, tâm lý, kinh tế, nhà nước và pháp luật cần ưu tiên phát triển trong thời gian tới.

           - Trình độ và năng lực cán bộ, công chức, viên chức chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ, còn bất cập trong công việc giải quyết một số yêu cầu của thực tiễn; trình độ lý luận, phương pháp nghiên cứu nhìn chung còn hạn chế, nhất là cán bộ trẻ.

Lực lượng cán bộ chuyên gia đầu ngành rất mỏng, tuổi đời lại cao. Vì vậy, cần phải nhanh chóng đẩy mạnh công tác đào tạo, nhất là đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đội ngũ chuyên gia khoa học để tránh tình trạng hụt hẫng nguồn cán bộ kế cận có thể xẩy ra trong thời gian tới.

*

*            *

Nhìn chung lại, trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức nghiên cứu cũng như đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Sự phát triển của hệ thống tổ chức và cán bộ của Viện Hàn lâm hiện nay được thể hiện trên mỗi lĩnh vực chuyên ngành KHXH&NV đều có một Viện hoặc Trung tâm nghiên cứu cùng với một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có khả năng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của Đảng và Nhà nước giao. Các cơ sở nghiên cứu và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Hàn lâm, trong từng thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước, đều góp phần quan trọng cung cấp những luận cứ khoa học và kinh nghiệm phát triển của thế giới trong quá trình hoạch định đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hệ thống các cơ quan phục vụ khoa học thư viện và thông tin - tư liệu, tạp chí khoa học, cơ sở đào tạo sau đại học, các phòng thí nghiệm, thực nghiệm của Viện Hàn lâm và các đơn vị nghiên cứu chuyên ngành cũng được phát triển tương ứng. Điều lệ và quy chế hoạt động của hầu hết các đơn vị nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã ban hành và thực hiện tốt. Công tác đào tạo sau đại học thu được những kết quả đáng khích lệ. Công tác học tập chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, quản lý nhà nước… được đẩy mạnh. Hoạt động hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng. Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật phục vụ khoa học có bước tiến rõ rệt so với trước. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có bước trưởng thành về mọi mặt, cố gắng thích nghi với cơ chế mới, có tâm huyết trong lao động, có bản lĩnh chính trị tốt, tích cực thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khỏi xướng và lãnh đạo thực hiện.

          

III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020, TẦM NHÌN 2030

Việt Nam đang ở những năm đầu thực hiện Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 với nhiều cơ hội và thách thức nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế để đến năm 2020, đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bối cảnh đó đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phải tập trung nghiên cứu và giải đáp, kịp thời luận giải, nghiên cứu các vấn đề mới, đồng thời dự báo những vấn đề, xu hướng lớn nảy sinh, tham mưu và đóng góp luận cứ khoa học cho công cuộc xây dựng, phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Chiến lược Phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030 là thông điệp khẳng định quan điểm tiếp cận, định hướng phát triển và các giải pháp chủ yếu để phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển đất nước nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng XHCN; thực hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước. Chiến lược này thể hiện viễn cảnh phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong sự thích ứng với những thay đổi nhanh của bối cảnh thế giới, khu vực nói chung; của sự phát triển khoa học xã hội thế giới nói riêng.

Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu Chiến lược Phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030.

1. Thực trạng phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010

1. Những thành tựu chủ yếu

Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã chủ động triển khai, thực hiện có hiệu quả nhiều nhiệm vụ quan trọng và có những đóng góp thiết thực góp phần vào sự phát triển của đất nước nói chung và nền khoa học xã hội Việt Nam nói riêng. Những thành tựu chủ yếu của Viện Hàn lâm bao gồm:

a) Cung cấp có hiệu quả và chất lượng những luận cứ khoa học góp phần hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Thành tựu nổi bật nhất của Viện Hàn lâm là tập trung nghiên cứu hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng điểm do Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ yêu cầu, góp phần bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), tổng kết đánh giá Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, phân tích, dự báo bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước, đề xuất tầm nhìn, quan điểm, chủ trương và các định hướng mới trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2011 - 2020.

Viện đã có nhiều kiến nghị khoa học về quan điểm phát triển bền vững đất nước với các giải pháp mang tính khả thi; về sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên lợi thế so sánh động để tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; về việc điều chỉnh các cải cách bên trong nền kinh tế để thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu hơn, hiệu quả hơn; về nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản; về giải pháp đối với các vấn đề xã hội, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền trong bối cảnh mới, v.v…

b) Hoàn thành nhiều nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nhiều chương trình nghiên cứu những vấn đề quan trọng trong các lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học nhân văn, quan hệ quốc tế và phát triển bền vững

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đạt được những thành tựu mới trong nghiên cứu, nhận thức và vận dụng sáng tạo những luận điểm còn giữ nguyên giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tiếp tục cụ thể hoá nội dung của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định tăng cường kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là các khâu đột phá chiến lược để phát triển nhanh nền kinh tế Việt Nam trong 10 - 15 năm tới; đồng thời, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…

Các nghiên cứu khoa học xã hội đã cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển văn hoá, văn học nghệ thuật, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách ngôn ngữ...

Các nghiên cứu về quan hệ quốc tế, khu vực học và đất nước học cũng đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đó là những nghiên cứu, luận giải về thời đại ngày nay và các xu thế mới trên thế giới cũng như trong khu vực; đưa ra quan điểm Việt Nam phải chủ động tích cực hội nhập quốc tế trên tất cả các cấp độ: song phương, đa phương khu vực và đa phương toàn cầu; góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho quan hệ đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam, định hướng ưu tiên thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị, an ninh, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo,… đối với các nước lớn, các nước phát triển và các nước láng giềng.

