Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIV

15:58 05/05/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Đây không chỉ là một yêu cầu khách quan xuất phát từ bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa- nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân- mà còn là động lực để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, bảo đảm vững chắc các quyền con người, quyền công dân, phát huy dân chủ, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đến nay, quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển và làm rõ qua từng kỳ đại hội. Sự phát triển này thể hiện sự nhạy bén trong tư duy, sự nắm bắt kịp thời các xu thế của thời đại và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ đó, chúng ta đã xây dựng được một nền tảng lý luận vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Sự phát triển lý luận của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từ Đại hội VII đến Đại hội XIII

Đại hội VII (1991) là bước ngoặt quan trọng khi lần đầu tiên Đảng ta chính thức chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ Nhà nước hành chính, quan liêu bao cấp, tổ chức và hoạt động theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động mới, là một bước đột phá về nhận thức tư duy, lý luận để từng bước chỉ đạo quá trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã đề ra một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước mới là xác định Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thống nhất ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng là bước đổi mới rất cơ bản trong tư duy để đề ra chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) khẳng định. Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được sử dụng. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là một định hướng cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính” (1-1995) đã đánh giá những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta và đặt ra những yêu cầu trước tình hình mới. Nghị quyết đề ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa. Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 để thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta đã trang trọng ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[1].

Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền và nhấn mạnh yêu cầu: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Văn kiện Đại hội xác định vai trò trung tâm của pháp luật trong điều chỉnh hành vi xã hội và thiết lập cơ chế pháp lý cho các lĩnh vực quản lý nhà nước.

Tại Đại hội IX (năm 2001) Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tiếp sau đó, sự nhất quán và những phát triển trong quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong văn kiện Đại hội X của Đảng (4-2006) khi Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp đổi mới. Đại hội X nhấn mạnh: “Phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định định hướng chiến lược: “Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”. Trong nội dung này, vấn đề xây dựng cơ chế phán quyết đối với các hành vi vi phạm Hiến pháp trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được đặt ra một cách rõ nét. Đây có thể được coi là một bước tiến mới trong nhận thức lý luận, thể hiện sự chuyển biến có tính chất đột phá trong tư duy về kiểm soát quyền lực nhà nước. Quan điểm này đã được cụ thể hóa trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi xác lập nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc nêu trên sau đó đã được Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa thành nguyên tắc hiến định, làm cơ sở để thiết lập hệ thống các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm: cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước; cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; và cơ chế kiểm soát quyền lực theo luật định.

Tại Đại hội XII (tháng 1 năm 2016), Đảng tiếp tục thể hiện sự kiên định trong quan điểm thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong bối cảnh giai đoạn phát triển mới. Văn kiện Đại hội đã xác lập rõ định hướng chiến lược: Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành một cách đồng bộ trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời gắn kết chặt chẽ với tiến trình đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng đề ra nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu xác lập một cách rõ ràng cơ chế phân công và phối hợp trong thực thi quyền lực nhà nước, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trên nền tảng quyền lực nhà nước là thống nhất, song phải xác định rành mạch quyền hạn và trách nhiệm của từng quyền. Đáng chú ý, đây cũng là lần đầu tiên trong văn kiện đại hội, Đảng chính thức khẳng định nguyên tắc: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền.” Sự khẳng định này đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy chính trị - pháp lý của Đảng, thể hiện quyết tâm thể chế hóa các nguyên tắc pháp quyền vào tổ chức và hoạt động thực tiễn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[2]

Đại hội XIII (2021) là bước phát triển cao về lý luận và thực tiễn khi đặt Nhà nước pháp quyền XHCN vào trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia. Đại hội nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[3]. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước… Văn kiện Đại hội XIII đã cụ thể hóa nhiệm vụ này thành các nội dung toàn diện và phong phú, từ xây dựng Nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại đến xây dựng bản chất chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Nhìn chung, qua các kỳ Đại hội Đảng từ lần thứ VII đến lần thứ XIII, tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển vượt bậc. Từ chỗ chỉ mới manh nha, đến nay, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các nguyên tắc, đặc trưng và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Sự phát triển này không chỉ thể hiện sự trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng mà còn phản ánh quá trình tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục, như sự thiếu đồng bộ giữa lý luận và thực tiễn, sự chậm trễ trong việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành pháp luật, và tình trạng thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.

Những điểm mới về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng XIV

Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, dự kiến được thông qua vào năm 2026, hứa hẹn sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng đã chỉ ra một số điểm mới về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Tư duy hệ thống và toàn diện

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, thể hiện một tư duy hệ thống và toàn diện. Điểm mới ở đây không chỉ là sự nhấn mạnh vào các yếu tố cấu thành Nhà nước pháp quyền (như phân định quyền lực, kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng pháp luật) mà còn là sự kết nối chặt chẽ giữa các yếu tố này trong một chỉnh thể thống nhất, hướng đến mục tiêu cao nhất là "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo".

Luận điểm này thể hiện sự kế thừa và phát triển tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời phản ánh yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước. Trong bối cảnh mới, Nhà nước không chỉ đơn thuần là công cụ quản lý xã hội mà còn phải là chủ thể kiến tạo phát triển, bảo đảm hài hòa các lợi ích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội: Nâng cao vai trò đại diện và lập pháp

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đồng thời đề ra những yêu cầu mới về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điểm mới ở đây là sự chú trọng đến tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, công khai, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội.

Việc đổi mới tư duy, quy trình xây dựng luật, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật được xem là một trong những nhiệm vụ then chốt. Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vai trò của pháp luật trong việc định hướng, điều chỉnh và thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Pháp luật không chỉ là công cụ để quản lý xã hội mà còn phải là động lực để khơi thông nguồn lực, giải phóng năng lực sáng tạo và tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Thứ ba, cải cách hành chính: Xây dựng nền hành chính kiến tạo và phục vụ

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả. Điểm mới ở đây là sự nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong xây dựng thể chế phát triển, quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.

Việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phối hợp và kiểm tra giám sát được xem là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Đồng thời, việc xây dựng nền hành chính hiện đại, chính phủ số cũng được đặc biệt quan tâm, nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, đổi mới tư pháp: Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, công bằng và nghiêm minh

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục khẳng định yêu cầu đổi mới tổ chức tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân. Điểm mới ở đây là sự nhấn mạnh đến việc hoàn thiện các thiết chế trợ giúp pháp lý, bổ trợ tư pháp và các thiết chế khác, nhằm xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính.

Việc nâng cao hiệu quả các cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án cũng được đặc biệt quan tâm, nhằm giảm tải cho hệ thống tòa án và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự và kinh tế.

Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý và quản trị phát triển: Tháo gỡ điểm nghẽn và khơi thông nguồn lực

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao năng lực hiệu lực hiệu quả quản lý, quản trị phát triển. Điểm mới ở đây là sự tập trung vào việc tháo gỡ các nút thắt, điểm nghẽn trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện.

Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính cũng được xem là một trong những nhiệm vụ then chốt. Đồng thời, việc xây dựng cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ xứng đáng để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác, thực hiện nghiêm trách nhiệm và đạo đức công vụ cũng được đặc biệt quan tâm.

Những điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện sự đổi mới tư duy, tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của Đảng trong giai đoạn phát triển mới. Việc thực hiện thành công những định hướng này sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.


[1] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013, 1992, 1980, 1959, 1946), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2014, tr. 67

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 39  - 40, 175

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của BCH Trung Ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Tập I, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.174

Nguồn: Viện Nhà nước và Pháp luật

Tác Giả: PGS. TS. Dương Quỳnh Hoa

In trang Chia sẻ

Tin khác