Biến đổi của đạo hiếu tại Việt Nam thể hiện trong pháp luật phong kiến và pháp luật hiện đại

22:07 26/12/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +

Lương Mỹ Vân(*)

(*) Tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Email: myvanluong@gmail.com

Tóm tắt: Đạo hiếu là một trong những giá trị tinh thần lớn nhất của con người nói chung và người phương Đông, người Việt Nam nói riêng. Cùng với sự thay đổi của xã hội Việt Nam từ quá khứ đến hiện đại, đạo hiếu cũng có những biến đổi nhất định. Chúng ta có thể nhận thấy sự biến đổi này qua việc xem xét pháp luật phong kiến và pháp luật hiện đại, bởi ở một mức độ nhất định, pháp luật có khả năng phản ánh đời sống xã hội đương thời. Xuất phát từ quan điểm đó, bài viết này tìm hiểu các khía cạnh liên quan đến đạo hiếu được đề cập trong Quốc triều hình luật, bộ luật tiêu biểu của thời kỳ phong kiến Việt Nam, và các khía cạnh của đạo hiếu được đưa vào trong các luật và bộ luật hiện đại. Nghiên cứu cho thấy, hiếu đạo trong thời hiện đại vẫn được nhìn nhận tương đối giống với truyền thống: đều là sự kính trọng, thương yêu, nghe lời, chăm sóc của con cái đối với cha mẹ, ông bà. Hiếu đạo vẫn được đề cao và coi trọng, chứng tỏ mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, ông bà, mối quan hệ huyết thống và vai trò của gia đình vẫn được xem là cần thiết cho sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, hiếu đạo trong xã hội hiện đại đã có sự rộng mở hơn, ít gò bó hơn, không quá câu nệ vào lễ nghi. Đồng thời, quan hệ giữa cá nhân với gia đình cũng có xu hướng được thu hẹp lại, qua đó nhấn mạnh hơn vai trò của cá nhân.

Từ khóa: Đạo hiếu, pháp luật phong kiến, Quốc triều hình luật, pháp luật hiện đại.

1. Mở đầu – về hiếu đạo và mối quan hệ với pháp luật

“Hiếu”, hiểu theo nghĩa thông thường, là lòng yêu thương, kính trọng, hành vi phụng sự đối với ông bà, cha mẹ. Như vậy, hiếu vừa là tình cảm của người con dành cho cha mẹ - người sinh thành và nuôi dưỡng mình, vừa là hành vi thể hiện tình cảm ấy, như vâng lời và chăm sóc cha mẹ. Ở đây, trong quan niệm về hiếu, người ta có thể nhận thấy một mối quan hệ giữa người với người, đó là quan hệ giữa con cái và cha mẹ, do đó hiếu có liên quan đến vấn đề đạo đức – cái điều chỉnh hành vi và đánh giá con người. Với tư cách một khái niệm đạo đức, hiếu có thể được xem là một nguyên tắc, một chuẩn mực đạo đức hoặc một nghĩa vụ đạo đức, để điều chỉnh mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ, ông bà trong gia đình.

Có thể thấy, khái niệm “hiếu” được hiểu như trên không khác biệt với hiếu trong quan niệm từ thời xa xưa. Lễ ký – một trong những kinh điển trọng yếu của Nho gia – nói tới “ba đạo” của việc phụng sự cha mẹ[1]. “Ba đạo” đó cũng là sự yêu thương, kính trọng, biết ơn và phụng dưỡng cha mẹ của người con. Điều này cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của hiếu trong xã hội phương Đông, trong đó có Việt Nam[2], khi xét ở mức độ cơ bản, những đặc trưng cốt lõi của hiếu hầu như không thay đổi sau rất nhiều biến thiên lịch sử.