Các nghiên cứu của Viện Hàn lâm cũng đã đưa ra những đánh giá, dự báo về tình hình kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và những tác động đến Việt Nam, về khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ - Quảng Tây, khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng trong chiến lược “Một trục hai cánh” của Trung Quốc và những biến đổi mới của tình hình biển Đông trong sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Trung Quốc và Mỹ. Một số đề xuất về hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam của Viện Hàn lâm đã được các cơ quan hoạch định chính sách tiếp nhận và đánh giá cao.

c) Tiến hành thường xuyên và kết hợp chặt chẽ công tác điều tra cơ bản, khảo sát đánh giá tình hình kinh tế - xã hội, văn hoá và môi trường với hoạt động nghiên cứu triển khai, tham mưu và tư vấn chính sách

Kết quả thực hiện các chương trình, dự án điều tra đã đem lại những cơ sở dữ liệu, số liệu thống kê hết sức cơ bản và cập nhật tình hình thực tiễn, phục vụ nghiên cứu cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong từng thời kỳ, góp phần tổng kết và đánh giá tình hình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đánh giá các nguồn lực phát triển, vạch ra những thời cơ và thách thức, những yêu cầu cấp thiết phải giải quyết trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng vùng và địa phương.

d) Gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và đào tạo, đưa kết quả nghiên cứu vào hoạt động đào tạo sau đại học và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho cả nước

Trước năm 2010, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có 17 cơ sở đào tạo thuộc các Viện nghiên cứu chuyên ngành. Năm 2010 Học viện Khoa học xã hội được thành lập, có chức năng đào tạo và cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật; quản lý thống nhất các hoạt động đào tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Việc thành lập Học viện Khoa học xã hội vừa khẳng định những thành tựu đào tạo sau đại học của Viện Hàn lâm, vừa tạo điều kiện thuận lợi để Viện Hàn lâm đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo cán bộ khoa học xã hội có trình độ cao trong giai đoạn tới. Đặc biệt, công tác đào tạo sau đại học của Viện Hàn lâm đã kết hợp ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn giữa sức mạnh chuyên ngành với sức mạnh đa ngành và liên ngành trong công tác nghiên cứu; đồng thời, đẩy mạnh đào tạo qua nghiên cứu theo phương châm: đưa những kết quả nghiên cứu mới nhất vào nội dung, chương trình đào tạo; gắn kết hài hoà việc trang bị kiến thức lý luận với kiến thức thực tiễn, kiến thức trong nước với kiến thức nước ngoài cho người được đào tạo; nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo,…

e) Công tác hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học xã hội ngày càng được đẩy mạnh; công tác thông tin, tạp chí và xuất bản đã có nhiều chuyển biến tích cực, tính hiện đại được nâng lên. Viện Hàn lâm cũng đã thực hiện đổi mới đồng bộ và toàn diện các mặt hoạt động trong công tác quản lý và tăng cường một bước cơ sở vật chất - trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực nội sinh, chất lượng và hiệu quả mọi mặt hoạt động của Viện.

2. Một số hạn chế

Bên cạnh những thành tựu chủ yếu nêu trên, công tác nghiên cứu, đào tạo và tuyển dụng cán bộ, tham mưu và tư vấn chính sách của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn bộc lộ một số mặt hạn chế sau đây:

- Chưa hình thành được một hệ thống lý luận về khoa học xã hội của Việt Nam.

- Sự phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước chưa chặt chẽ. Năng lực kết hợp nghiên cứu liên ngành và tiếp cận thông tin bên ngoài phục vụ nghiên cứu trong nước còn yếu.

- Sản phẩm nghiên cứu của Viện Hàn lâm cũng như các viện chuyên ngành trực thuộc tuy nhiều về số lượng, nhưng còn ít những công trình có giá trị cao về lý luận và thực tiễn, những công trình có giá trị khoa học tầm khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu góp phần nâng cao dân trí xã hội.

- Đội ngũ các nhà khoa học chủ chốt ngày càng mỏng, đặc biệt là thiếu cán bộ chuyên gia đầu ngành đủ năng lực chủ trì, triển khai các chương trình, đề tài trọng điểm.

- Mức đầu tư cho nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu, tuy đã khá hơn trước, nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu cũng như so với các lĩnh vực khoa học khác; đồng thời, cách đầu tư còn dàn trải, mang nặng tính chất hành chính sự nghiệp.

-  Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam còn nhiều lúng túng trong quá trình chuyển sang cơ chế quản lý mới theo Nghị định 115/2005-CP của Chính phủ.

2. Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030

1. Bối cảnh phát triển trong nước và quốc tế, những yêu cầu đặt ra đối với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030

a) Bối cảnh quốc tế

Đất nước ta bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh quốc tế đang biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trong những thập niên tới, hòa bình, hợp tác và cạnh tranh phát triển tiếp tục là xu thế chủ đạo, các nguồn lực sẽ được tập trung nhiều hơn cho phát triển kinh tế - xã hội, có khả năng tạo ra một giai đoạn phát triển mới và rộng lớn trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, xu hướng đối đầu, chiến tranh cục bộ, khủng bố quốc tế có thể vẫn tiếp tục xảy ra, lan rộng và gây bất ổn định thế giới. Điều đó buộc các quốc gia phải đối phó và tích cực phối hợp hành động, cùng nhau nỗ lực giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu.

Toàn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục là xu thế phát triển cả về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh.

Trong cục diện một thế giới phát triển năng động, có nhiều cơ hội và tiềm ẩn nhiều thách thức, vấn đề dân tộc và tôn giáo, con người và văn hóa, cộng đồng và cá nhân trở nên phức tạp và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của mỗi quốc gia.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thế giới đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc và phát triển mới với những biến đổi sâu sắc. Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và điều chỉnh các thế chế điều tiết kinh tế - tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước nhảy vọt về khoa học và công nghệ, sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, phát huy lợi thế cạnh tranh “động” do con người tạo ra vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới vẫn phải đối mặt với những khó khăn, tiềm ẩn nguy cơ của một đợt suy thoái mới (khủng hoảng nợ công ở châu Âu…); điều đó đòi hỏi các nước có những hành động phối hợp nhằm đối phó với các thách thức nói trên.

Trong tương quan sức mạnh và cục diện kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa trên thế giới biến động mạnh, xu hướng dịch chuyển trọng tâm phát triển sang khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Á ngày càng trở nên nổi bật. Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, như tranh chấp ảnh hưởng về nguồn lực, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên,… Trong bối cảnh ấy, Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng chịu sức ép nhiều hơn trước những thách thức lớn để bắt nhịp được với chiều hướng phát triển này.

b) Tình hình trong nước

Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có sự thay đổi một cách căn bản, toàn diện và sâu sắc trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được xác lập và từng bước hoàn thiện; đồng thời, hệ thống chính trị - xã hội cũng đang từng bước được đổi mới, tạo nên sự phù hợp hơn giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - hình thành cơ sở vững chắc cho sự ổn định và đồng thuận xã hội ở tầm vĩ mô.

