Tại Đại hội XIII, Đảng đã xác định một trong những yếu tố phải phát triển mạnh mẽ là văn hóa. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng khẳng định phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa vào công cuộc phát triển bền vững của đất nước. Thực tiễn phát triển thời gian qua đã chứng minh tính đúng đắn và sâu sắc của định hướng này. Lịch sử cho thấy, trong mọi thời kỳ, tự lực, tự cường luôn là giá trị cốt lõi dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đến Dự thảo, Đảng nêu rõ, nếu như trong những thời kỳ trước, tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do, thì trong thời đại ngày nay, tự lực, tự cường còn là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc.
Một trong những yếu tố riêng có của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc chính là văn hóa, cho nên việc Dự thảo xác định phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Nếu như khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có thể được nghiên cứu, học tập và tiếp thu từ bên ngoài một cách tương đối trọn vẹn, thì văn hóa lại không thể sao chép hay vay mượn nguyên vẹn. Bởi, những giá trị nội sinh của văn hóa thể hiện chính bản chất, nền tảng để phát triển con người Việt Nam.
Quan điểm về xây dựng “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã được Đảng ta khẳng định qua nhiều kỳ Đại hội. Trong Dự thảo, quan điểm này tiếp tục được khẳng định và trở thành mục tiêu trọng tâm để phát triển văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là cơ sở, nền tảng để phát triển con người toàn diện, đồng thời, hiện diện sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến tôn giáo và các hoạt động xã hội khác. Tất cả các mặt này đều thể hiện và chịu sự chi phối mạnh mẽ của văn hóa dân tộc. Chính điều đó đã làm nên đặc trưng ứng xử và lối sống của con người Việt Nam. Kế thừa các Đại hội trước, trong Dự thảo lần này, Đảng tiếp tục xác định văn hóa, cùng với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường, là những lĩnh vực cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế để tạo động lực cho sự phát triển, nhưng nhấn mạnh yêu cầu phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng đã được Đảng ta tổng kết và đưa vào Dự thảo. Dự thảo đã dành riêng mục “V. Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam” cùng với một phần trong mục “3. Sự phát triển nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội và con người” để tập trung làm rõ yêu cầu “phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Điều đó cho thấy nhận thức lý luận về vai trò của văn hóa ngày càng được nâng cao. Những chỉ tiêu về phát triển kinh tế, môi trường,... sẽ khó có thể đạt được hiệu quả như mong muốn nếu không gắn liền với việc phát triển văn hóa và con người, bởi đó là nền tảng quan trọng và bền vững nhất. Con người không chỉ là chủ thể sáng tạo và thụ hưởng văn hóa, mà còn là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ của chính sự phát triển văn hóa, là trung tâm của mọi chiến lược phát triển.
Trên cơ sở đó, Dự thảo đã xác định rõ định hướng xây dựng văn hóa trong giai đoạn mới là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị văn hóa Việt Nam: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; hệ giá trị gia đình Việt Nam: Tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc; chuẩn mực con người Việt Nam: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.
Việc phát triển, phát huy các giá trị văn hóa cần gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và khẳng định giá trị con người trong mọi hoạt động của cá nhân và cộng đồng; đồng thời, cần phát huy các giá trị văn hóa trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, trong định hướng phát triển này, mục tiêu không đặt nặng yếu tố lợi nhuận, mà nhấn mạnh đến việc lan tỏa các giá trị văn hóa, góp phần hình thành chuẩn mực ứng xử phù hợp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Cho nên, việc cần thiết là phải phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa, sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần cống hiến của con người Việt Nam, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh, động lực và hệ điều tiết phát triển đất nước. Các nội dung về văn hóa được đặt song hành với phát triển con người. Văn hóa và con người có mối quan hệ biện chứng, thống nhất và không thể tách rời, trong đó con người vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa là đối tượng thụ hưởng các giá trị và sản phẩm văn hóa.