Hiếu được nhấn mạnh như một trong những chuẩn mực đạo đức nền tảng trong xã hội phương Đông từ xưa đến nay là bởi tầm quan trọng của gia đình. Gia đình trong quan niệm của người phương Đông được xem là tế bào của xã hội. Con người xuất phát từ gia đình và không tách khỏi các mối quan hệ ràng buộc bản thân mình với gia đình. Quốc gia, thiên hạ cũng được coi là một gia đình lớn. Do đó, kết cấu gia đình phải được bảo vệ, và một trong những cách bảo vệ là giữ gìn các mối quan hệ ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình. Yêu cầu về đạo hiếu giữ cho mỗi cá nhân không tách rời khỏi gia đình, củng cố và giữ gìn nền tảng gia đình. Mặt khác, tư duy hướng về nguồn gốc, xem trọng quá khứ cũng là một trong những nguyên nhân khiến hiếu đạo được đề cao. Bởi, hiếu là thể hiện của sự gắn bó và không quên cội rễ, do vậy không chỉ cha mẹ, mà cả ông bà, tổ tiên cũng được con cháu kính yêu, phụng dưỡng và tưởng nhớ. Hiếu là sự kết nối con người với quá khứ của bản thân, để dòng chảy từ quá khứ đến hiện tại và tương lai trở nên liên tục và ổn định. Điều này cho đến ngày nay vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, do biến đổi trong đời sống xã hội và biến đổi của gia đình mà quan niệm về hiếu cũng có nhiều biến đổi.

Về pháp luật, từ xưa đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhìn chung, pháp luật luôn được hiểu là hệ thống những quy định mang tính cưỡng chế do giai cấp thống trị ban hành và bảo hộ nhằm giữ gìn trật tự xã hội. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ rất chặt chẽ, đến mức không thể tách biệt hoàn toàn (Xem: Yu Byeong Hwa và cộng sự 2018: 64). Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt giữa pháp luật và đạo đức, ví dụ như về chế tài, về tính tự luật và tha luật, v.v.. Pháp luật “phản ánh các yếu tố giá trị hợp lý của xã hội”, trong đó có đạo đức, và “có thể thấy rõ các khuynh hướng đạo đức thẩm thấu trong các quy phạm pháp luật, do chỗ đạo đức đóng một vai trò rất quan trọng trong sự hình thành các quy phạm pháp luật” (Yu Byeong Hwa và cộng sự 2018: 67, 68). Như vậy, có thể nói, với tư cách một chuẩn mực đạo đức, hiếu đạo cũng có khả năng được phản ánh trong các quy phạm của pháp luật phương Đông.

Hơn nữa, pháp luật, dù ở bất kỳ xã hội nào, cũng phản ánh ý chí của tầng lớp cầm quyền và nhu cầu duy trì sự ổn định xã hội. Thông qua pháp luật, con người tìm cách giữ gìn kết cấu trật tự xã hội. Do đó, trong các điển chế, phép tắc của thời phong kiến cũng như trong hệ thống pháp luật hiện đại, luôn có các quy định để điều tiết quan hệ giữa cha mẹ và con cái, hướng tới việc giữ gìn kết cấu gia đình với tư cách tế bào của xã hội.

Từ các điều trên, có thể đi đến một luận điểm đầu tiên rằng, qua các quy định pháp luật, có thể thấy được (hoặc ít hoặc nhiều) hình ảnh của hiếu đạo. Quy định pháp luật thời nào sẽ phản ánh, đến một mức độ nhất định, đặc trưng hiếu đạo của thời ấy.

2. Hiếu đạo trong xã hội Việt Nam truyền thống thể hiện trong Quốc triều hình luật

Lịch sử xây dựng pháp luật thành văn của Việt Nam thời phong kiến bắt đầu ngay từ đầu thời kỳ độc lập[3]. Do chịu ảnh hưởng lớn từ Nho giáo Trung Quốc, các bộ luật của Việt Nam thời phong kiến hầu hết đều bắt chước luật Trung Quốc đương thời hoặc trước đó (Xem: Yu Insun 1994: 78; Vũ Văn Mẫu 1961: 254). Tuy nhiên, với Quốc triều hình luật, bộ luật thời Lê còn lại khá nguyên vẹn đến nay, tình hình không phải hoàn toàn như vậy. Quốc triều hình luật mô phỏng theo bộ luật nhà Đường và một số pháp chế các đời sau của Trung Quốc, nhưng có những điểm khác biệt rất đáng chú ý. Thứ nhất, bộ luật này gồm 722 điều, nhiều gấp rưỡi các điều có trong bộ luật nhà Đường. Thứ hai, có những điều luật không hề có trong luật Trung Quốc đương thời, ví dụ các điều trong chương về hộ hôn và điền sản: “Các điều thuộc về hương hỏa đã đề cập đến một chế độ hoàn toàn Việt Nam, không hề thấy trong luật của Trung Hoa” (Vũ Văn Mẫu 1974: 248). Thứ ba, ngay cả trong một số điều luật mô phỏng theo luật của Trung Hoa cũng có những thay đổi để phù hợp với phong tục Việt Nam (Xem: Yu Insun 1984: 81). Những khác biệt này cho thấy, Quốc triều hình luật tuy chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật Trung Quốc, nhưng đã có những nét độc lập đáng kể, tạo nên đặc sắc của pháp luật phong kiến Việt Nam. Hơn thế nữa, những đặc sắc ấy được xây dựng trên nền tảng đời sống xã hội Việt Nam đương thời. Điều đó có nghĩa là bộ luật này của thời Lê đã phản ánh được trên nhiều phương diện các đặc điểm của đời sống xã hội Việt Nam. Đó là cơ sở để chúng tôi xem xét hiếu đạo truyền thống của người Việt Nam thông qua bộ luật này, với tư cách là đại diện cho pháp luật truyền thống Việt Nam.