Những thành tựu đạt được qua gần 30 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) đã làm cho sức mạnh tổng hợp, thế và lực phát triển của đất nước tăng lên đáng kể. Vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, mở rộng cơ hội và năng lực phát triển.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Đất nước vừa thoát khỏi nhóm các nước nghèo, mới gia nhập vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc, những yếu kém của nền kinh tế chậm được khắc phục, những vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn tiếp tục tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước trong những năm đầu của giai đoạn chiến lược mới. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá quyết liệt, tạo nên những nguy cơ tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị, xã hội không thể xem thường.

Trong bối cảnh và xu hướng phát triển đó,  Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phải tập trung nghiên cứu và giải đáp nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, đồng thời dự báo những vấn đề, xu hướng mới nảy sinh.

c) Những yêu cầu mới đặt ra đối với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Thứ nhất, yêu cầu tổng kết, đánh giá tình hình, đặc điểm của bối cảnh quốc tế, xác định rõ động thái phát triển của khu vực và thế giới, dự báo tác động của chúng đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020; đánh giá sát thực nội dung và tính chất của thời đại trong thế kỷ XXI; phân tích tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và bước chuyển sang kinh tế tri thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và con người Việt Nam; nhận rõ cục diện chính trị và trật tự kinh tế thế giới mới, sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn và vai trò của chúng đối với khu vực và quốc gia; xây dựng và thực hiện tốt chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ hai, tiếp tục tổng kết thực tiễn đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn 2011 - 2020. Nghiên cứu làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; làm sáng tỏ quan điểm, mô hình và giải pháp mới về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và xã hội…; đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội, đặc điểm của con người và nền văn hóa Việt Nam…

Thứ ba, nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực văn hóa mới phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, đồng thời bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.

Thứ tư, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ năm, phát triển khoa học xã hội đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí Việt Nam.

2. Quan điểm và mục tiêu phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030

  1. Quan điểm phát triển

Một là, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nghiên cứu và giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn của đất nước phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay, đồng thời đặt trong bối cảnh của khu vực và thế giới, tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa trí tuệ và tri thức của nhân loại.

Hai là, lấy thực tiễn và nhu cầu phát triển đất nước đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế làm đối tượng nghiên cứu quan trọng nhất của Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Ba là, Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 phải là một bộ phận cấu thành trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam.

Bốn là, Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 phải nhằm trước hết vào việc tăng cường năng lực nội sinh của Viện Hàn lâm và các đơn vị trực thuộc.

Năm là, đẩy mạnh đổi mới, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà nghiên cứu khoa học phát huy và cống hiến khả năng, trí tuệ và nhiệt huyết, góp phần phát triển mạnh mẽ ngành khoa học xã hội và nhân văn cả về số lượng và chất lượng.

b) Mục tiêu chiến lược

Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 tập trung vào các mục tiêu cơ bản sau đây:

Một là, phát triển  Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trở thành một trung tâm quốc gia hàng đầu về nghiên cứu cơ bản, tham mưu chính sách cũng như đào tạo các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, có những đóng góp thực sự quan trọng trong việc cung cấp căn cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; có uy tín cao trong nước và quốc tế; có vị thế, vai trò quan trọng trong sự nghiệp tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước giai đoạn 2011 – 2020 và những thập niên tiếp theo.

Hai là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học của Viện Hàn lâm cả về số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, các nhà khoa học kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ khoa học quan trọng, tham gia có hiệu quả vào hợp tác và hội nhập quốc tế.

Ba là, công bố những công trình nghiên cứu trọng điểm có giá trị cao để khẳng định vai trò, uy tín và ảnh hưởng của Viện Hàn lâm đối với đời sống khoa học nước nhà, được sử dụng vào các hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần phát triển kho tàng trí tuệ của khoa học xã hội Việt Nam nói riêng và văn hoá Việt Nam nói chung.

Bốn là, tiếp tục củng cố và phát huy vai trò chủ đạo, nòng cốt vốn có của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong một số lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn mà các trung tâm nghiên cứu và đào tạo khác ngoài Viện Hàn lâm không thể thay thế được, như khảo cổ học, dân tộc học, nghiên cứu tôn giáo, nghiên cứu Hán Nôm, nghiên cứu quốc tế ,… Phấn đấu đến năm 2020 đưa một số lĩnh vực khoa học chủ chốt vốn là thế mạnh của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đạt trình độ khu vực và thế giới.

c) Một số khâu đột phá chiến lược

Trong giai đoạn 2011 - 2020, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cần tập trung thực hiện các khâu đột phá chiến lược sau đây:

Thứ nhất, phát triển đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội vững mạnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý khoa học có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực khoa học xã hội.

Thứ hai, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại phục vụ nghiên cứu, đào tạo, tham mưu và tư vấn chính sách; trong đó, đặc biệt chú trọng nâng cấp và hiện đại hoá hệ thống thư viện - tư liệu, hoàn thiện Cổng thông tin điện tử của Viện cũng như website các đơn vị trực thuộc (cả tiếng Việt và tiếng Anh) ngang tầm khu vực và thế giới.

Thứ ba, đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa học, phân bổ đầu tư và sử dụng ngân sách Nhà nước có trọng tâm, trọng điểm nhằm phát huy tính dân chủ, tự chủ và sáng tạo của các nhà khoa học, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội.

Thứ tư, tăng cường và mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm quảng bá những thành tựu phát triển, các giá trị văn hoá của con người và dân tộc Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại với cộng đồng thế giới; đồng thời, chọn lọc và tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của khoa học xã hội thế giới để phát triển hơn nữa nền khoa học xã hội nước nhà nói chung, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói riêng.

Thứ năm, xây dựng và thực thi một chính sách cán bộ đúng đắn, chú trọng đào tạo lực lượng chuyên gia và cán bộ kế cận, thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở trong và ngoài nước, nhằm phát triển đội ngũ cán bộ khoa học xã hội hùng hậu cả về số lượng chất lượng, đủ sức giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, đồng thời hướng tới việc sáng tạo những công trình khoa học đạt chuẩn quốc gia, khu vực và thế giới.