Với sự đa dạng về tộc người, cũng như sự phát triển chưa đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng, miền, yêu cầu đặt ra là phải phát triển văn hóa với tư cách như một sức mạnh nội sinh theo hướng nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân; chú trọng phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, điều đó không chỉ nhằm đưa các giá trị văn hóa vào đời sống xã hội, đến từng cá nhân, mà còn khẳng định thêm rằng, văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc, là nguồn sức mạnh nội sinh của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng dân tộc và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững cả trên phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Trong bối cảnh số hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên nhiều mặt của đời sống xã hội hiện nay, Dự thảo đã dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề văn hóa ứng xử trên không gian mạng khi chỉ ra thực trạng đáng lo ngại về tình trạng xuống cấp về đạo đức, văn hóa trên không gian mạng. Một trong những căn nguyên của vấn đề là do cơ chế, chính sách phát triển văn hóa còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ; đầu tư cho văn hóa hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ phát triển văn hóa. Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo đã chỉ ra tính cấp thiết của việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi có hiệu quả, đồng bộ thể chế phát triển văn hóa với các giá trị cơ bản là dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học; cùng với đó là việc bảo đảm phát triển văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội, để văn hóa thực sự là nền tảng, nguồn lực nội sinh, động lực to lớn cho phát triển nhanh và bền vững đất nước; đồng thời, xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Văn hóa tuy được kết tinh từ thực tiễn đời sống và được khái quát thông qua tư duy và nhận thức của con người, nhưng muốn trở thành động lực thực sự của phát triển, cần phải có cơ chế bảo vệ và những chính sách tác động phù hợp. Đây là một cách thức bảo vệ tốt nhất, tránh được tình trạng thiên lệch hay xem nhẹ các giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số, đồng thời tạo dựng được định hướng phát triển đúng đắn trong nhận thức chung của xã hội.
Bên cạnh đó, Dự thảo cũng thể hiện cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn về vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội; không chỉ đề cập đến các giá trị văn hóa, đời sống cá nhân, đời sống tộc người, mà còn thể hiện nhận thức về văn hóa với tư cách “sức mạnh mềm” của quốc gia”. Dự thảo cũng khẳng định rằng, đó là cách tốt nhất để bảo vệ và phát huy nền văn hóa Việt Nam. Đây là bước phát triển mới trong tư duy chiến lược về phát triển văn hóa. Bởi vì, Việt Nam không “đứng đợi” các nước đến làm bạn, mà chủ động thiết lập và phát triển các mối quan hệ của mình. “Sức mạnh mềm” của văn hóa chính là phương tiện hiệu quả để lan tỏa các giá trị văn hóa, giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đến với người dân toàn cầu bằng tinh thần thân thiện, cởi mở và nhân văn. Đồng thời, sự giao lưu chủ động đó cũng là cách thức để bảo vệ chính mình, chủ động phát triển văn hóa Việt Nam.
Không những vậy, trong bối cảnh mở cửa và toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay, với những “đường biên giới mở” được thúc đẩy bởi sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, việc chủ động và sẵn sàng để bảo vệ và phát triển nền văn hóa của dân tộc là một định hướng đúng đắn. Bởi lẽ, chỉ khi có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước những tình huống có thể xảy ra trong quá trình hội nhập, chúng ta mới có thể bảo vệ hiệu quả các giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để quảng bá và phát triển văn hóa Việt Nam, đưa bản sắc văn hóa dân tộc hội nhập vào dòng chảy chung của văn hóa nhân loại. Trong khi các giá trị kinh tế có thể bị vượt qua, thì các giá trị văn hóa sẽ để lại dấu ấn lâu dài trong tâm thức và tư tưởng của nhân loại. Vì vậy, việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa, là bước đi chiến lược để lan tỏa các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới; bên cạnh đó, cần tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao sức đề kháng của nhân dân đối với các xu hướng, sản phẩm văn hóa xấu độc; phát triển văn hóa thực sự trở thành “sức mạnh mềm” của quốc gia. Từ đó, khơi dậy, bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.
Nhìn chung, những nhận định về văn hóa được thể hiện trong Dự thảo cho thấy một bước tiến quan trọng trong tư duy của Đảng ta về vai trò của văn hóa. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, của con người, mà còn là thước đo sự phát triển của đất nước. Chỉ khi sự phát triển hướng tới việc nâng cao giá trị con người thì mới có thể đảm bảo sự phát triển bền vững và lâu dài cho đất nước.