PGS.TS. Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học, VASS phát biểu khai mạc và đề dẫn Hội thảo
Tham dự Hội thảo, về phía đại biểu quốc tế có sự hiện diện của Bà Mitsue Pembroke, Giám đốc chương trình và quan hệ đối tác, (IOM) tại Việt Nam; bà Abigail Maristela, Điều phối chương trình, ổn định cộng đồng, IOM DC Mỹ; Tiến sĩ Michelle Palumbarit, Giám đốc UP CIFAL (Đại học Philipines, Trung tâm đào tạo quốc tế, liên kết giữa trường Đại học Philippines & Trung tâm nghiên cứu và đào tạo của viện Liên hiệp quốc); Bà Stella Go, Điều phối mạng lưới nghiên cứu di cư Philipines, Khoa học xã hội và nhân văn, đại học De La Salle, Phillipines; GS.TS. Veronica E. Ramire, Đại học Châu Á Thái Bình Dương, Giáo sư Sergey V.RYAZANTSEV, Trung tâm Nghiên cứu Di cư Mahidol, Viện Nghiên cứu Dân số và Xã hội, Đại học Mahidl (Bangkok, Thái Lan).
Về phía đại biểu trong nước có: PGS.TS. Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học; GS.TS. Đặng Nguyên Anh, Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; PGS.TS. Nguyễn Đức Vinh, Nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, đại biểu đại diện Bộ Y tế, Bộ Nội vụ và các cơ quan nghiên cứu, trường đại học.
GS.TS. Đặng Nguyên Anh, Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu khai mạc và đề dẫn Hội thảo, PGS.TS. Chu Văn Tuấn nhiệt liệt chào mừng sự góp mặt đông đủ của các đại biểu tham dự và cho biết, việc huy động và kết nối nguồn lực kiều bào hiện vẫn còn phân tán, thiếu cơ chế thể chế hóa và sự phối hợp liên ngành. Các bằng chứng quốc tế cũng cho thấy Việt Nam cần có cơ chế dữ liệu và mạng lưới học thuật- chính sách để phát huy hiệu quả tiềm năng của cộng đồng. Phó giáo sư Chu Văn Tuấn mong muốn, hội thảo sẽ tập trung chia sẻ những kết quả nghiên cứu mới nhất về cộng đồng người di cư, trong đó đặc biệt chú trọng tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Các nghiên cứu này cung cấp bức tranh toàn diện hơn về quy mô, đặc điểm, đóng góp cũng như những khó khăn, thách thức mà cộng động đang đối diện.
Theo Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM, 2024), thế giới hiện có khoảng 304 triệu người di cư quốc tế, tương đương 3,7% dân số toàn cầu. Những xu thế này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải kết nối nghiên cứu khoa học với hoạch định chính sách di cư ở cấp quốc gia và quốc tế. Đối với Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện đã vượt 6 triệu người, sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% tập trung ở các nước phát triển. Đây là một cộng đồng đa dạng với nhiều hình thức di cư: lao động, học tập, đoàn tụ gia đình, chuyên gia – doanh nhân, trí thức. Đóng góp kinh tế – xã hội của kiều bào Việt Nam là rất lớn. Kiều hối gửi về Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 16 tỷ USD, đưa Việt Nam nhiều năm liên tiếp nằm trong nhóm 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận trên 9,5 tỷ USD, chiếm khoảng 60% tổng lượng kiều hối cả nước. Ngoài ra, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2024 đạt hơn 158.000 người, vượt kế hoạch đề ra.
Hội thảo được chia làm 02 phiên thảo luận. Phiên 1: Kết nối kiều bào, nghiên cứu khoa học và hoạch định chính sách di cư: bối cảnh quốc tế và Việt Nam; Phiên 2: Thực tiễn nghiên cứu khoa học và hoạch định chính sách di cư quốc tế. Các diễn giả (GS.TS. Đặng Nguyên Anh, VASS); bà Abigail Maristela, IOM DC Mỹ; PGS.TS. Nguyễn Đức Vinh, VASS, Tiến sĩ Michelle Palumbarit, Bà Stella Go; GS.TS. Veronica E. Ramire; Sergey V.RYAZANTSEV và TS. Nghiêm Thị Thủy, VASS) đã trình bày các nội dung về động lực phát triển, thách thức hội nhập và hàm ý chính sách của Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; kinh nghiệm toàn cầu trong kết nối kiều bào; vai trò nghiên cứu khoa học trong xây dựng chính sách di cư quốc tế của Việt Nam; kinh nghiệm của Philippines trong nghiên cứu về người di cư và khuyến nghị chính sách; nghiên cứu tổng quan tài liệu về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; vai trò của vốn xã hội đối với người di cư ra nước ngoài, kinh nghiệm từ thực tiễn Việt Nam, v.v.
Đồng thời các đại biểu cũng cần thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong gắn kết kiều bào với sự phát triển đất nước, lắng nghe và trao đổi về những thực tiễn hiệu quả từ nhiều quốc gia như: Tổ chức Di cư Quốc tế, IOM với chiến lược 3E (kết nối, thúc đẩy và trao quyền – Engage- Enable- Empower); kinh nghiệm của Philippines trong nghiên cứu và quản trị cộng đồng di cư, với việc kết hợp nghiên cứu có sự tham gia, tư vấn chính sách dựa trên bằng chứng cũng như các chương trình đào tạo năng lực cho chính quyền địa phương; kinh nghiệm của Việt Nam (tiềm năng gắn kết tri thức và đổi mới sáng tạo từ cộng đồng Việt Kiều đối với tiến trình phát triển bền vững trong nước). Theo đó, cần làm rõ vai trò của giới học thuật trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định chính sách, thể hiện trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong việc đóng góp tri thức cho phát triển đất nước và hội nhập toàn cầu, đồng thời xác định khoảng trống tri thức để đề xuất định hướng nghiên cứu trong tương lai.
Hội thảo nhận được nhiều ý kiến trao đổi, thảo luận. Theo đó cần xây dựng một tổng quan nghiên cứu toàn diện về các dòng di cư và hình thái cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm cả xu hướng lịch sử, kênh di cư hiện nay, đóng góp kinh tế, xã hội và văn hóa. Những kết quả từ báo cáo rà soát về cộng đồng người Việt ở nước ngoài do các chuyên gia quốc tế trình bày (Sergey, 2025) sẽ cung cấp căn cứ quan trọng để nhận diện các cơ hội và thách thức. Qua đó thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa nghiên cứu liên ngành (kết nối giữa xã hội học, kinh tế học, tâm lý học, nhân học và khoa học chính sách…) nhằm hình thành những bằng chứng vững chắc hơn nữa phục vụ công tác hoạch định chính sách.
Các đại biểu tham dự chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
Hội thảo là diễn đàn trao đổi học thuật quan trọng nhằm hình thành nên những khuyến nghị chính sách dựa trên bằng chứng khoa học, tạo nền tảng đối thoại và hợp tác nghiên cứu bền vững giữa Việt Nam và quốc tế. Qua đó góp phần thúc đẩy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài như một nguồn lực chiến lược cho phát triển đất nước. Kiều bào không chỉ đóng góp kiều hối, đầu tư, tri thức, mà còn giữ vai trò cầu nối văn hóa- ngoại giao, hướng tới nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế./.