3. Định hướng, nhiệm vụ nghiên cứu trong Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 2011- 2020, tầm nhìn 2030

  1. Định hướng nghiên cứu

Nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 kế hoạch 5 năm 2011- 2015 được Đại hội XI của Đảng thông qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phải tiếp tục nghiên cứu, luận giải những vấn đề có tầm chiến lược, căn bản mà giai đoạn trước đã đặt ra nhưng giải quyết chưa thấu đáo; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mới đặt ra trong giai đoạn 2011 - 2020; tham gia chuẩn bị các Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, các hướng nghiên cứu cần thể hiện được tầm nhìn dài hạn - đến năm 2050, nhằm trả lời câu hỏi: Việt Nam phải làm gì và làm thế nào để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp phát triển bền vững?

Mục tiêu phát triển dài hạn của nước ta đòi hỏi Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phải tập trung nghiên cứu, luận giải một cách kịp thời, khoa học và phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội Việt Nam để có những bước đi tạo nền tảng ban đầu cần thiết ngay trong giai đoạn 2011 - 2020.

Với cách tiếp cận trên, định hướng nghiên cứu khoa học của Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 là:

Thứ nhất, tập trung nghiên cứu, giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn và hội nhập quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá.

Thứ hai, cụ thể hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2011 - 2020; tham gia tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới và xây dựng cơ sở khoa học cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.

Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá - xã hội - môi trường, trong đó đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa các trụ cột của phát triển bền vững, giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, …

b) Những nhiệm vụ nghiên cứu

           Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo và quản lý đất nước, phát triển tiềm lực khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo và phổ biến tri thức khoa học xã hội và nhân văn cho nhân dân, trong giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cần tập trung nghiên cứu, luận giải những nhiệm vụ cơ bản sau đây:

- Đẩy mạnh nghiên cứu các vấn đề quốc tế: bản chất, đặc điểm và xu thế biến đổi của thế giới đương đại; những dự báo khoa học về sự điều chỉnh, thay đổi chiến lược, chính sách phát triển của các nước, nhất là các nước lớn có ảnh hưởng đến cục diện chính trị và trật tự kinh tế thế giới, có tác động mạnh đến lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng, đối ngoại… của Việt Nam. 

- Nghiên cứu với tư duy đổi mới những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định có căn cứ khoa học vững chắc (chú ý liên hệ, so sánh với các lý thuyết phát triển mới) những nguyên lý còn giữ nguyên giá trị cần được bảo vệ, kế thừa, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh mới của thời đại và đất nước. 

- Tiếp tục nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, làm sáng tỏ quan điểm của Người về mục tiêu đích thực, bản chất nhân đạo và nhân văn của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; những kiến giải sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh về giai cấp và dân tộc, về dân chủ và pháp quyền, về đảng cầm quyền, về phương thức kết hợp giữa sự phát triển kinh tế và phát triển xã hội, về vai trò soi đường của văn hóa trong phát triển…

- Nghiên cứu các trào lưu tư tưởng tiến bộ của nhân loại nhằm tìm ra những yếu tố hợp lý trong các lý thuyết phát triển đương đại của thế giới.

- Tổng kết thực tiễn 30, 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam.

- Nghiên cứu, luận giải khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn mới trong các Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Nghiên cứu những vấn đề mới của sự phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050.

- Nghiên cứu cơ sơ lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; về tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay.

-  Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn mới về Đảng cầm quyền.

- Nghiên cứu những vấn đề mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; về xã hội dân sự; về thực hiện dân chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội…

- Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, về xây dựng chuẩn mực văn hóa.

- Nghiên cứu những định hướng về phát triển, quản lý giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phục vụ phát triển đất nước giai đoạn 2011 - 2020.

- Nghiên cứu các vấn đề về mô hình, cơ cấu và biến đổi xã hội, thể chế phát triển và quản lý xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2011 - 2020.

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn mới về dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.

- Nghiên cứu cơ bản, toàn diện về con người và phát triển con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về phát triển nguồn nhân lực.

- Nghiên cứu các vấn đề mới về quốc phòng, an ninh.

- Nghiên cứu những vấn đề về phát triển bền vững vùng, liên kết vùng.

- Nghiên cứu các vấn đề trọng điểm về sử học, khảo cổ học, dân tộc học học, văn học, ngôn ngữ, tôn giáo, nghiên cứu lý thuyết và triển khai biên soạn Bách khoa thư Việt Nam… 

- Tiếp tục nghiên cứu, biên soạn và xuất bản một số công trình trọng điểm quốc gia tiêu biểu cho tinh hoa của khoa học xã hội Việt Nam.

          3. Hệ thống giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu, thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam  giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030

1. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển của Viện gắn với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn

a) Quy hoạch xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức

Xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống tổ chức nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội của Viện Hàn lâm trên 2 ưu tiên sau:

- Kiện toàn, hợp lý hoá và xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển cơ cấu tổ chức các đơn vị nghiên cứu và đào tạo hiện có của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ở Hà Nội và một số thành phố lớn; đồng thời, nâng cấp một số viện nghiên cứu chuyên ngành có vai trò quan trọng lên tầm quốc gia, đầu ngành.

- Kiện toàn lại các viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Bắc Bộ, thực hiện tốt sự kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai, tư vấn chính sách và đào tạo nguồn nhân lực tại một số vùng lãnh thổ và địa phương trọng yếu.

Cụ thể là, từ năm 2011 đến 2015, tập trung kiện toàn và đổi mới cơ cấu tổ chức các đơn vị nghiên cứu và đào tạo hiện có theo Nghị định số 109/2012/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 26/12/2012, nhất là đối với các đơn vị mới thành lập. Đổi tên, xác định lại phương hướng nghiên cứu và hoạt động của các viện phát triển bền vững vùng thành viện nghiên cứu đa ngành về khoa học xã hội vùng. Kiện toàn hoạt động của Học viện Khoa học xã hội theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo của Học viện với hoạt động nghiên cứu của các viện chuyên ngành; thực hiện phân cấp có hiệu quả về hoạt động đào tạo cho các khoa. Từ năm 2016 đến 2020, tập trung đầu tư chiều sâu về cơ sở vật chất - trang thiết bị kỹ thuật hiện đại cho các viện nghiên cứu, và chú trọng phát triển nguồn nhân lực khoa học của Viện Hàn lâm, nhất là cán bộ khoa học, cán bộ quản lý có trình độ cao. Đồng thời, sau khi hình thành Cổng thông tin điện tử giai đoạn 2012-2015, nâng cấp đầu tư xây dựng các trung tâm thông tin khoa học xã hội có đủ điều kiện, phương tiện hiện đại để khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu và đào tạo, công tác lãnh đạo và quản lý.