Quốc triều hình luật quy định nhiều vấn đề trong các mối quan hệ xã hội: giữa cha mẹ và con cái, giữa những người thân trong tộc họ, giữa những người bình thường trong xã hội, các đẳng cấp xã hội, giữa người trên và kẻ dưới, vua và quan lại, binh lính v.v.. Trong cấu trúc quan hệ của xã hội phong kiến, quan trọng nhất là quan hệ vua – tôi (được điều chỉnh bằng chuẩn mực đạo đức “trung”) và quan hệ cha – con (được điều chỉnh bằng chuẩn mực đạo đức “hiếu”). Vai trò của hai mối quan hệ này đối với trật tự xã hội cũng được phản ánh rõ nét trong bộ luật. Về quan hệ cha - con và hiếu đạo, với tư cách là “hình luật” - tức hệ thống quy định hình phạt dành cho các tội khác nhau[4] - Quốc triều hình luật trước hết quy định, trong số “thập ác” (10 tội ác lớn nhất), hai tội đặc biệt nghiêm trọng vi phạm quan hệ cha – con: ác nghịch và bất hiếu.

“Điều 2. Thập ác

4. Ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác, chú, thím, cô, anh, chị, em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng.

7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn; có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không cử ai; nói dối là ông bà cha mẹ chết” (Viện Sử học Việt Nam 1991: 36, 37).

Các tội đặc biệt nghiêm trọng tức là các tội vi phạm và gây hại lớn đến luân thường đạo lý, có thể làm sụp đổ kết cấu trật tự xã hội. Trong các tội đó, có tội xâm phạm đến thể chất và tinh thần của ông bà, cha mẹ, và vi phạm các quy định về lễ trong quan hệ với ông bà, cha mẹ. Luật quy định các hình phạt dành cho các tội xâm phạm đến thân thể và tinh thần của người khác, nhưng đặc biệt nhấn mạnh nếu đối tượng bị xâm phạm là ông bà, cha mẹ, thì trong trường hợp đó tội được tính nặng hơn. Bởi, các hành vi đó trực tiếp gây hại đến kết cấu gia đình và nguồn gốc của chính bản thân người gây hại.

Từ việc quy định “các tội đặc biệt nghiêm trọng”, bộ luật đưa ra các hình phạt đối với từng tội danh cụ thể. Liên quan đến tội ác nghịch, có hai điều 11 và 416 quy định những hình phạt rất nặng như chém, xử giảo, và không được ân xá (Xem: Viện Sử học Việt Nam 1991: 40, 155). Ác nghịch là gây hại đến thân thể của ông bà, cha mẹ, đây cũng là bất hiếu nhưng được tách riêng khỏi tội danh “bất hiếu” vì mức độ nghiêm trọng. Phạm phải tội này thì không được tha thứ. Kẻ phạm tội gây hại đến thân thể người khác mà người khác đó là ông bà, cha mẹ, thì bị tính riêng thành hình phạt khác, tội bị xử nặng hơn so với việc người bị hại là người không có quan hệ thân thuộc. Như vậy, hình phạt dành cho tội gây hại đến thân thể ông bà, cha mẹ là rất nghiêm khắc, có thể tính là nặng nhất (nếu không kể các hình phạt dành cho các tội mưu hại xã tắc và vi phạm đạo trung).