b) Quy hoạch xây dựng và phát triển nguồn nhân lực về khoa học xã hội

- Quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học của Viện Hàn lâm giai đoạn 2011 - 2020 với cơ cấu hợp lý, đồng bộ, có sự tiếp nối giữa các thế hệ cán bộ khoa học. Đội ngũ này phải có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, có trình độ nghiên cứu cơ bản, có năng lực chuyên môn cao để xử lý những vấn đề do thực tiễn đất nước và bản thân các lĩnh vực khoa học xã hội đặt ra trong quá trình phát triển. Cần đặc biệt chú ý tới việc xây dựng đội ngũ chuyên gia khoa học trong từng lĩnh vực, nhất là chuyên gia đầu ngành và các nhà khoa học làm công tác quản lý, có trình độ chuyên nghiệp cao, có năng lực nghiên cứu và giải quyết những vấn đề ở tầm chiến lược, vĩ mô. Phát hiện và có chế độ đào tạo đặc biệt đối với những nhân tài khoa học xã hội của Viện Hàn lâm.

- Quy hoạch xây dựng nguồn nhân lực khoa học xã hội gắn liền với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phân ra từng giai đoạn với nội dung, mục tiêu cụ thể, rõ ràng, trong đó, cần ưu tiên đào tạo cán bộ có trình độ cao cho những chuyên ngành khoa học xã hội có liên quan trực tiếp tới những vấn đề quốc kế dân sinh. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao đối với đội ngũ cán bộ khoa học xã hội bằng những phương pháp và hình thức hiện đại, phù hợp với yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực khoa học này.

- Cùng với việc xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội ở trong nước, cần có cơ chế và chính sách hợp lý, hiệu quả hơn trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài, kể cả việc thu hút các nhà khoa học Việt kiều về Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam làm việc với các hình thức phù hợp. Đồng thời, tạo điều kiện cho cán bộ khoa học của Viện đi nghiên cứu, trao đổi khoa học, làm việc có thời hạn tại các trung tâm nghiên cứu và các trường đại học có danh tiếng ở nước ngoài để học hỏi, tiếp thu tri thức, tư duy, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu hiện đại. Đổi mới cơ chế quản lý tạo điều kiện thuận lợi để các Viện chuyên ngành đẩy mạnh hợp tác, hội nhập và sớm bắt kịp trình độ khoa học xã hội của các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Chú trọng cải thiện điều kiện sống và làm việc của đội ngũ cán bộ khoa học và phục vụ khoa học của Viện Hàn lâm. Đảm bảo cho cán bộ khoa học sống được bằng chính lao động khoa học của mình, tạo điều kiện tái sản xuất sức lao động cho đội ngũ cán bộ khoa học, sự hấp dẫn và trọng thị đối với loại hình nghề nghiệp đặc thù này trong xã hội.

c) Quy hoạch xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội

Một là, hiện đại hoá cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật đồng bộ cho các đơn vị thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhất là các đơn vị có vai trò quan trọng, đầu ngành. Đặc biệt, cần có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại ngay đối với các viện nghiên cứu mới thành lập, nhất là các viện khoa học xã hội vùng.

Hai là, xây dựng và trang bị kỹ thuật hiện đại cho hệ thống thư viện - tư liệu theo hướng thư viện điện tử, kỹ thuật số hoá, tạo ra ngân hàng dữ liệu quốc gia về khoa học xã hội tại Viện. Trước mắt, nâng cấp Thư viện Khoa học xã hội (Thư viện tổng hợp Viện Thông tin khoa học xã hội) và Thư viện Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ đạt trình độ khu vực và thế giới.

- Nâng cấp website thành Cổng thông tin điện tử của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và tiến hành nối mạng rộng rãi với các trung tâm thông tin khoa học xã hội trong nước, khu vực và thế giới. Làm giàu các ngân hàng dữ liệu bằng việc tăng cường trao đổi, khai thác những thông tin về khoa học xã hội của các nước trên thế giới, tổ chức quốc tế và trên mạng Internet. Việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của hệ thống thông tin - thư viện phục vụ nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội cần được ưu tiên đi trước một bước.

2. Tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoa học xã hội, đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam sẽ xây dựng một chiến lược hợp tác quốc tế về khoa học xã hội, trong đó thể hiện rõ mục tiêu và hiệu quả của việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoa học xã hội trên các phương diện: nghiên cứu, đào tạo, hoạt động tạp chí và xuất bản. Ưu  tiên cho việc đào tạo nhân lực trình độ cao về khoa học xã hội tại những quốc gia và trung tâm khoa học có danh tiếng trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, mở rộng việc đào tạo cán bộ khoa học xã hội cho nước ngoài tại Việt Nam. Đặc biệt, cần khuyến khích, thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học nước ngoài vào Việt Nam tham gia đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, huấn luyện phương pháp nghiên cứu, nhất là một số chuyên ngành khoa học xã hội mà Việt Nam chưa có thế mạnh.

Đi đôi với việc tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ, đẩy mạnh liên kết, hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học xã hội mà các bên cùng quan tâm; trong đó, đặc biệt chú trọng liên kết, hợp tác với các Viện Hàn lâm khoa học, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu lớn, có tiềm lực khoa học mạnh theo chương trình ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với các nước, giữa Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Đồng thời, mở rộng hình thức hợp tác, liên kết với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới để tăng thêm nguồn lực phát triển, nâng cao vị thế của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

3. Tăng cường và phát triển năng lực nội sinh của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Để thực hiện Chiến lược phát triển Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030, Viện Hàn lâm đặc biệt chú trọng tới những vấn đề sau:

Một là, đội ngũ cán bộ khoa học xã hội phải đổi mới tư duy và phương pháp nghiên cứu, luôn cập nhật những kiến thức cần thiết để có thể thích ứng với tốc độ phát triển nhanh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề hoàn toàn mới nảy sinh trong quá trình phát triển; có khả năng dự báo, nhận thức trước những xu hướng phát triển; cập nhật thường xuyên về thông tin, giỏi ngoại ngữ, làm chủ được những phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo, tư vấn chính sách,… Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam sẽ tập trung xây dựng chiến lược đào tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao nhằm bồi dưỡng và làm phong phú thêm những tri thức và năng lực mới cho đội ngũ cán bộ khoa học, giúp họ có đủ khả năng thích ứng trước mọi thực tiễn mới trong sự phát triển của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam ở những thập niên tới. Đồng thời, Viện Hàn lâm có chủ trương mời các chuyên gia giỏi ở nước ngoài tham gia, phối hợp nhóm chuyên gia của Viện trong các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và tư vấn chính sách.

Hai là, chiến lược đào tạo và phát triển Học viện Khoa học xã hội phải được xây dựng cho giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030, được dựa theo chuẩn mực khu vực và thế giới. Nhanh chóng củng cố học viện đào tạo theo định hướng nghiên cứu, địa chỉ tin cậy của giới khoa học xã hội trẻ cả nước. Các cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới phải có tri thức cơ bản và hiện đại, đủ trình độ nghiên cứu, giải đáp những vấn đề của thực tiễn Việt Nam, đủ khả năng giao lưu, đối thoại với các nhà khoa học xã hội các nước trong khu vực và trên thế giới; có hoài bão, khát vọng vươn tới những đỉnh cao mới của khoa học; kiên trì trau dồi tri thức, không ngừng học tập và học tập suốt đời để bắt kịp và tiếp thu một cách sáng tạo những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất của nhân loại. Đây là cách để nâng cao tiềm lực nội sinh của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đồng thời góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho cả nước, đủ khả năng đáp ứng mọi đòi hỏi và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới.

4. Đề xuất đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đối với hoạt động khoa học xã hội của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

a) Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học xã hội

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động khoa học xã hội là yêu cầu quan trọng và hết sức cần thiết.

Một mặt, Đảng lãnh đạo các hoạt động khoa học xã hội thông qua những định hướng cơ bản và chiến lược phát triển, thông qua hệ thống các chương trình đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu giao cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Mặt khác, khoa học xã hội là một lĩnh vực khoa học độc lập, có những tính chất đặc thù so với các lĩnh vực khoa học và công nghệ khác; do vậy, cần tiếp tục và không ngừng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động của lĩnh vực khoa học này theo hướng phát huy tự do, dân chủ trong nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn và phản biện xã hội.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học xã hội tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Đảng cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho tự do sáng tạo nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức khoa học xã hội. Thực thi dân chủ hoá trong công tác nghiên cứu về khoa học xã hội.

Thứ hai, tiếp tục thực hiện cơ chế đưa khoa học xã hội tham gia cung cấp và xây dựng những luận cứ khoa học cho mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tham gia thẩm định những dự án lớn về kinh tế - xã hội, phản biện các dự luật, các quyết sách trước khi ban hành thực hiện.

Thứ ba, thông qua hệ thống tổ chức của Đảng, Đảng giao và có cơ chế kiểm tra hệ thống các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm thi hành các chiến lược, quy hoạch phát triển, chính sách đầu tư và quản lý hoạt động khoa học xã hội đã được Đảng chỉ đạo và Nhà nước phê duyệt cho ngành khoa học xã hội nói chung, cho Viện Khoa học xã hộ nói riêng.

          b) Đổi mới chính sách đầu tư cho khoa học xã hội

Nhà nước cần có chính sách đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản cũng như nghiên cứu ứng dụng, điều tra, nghiên cứu tổng kết thực tiễn… của lĩnh vực khoa học xã hội. Trước mắt, Nhà nước cần nâng mức đầu tư cho khoa học xã hội tương đương mức đầu tư cho khoa học tự nhiên cũng như khoa học kỹ thuật và công nghệ trong tổng số 2 - 2,2% chi ngân sách cho hoạt động khoa học và công nghệ hàng năm. Đến năm 2015 và năm 2020, một mặt, nâng mức đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 2,5 - 3% và 3,5 - 4% tương ứng với thời gian trên trong tổng chi ngân sách hàng năm – tương đương với mức đầu tư của các nước có nền kinh tế và khoa học phát triển hiện nay; mặt khác, nghiên cứu, xác định tỷ lệ đầu tư hợp lý giữa ba lĩnh vực: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ và nâng mức đầu tư cho Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, để khoa học xã hội có thêm nguồn đầu tư cho các hoạt động khoa học nói chung, cho nghiên cứu cơ bản nói riêng.

Cần có chính sách tạo thị trường và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư khoa học xã hội bằng con đường ký kết hợp đồng xây dựng và thực hiện các chương trình đề tài, dự án khoa học với các bộ, ngành và địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua các dịch vụ khoa học; đồng thời, tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan, tổ chức khoa học xã hội tự tìm kiếm, huy động các nguồn vốn phục vụ nghiên cứu và đào tạo không trái với pháp luật. Cần có quy định buộc các dự án đầu tư, các doanh nghiệp dành một phần vốn của mình cho hoạt động đánh giá, thẩm định, phản biện những vấn đề có liên quan tới khoa học xã hội trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

c) Đổi mới cơ chế quản lý đối với hoạt động khoa học xã hội

Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp đối với hoạt động khoa học xã hội. Bộ Khoa học và Công nghệ và Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh, thành phố cần có một bộ phận nghiên cứu triển khai về khoa học xã hội đủ mạnh, đủ năng lực thực hiện những chức năng và nhiệm vụ quản lý về khoa học xã hội được Nhà nước giao.

Cần sớm khắc phục triệt để tình trạng hành chính hoá trong việc quản lý hoạt động khoa học xã hội bằng cách đổi mới căn bản cơ chế phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước thông qua chế độ đấu thầu chương trình đề tài và dự án khoa học các cấp; thông qua chế độ xét chọn đề tài, dự án và khoán gọn toàn bộ kinh phí đề tài, dự án dựa trên kết quả đầu ra theo hợp đồng khoa học, đồng thời nâng cao hiệu quả và chất lượng của khâu tuyển chọn người, cơ quan chủ trì và khâu nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu của đề tài, dự án khoa học.