Đối với tội bất hiếu, Quốc triều hình luật quy định trong khoảng 10 điều với các hình phạt khác nhau tùy từng trường hợp tội phạm cụ thể. Ví dụ, điều 475, 504, 506 (Xem: Viện Sử học Việt Nam 1991: 173, 183) quy định các hình phạt dành cho kẻ tố cáo, mắng nhiếc, làm trái lời dạy, không phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, tức là vi phạm đạo hiếu. Đánh mắng là xâm phạm đến tinh thần và cả thể xác của con người, hơn nữa đây lại là ông bà, cha mẹ mình, nên tội này bị xử rất nặng, đều là lưu đày hoặc treo cổ. Con cháu trái lời dạy bảo hoặc không cung dưỡng đầy đủ thì bị xử tội nhưng với điều kiện là ông bà, cha mẹ phải trình lên quan mới có chứng cứ buộc tội.

Trong số các quy định này, đáng chú ý là quy định về việc tố cáo ông bà, cha mẹ. Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, dù đúng thì cũng bị tội (trừ một số trường hợp ngoại lệ đặc biệt). Tức là pháp luật ngăn cấm việc tố cáo ông bà, cha mẹ, kể cả khi họ phạm tội, thậm chí là tội nặng. Quy định này là quy định cấm đoán và được bổ sung bằng quy định mang tính khuyến khích như sau ở điều 39: “Người thân phải để tang đại công trở lên, (…) cùng giấu tội cho nhau (…) đều không phải tội. Nếu phạm tội mưu phản trở lên thì không theo luật này” (Viện Sử học Việt Nam 1991: 46-47). Như vậy, pháp luật không buộc tội kẻ giấu tội cho người thân, trong đó có ông bà cha mẹ, và trừng trị kẻ tố cáo tội của ông bà, cha mẹ. Đây là một loại quy định cho thấy trong trường hợp phải cân nhắc giữa hiếu và sự thực, thì hiếu được xem trọng hơn, ở mức độ được đưa vào trong luật và có chế tài.

Các điều khác trong phạm vi tội bất hiếu gồm có con cháu đàn hát, vui chơi, cưới gả khi ông bà, cha mẹ mất hoặc đang mang trọng tội, giấu tang hoặc nói dối có tang (điều 130, 131, 317, 318, v.v.). Các tội đó có thể bị hạ chức, bị xử phải đi lao dịch, hoặc bị đánh trượng. Đây là các quy định buộc người dân phải thực hiện đúng lễ nghi liên quan đến hiếu và phải có thái độ đúng, theo đúng chuẩn mực hiếu.

Toàn văn bài viết mời xem file đính kèm!


[1]   “Hiếu là nuôi dưỡng. Thuận với đạo, không làm trái ngược nhân luân nên gọi là nuôi dưỡng. Cho nên con hiếu thờ cha mẹ có ba đạo: (cha mẹ) còn sống tất phải phụng dưỡng, (cha mẹ) chết đi tất phải lo tang ma, tang ma hoàn tất ắt phải tế lễ. Khi phụng dưỡng quan trọng nhất là vâng thuận, khi tang ma quan trọng nhất là phải bi ai, khi tế lễ quan trọng nhất là phải cung kính đúng thời. Làm hết ba đạo ấy là đức hạnh của người con hiếu vậy” (Lễ ký, “Tế thống”, 3).

[2]   Chúng tôi chỉ xem xét ‘hiếu’ trong phạm vi phương Đông mà chủ yếu là Việt Nam chứ không xem xét ‘hiếu’ trong truyền thống phương Tây, bởi đó là một nền văn hoá, một cấu trúc tư duy hoàn toàn khác biệt, sẽ dẫn tới những khác biệt trong quan niệm về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.

[3] Đại việt sử ký toàn thư ghi rõ: năm 1002, Lê Hoàn “định luật lệ”, nhưng hiện không rõ đây là luật gì. Năm 1042, Lý Thái Tông đã ban hành “Hình thư”, là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp chế Việt Nam, nhưng bộ luật này hiện cũng không còn. Tham khảo: Đại Việt sử ký toàn thư 2000, tập 1: 339, 441).

[4]    Từ tên gọi, Quốc triều hình luật cho thấy đó là một bộ luật hình. Nhưng trên thực tế, bộ luật này của nhà Lê bao gồm rất nhiều quy định của các nhánh luật khác nhau: luật hình sự, luật dân sự, luật quân sự, luật hành chính, v.v.. Thực ra, cách chia thành các nhánh luật là cách phân chia của phương Tây hiện đại nên khó có thể áp dụng cho luật thời phong kiến của phương Đông. Bộ luật nhà Lê được gọi là hình luật là do nó quy định các hình phạt dành cho các tội khác nhau, theo cách hiểu truyền thống.

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 7 (403), năm 2025

In trang Chia sẻ

Tin khác