Cần xây dựng các quy định đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước có căn cứ khoa học theo loại hình nghiên cứu, ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận, hoạch định đường lối, chính sách; chú trọng đúng mức đầu tư để hoàn thành dứt điểm những quy trình, phát minh sáng chế, các lĩnh vực cần có sản phẩm cụ thể.

Áp dụng rộng rãi, triệt để và khách quan chế độ hợp đồng quỹ lương đối với cán bộ nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội, nhằm tạo cho các lĩnh vực khoa học này một đội ngũ cán bộ có hoài bão và lý tưởng, có tinh thần trách nhiệm, có trình độ chuyên môn và học vấn cao đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài của đất nước cũng như sự phát triển trong từng lĩnh vực khoa học xã hội của Viện.

5. Kiến nghị

Để phát triển khoa học xã hội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế giai đoạn 2011 - 2020 và những năm tiếp theo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trân trọng kiến nghị Đảng, Nhà nước và Chính phủ các vấn đề sau:

- Nghiên cứu xây dựng và sớm thực hiện cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, thu hút, bồi dưỡng và trọng dụng các nhân tài khoa học, nhất là nhân tài trong các lĩnh vực khoa học xã hội. Nhằm thực hiện có hiệu quả vấn đề này, cần có chính sách phát triển mạnh tiềm lực khoa học xã hội, đặc biệt là đội ngũ khoa học có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành - một trong 3 khâu đột phá quan trọng của Chiến lược khoa học xã hội hiện nay để ngành khoa học xã hội Việt Nam tiến kịp, tiến cùng thời đại.

- Tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh để sớm ban hành thực hiện “Quy chế dân chủ nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tự do sáng tạo để khai thác mọi tiềm năng trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và công nghệ” (gọi tắt là Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận).

- Những người làm công tác nghiên cứu khoa học xã hội chưa được sử dụng một cách thường xuyên và có hệ thống trong thảo luận, góp ý các quyết sách, đề án lớn của Đảng và đất nước. Vì vậy, đề nghị bổ sung nhiệm vụ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về thẩm định các đề án lớn trước khi trình Đảng và Nhà nước.

 


([1]) Trong phần này, chúng tôi kế thừa, tiếp thu một số tư liệu trong công trình: “Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia 40 năm xây dựng và trưởng thành” của GS. Văn Tạo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; công trình “Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia 50 năm xây dựng và phát triển”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.

([2]) Xem bài phát biểu của đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nhân kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử-Địa lý - Văn học Việt Nam, Hà Nội, 1983.

(1) Xem bài phát biểu của đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nhân kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học Việt Nam, Hà Nội, 1983.

(2) Trích quyết định số 34QN/TW ngày 2/12/1953 của BCHTW Đảng về việc thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học Việt Nam.

(3) Ngày từ đầu những năm 1954, nhà văn Hoài Thanh đã xin không tham gia hoạt động của Ban để đảm nhận công tác văn học đang rất nặng nề lúc đó và được Ban tán thành nên từ đó công tác nghiên cứu văn học của Ban là do nhà văn Vũ Ngọc Phan, ủy viên của Ban chịu trách nhiệm.

(4)  Số cán bộ, nhân viên 14 người này của Ban có danh sách, sơ yếu lý lịch, ảnh kèm theo và ngày vào ở Ban Nghiên cứu Văn-Sử-Địa được in trong cuốn “Ban Văn-Sử-Địa (1953-1959)” do Viện Sử học Việt Nam xuất bản năm 1993 (trang 98-99). Trong số cán bộ, nhân viên của Ban Văn-Sử-Địa lúc đó, cán bộ nghiên cứu có: Lê Toại (bút danh Hướng Tân), nghiên cứu về địa lý kiêm công tác hành chính; Nguyễn Đổng Chi (bút danh Bạch Hào), nghiên cứu về cổ sử; Phạm Trọng Điềm, phiên dịch về cổ văn kiêm công tác tài chính;  Nguyễn Xuân Đào (bút danh Văn Tạo), nghiên cứu về lịch sử cận, hiện đại kiêm công tác tổ chức; Nguyễn Công Phan (bút danh Nguyễn Công Bình), nghiên cứu lịch sử cận, hiện đại; Phan Khôi, nghiên cứu về văn học, thuộc biên chế Hội Nhà văn, cộng tác viên thân cận của Ban; Lê Hằng Phương (bút danh Hằng Phương), thuộc biên chế Hội Nhà văn, công tác viên thân cận của Ban, làm tập san Văn-Sử-Địa; và cùng chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô còn có nhà báo Nguyễn Hữu Đang nhưng không thuộc biên chế Ban Văn-Sử-Địa.

(1) Từ Bộ Giáo dục sang có các nhà sử học Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh, nhà địa lý học Lê Xuân Phương, nhà giáo dục Thành Thế Vĩ. Từ Ban Dân tộc Trung ương chuyển sang có nhà dân tộc học Lã Văn Lô. Từ khu Học xá Trung ương về có các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa như Văn Tân, Trần Văn Giáp, Trần Văn Khang, Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Hồng Phong. Chuyển từ quân đội sang có các nhà nghiên cứu lịch sử học, văn học như Nguyễn Khắc Đạm, Phan Gia Bền, Mai Thế Hanh, Nguyễn Việt. Trí thức Thủ đô ở lại với chế độ mới có nhà nghiên cứu Hoa Bằng, nhà Hán học Cao Huy Giu. Trí thức từ nông thôn ra có nhà Hán học Nguyễn Ngọc Tỉnh, Nguyễn Trọng Hân, các nhà nghiên cứu sử học Đặng Việt Thanh, Nguyễn Đức Đàn, Hồ Tuấn Niêm, các tập sự nghiên cứu có Mạc Đường, Dương Kinh Quốc, Nguyễn Danh Phiệt…Một số nhà phiên dịch Hán-Nôm gồm hơn 10 cử nhân, tú tài Hán học cũng được mời tham gia với chế độ hợp đồng. (Xem: GS. Văn Tạo: Trung tâm KHXH&NV QG40 năm xây dựng và trưởng thành – NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1995, trang 6 và cuốn “Ban Văn-Sử-Địa 1953-1959”, tài liệu đã dẫn.

(2)  Nhà xuất bản Văn-Sử-Địa do nhà văn Vũ Ngọc Phan phụ trách. Đầu năm 1959 chuyển sang cho đồng chí Văn Tạo (nguyên là Chánh Văn phòng Ban) làm Chủ nhiệm để chuẩn bị chuyển sang thành Nhà Xuất bản Sử học.

(1) Lúc ở Tân Trào mới có 1 cán bộ nghiên cứu về địa lý là đồng chí Hướng Tân (tức đồng chí Lê Toại), khi về tiếp quản Hà Nội có thêm đồng chí Lê Xuân Phương từ Bộ Giáo dục chuyển sang làm Tổ trưởng Tổ Địa lý, sau đó tiếp nhận 2 nhà địa lý học lão thành từ miền Nam ra Bắc tập kết là Võ Văn Nhung và Võ Văn Nguyên.

(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 BCHTW Đảng khóa II (11/1958). Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, trang 7, 16,46.

(2) Công báo số 9 năm 1959, tr.137.

(3)  Theo GS. Văn Tạo, ngày 19/9/1993, đồng chí Trần Quang Huy cho biết lúc đó đồng chí nhận được công văn của Bí thư Trung ương Đảng cử làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước phụ trách KHXH (xem: GS. Văn Tạo, tài liệu đã dẫn, tr.38).

4 Xem: GS.Văn Tạo, tài liệu dẫn, tr. 38.

---------------------

(1)  Xem: GS.Văn Tạo, tài liệu dẫn, tr. 41.

(2) Công báo số 14 ngày 1/11/1965, tr. 205, 206.

(1) Nguyễn Khánh Toàn, Tạp chí Học tập, số 5/1967.

(1)  Công báo số 7, tháng 8/1967, trang 106.

(1) Báo cáo kiểm điểm công tác năm 1967 và phương hướng nhiệm vụ năm 1968 của Ủy ban KHXH Việt Nam (Báo cáo số 158/KHXH).

(2) GS.Văn Tạo, tài liệu đã dẫn, tr. 57.

(1)  GS.Văn Tạo, tài liệu đã dẫn, tr. 59-60.

(1) GS.Văn Tạo, tài liệu đã dẫn, tr. 61-62.

---------------------

(1) Quy chế tổ chức và hoạt động của Viện KHXH tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Ủy ban KHXH Việt Nam, số 534/KHXH ngày 5/7/1978, tr.1.

(1) Báo cáo công tác năm 1984 và Tờ trình về công tác của Ủy ban KHXH Việt Nam số 1702/KHXH năm 1985.

---------------------

(1) Những đề nghị trong Tờ trình về công tác của Ủy ban KHXH Việt Nam gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng số 1702/KHXH năm 1982.

(1) Báo cáo công tác năm 1985 và phương hướng công tác năm 1986 của Ủy ban KHXH Việt Nam ngày 15/2/1986.

(1) Các phần trong ngoặc kép là trích Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. Số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991, trang 1-5.

(1) 5 chương trình nghiên cứu trọng điểm đó là: Chương trình A: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ Việt Nam, gồm 8 đề tài. Chương trình B: Một số vấn đề cơ bản và cấp bách của cách mạng tư tưởng và văn hóa trong giai đoạn hiện nay, gồm 14 đề tài. Chương trình C: Tình hình Thế giới và cơ sở khoa học của đường lối đối ngoại của Đảng, gồm 5 đề tài. Chương trình D: Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng giữa 2 hệ thống thế giới, gồm 6 đề tài, Chương trình E: Điều tra cơ bản các vùng trọng điểm của đất nước, gồm 8 đề tài.

(1Có thể nêu lên một số Dự án lớn như sau:

- Điều tra, sưu tầm, bảo quản, phiên dịch và xuất bản kho tàng Sử thi Tây Nguyên.

- Điều tra tổng thể tư liệu văn học Việt Nam 10 thế kỷ.

- Điều tra cơ bản các ngôn ngữ ở Việt Nam.

- Dự án tổng thể về bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu, khai thác di sản Hán Nôm và đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm.

- Điều tra xác định các thành phần dân tộc Việt Nam.

- Điều tra bổ sung, tổng kết thực tiễn kinh tế-xã hội và đề xuất những giải pháp phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Điều tra cơ bản định kỳ về thực trạng kinh tế-xã hội-văn hóa của các vùng và các tầng lớp dân cư nhằm phục vụ cho nghiên cứu chính sách phát triển ở Việt Nam.

- Điều tra cơ bản về môi trường xã hội nhân văn và xây dựng luận cứ khoa học hoàn thiện các chính sách tái định cư nhân dân phục vụ xây dựng thủy điện Sơn La.

- Điều tra tổng thể về lịch sử, văn hóa, xã hội địa bàn Tây Nguyên phục vụ xây dựng chiến lược vùng Tây Nguyên.

(1)  Phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 1996, Báo Nhân dân ngày 2-3-1996.

(2) Phát biểu của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 1998, Báo Nhân dân ngày 18-2-1998.

(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong lần đến thăm và làm việc với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vào năm 2002, Báo Nhân dân ngày 29-4-2002.

(1)  Đồng chí Phạm Xuân Nam được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHXH Việt Nam ngày 16/2/1987.

(2) Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

(1)  Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

(2) Ngày 5/3/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 56/1998/QĐ-TTg về việc đổi tên Trung tâm Nghiên cứu SNG và Đông Âu trực thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu.

1 Trong phần này, chúng tôi kế thừa, tiếp thu các tư liệu trong công trình “Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia 50 năm xây dựng và phát triển”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.

(1)  Công báo số 7 tháng 8/1967, tr. 106) thì mới chính thức có Thư viện Khoa học xã hội - cơ quan phục vụ KHXH&NV đầu tiên ở nước ta.

1  Năm 1975, Viện Hàn lâm có 7 tạp chí: Triết học, Luật học, Nghiên cứu Lịch sử, Dân tộc học, Văn học, Ngôn ngữ học, Thông tin KHXH. Đến năm 1985, Viện Hàn lâm đã hình thành 12 tạp chí: Tạp chí Triết học, Tạp chí Xã hội, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Khảo cổ học, Tạp chí Dân tộc học, Tạp chí Văn học, Tạp chí Ngôn ngữ, Tạp chí Văn học Dân gian, Tạp chí Thông tin KHXH và Tạp chí Việt Nam - KHXH (Nga, Anh, Pháp).

 

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

In trang Chia sẻ

Tin khác