1. Mở đầu
Chúa Trịnh Sâm (1739-1782) là một tác gia văn học tiêu biểu thời Lê Trung hưng. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng, có hệ thống và chuyên sâu về tiểu sử, sự nghiệp thơ ca của chúa Trịnh Sâm, cho dù những thành tựu văn bản học Hán Nôm, sử học về vị chúa tài danh này ngày càng cho thấy có nhiều tư liệu và thông tin mới. Với tư cách là một tác gia tiêu biểu của “Dòng thơ văn Trịnh Phủ”, cuộc đời và sự nghiệp thi ca của chúa Trịnh Sâm rất cần được quan tâm tìm hiểu một cách thấu đáo để góp phần bổ khuyết cho bức tranh văn học sử thời Lê Trung hưng.
2. Vài nét về tiểu sử Trịnh Sâm
Trịnh Sâm là con trưởng của Minh Đô vương Trịnh Doanh (1720-1767) và Thứ phi Nguyễn Thị Ngọc Diễm (1721-1784). Trịnh Sâm từ thuở nhỏ đã nổi tiếng thông minh và ham học. Năm 1753, theo đề nghị từ quần thần, Trịnh Doanh lập Trịnh Sâm làm Thế tử. Năm 1758, Trịnh Sâm được phong chức Thái úy, tước Tĩnh quốc công, cho mở phủ Lượng quốc, bắt đầu tham gia chính trị. Năm 1767, Trịnh Sâm nối ngôi chúa, sau được tiến phong là Đại nguyên súy Tổng quốc chính Tĩnh Đô vương.
Ở ngôi chúa từ năm 1767 đến năm 1782, tuy luôn bận rộn chính sự và mải mê chinh chiến để khẳng định quyền lực của bản thân và dòng họ, nhưng chúa Trịnh Sâm luôn có ý thức khôi phục, kiến thiết xã hội văn hóa. Là người ham mê và có tài năng văn học, ông đã để lại nhiều tác phẩm quý giá cho hậu thế, đặc biệt là mảng thơ Nôm. Trịnh Sâm cũng là một trong số hiếm các vị đế vương gây dựng một nền văn học rực rỡ. Thời Trịnh Sâm có các nhân tài về chính trị và văn chương như Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Khản, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích, Hồ Sĩ Đống, Phạm Nguyễn Du, Hoàng Đình Bảo… Tất cả đã giúp Trịnh Sâm điều hành chính sự quốc gia tạo nên một xã hội tương đối yên ổn và phát triển về văn hóa, văn học.
3. Tình hình văn bản tác phẩm thơ ca của Trịnh Sâm
Thơ ca của Trịnh Sâm trước hết được chép trong sử sách. Chẳng hạn, theo “Đại Việt sử ký tục biên”, chúa Trịnh Sâm nghĩ tướng sĩ đánh giặc chịu lao khổ, bèn tự làm bài thơ quốc âm để úy lạo. Hoặc năm 1776, chúa Trịnh Sâm nghĩ tướng sĩ đạo Thuận Hóa đánh giặc, đóng lại lâu ngày khó nhọc, sai làm bài văn chữ Nôm, sai Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân đem đi Phú Xuân tuyên dụ tướng sĩ. Lại đem một bài văn tế, giao cho quan Trấn thủ Thuận Hóa đặt đàn tế các tướng sĩ chết trận, chết bệnh. Sách này còn chép thơ chúa Trịnh Sâm ban tặng các đại thần như Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Tham tụng Nguyễn Hoàn… khi họ về hưu, để bày tỏ sự lưu luyến.
Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng nói về các thi phẩm của Trịnh Sâm như: “Tâm thanh tồn dụy tập: Thơ của Tĩnh vương Trịnh Sâm làm từ khi còn là Thế tử, sau khi lên ngôi chúa, mới chép lại thành tập và tự làm tựa…”, “Nam tuần ký trình thi” có một quyển gồm “Các bài đề vịnh của Tĩnh vương Trịnh Sâm trong khi đi miền Nam do các triều thần biên tập in ra”, “Tây tuần ký trình thi” có một quyển gồm “Các bài đề vịnh của Tĩnh vương Trịnh Sâm làm ra trong khi về Thanh Hóa do các triều thần biên tập in ra”.
Năm 1934, trên Kỷ yếu của Hội Trí tri, Nguyễn Văn Tố dựa vào các tài liệu Hán Nôm trong thư viện của Học viện Viễn Đông Bác cổ giới thiệu “Tâm thanh tồn dụy tập” và phiên âm 16 bài thơ Nôm của Trịnh Sâm. Đến năm 1943, trên tạp chí Tri tân, Nguyễn Văn Tố có nói về “Tâm thanh tồn dụy tập” gồm 4 quyển, 134 bài, phần nhiều là thơ quốc âm theo lối Đường thi, một số bài thơ 6 chữ, một vài bài tứ tuyệt, cũng có bài thơ bằng quốc âm gồm mấy câu dẫn bằng chữ Hán.
Sau năm 1945, trong các công trình thư mục, biên khảo, một số nhà nghiên cứu như Phạm Văn Diêu trong “Văn học Việt Nam - văn học sử, giảng văn”, Bùi Duy Tân trong “Tổng tập văn học Việt Nam” (Tập 7) ít nhiều có liệt kê, giới thiệu thi ca Trịnh Sâm. Trần Văn Giáp cho biết “Tâm thanh tồn dụy tập” là tập thơ của chúa Trịnh Sâm làm từ khi còn là Thế tử, đến năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757) đem soạn lại, chia làm 4 loại: thù phụng, ban tứ, cảm hứng, đề vịnh.
Năm 2010, “Tứ bình thực lục thời chúa Trịnh” do Đinh Khắc Thuân chủ biên đã phiên âm, dịch nghĩa thêm nhiều bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của Trịnh Sâm. Sách này còn sưu tầm nhiều câu đối, thư pháp của Trịnh Sâm đề trên các danh lam thắng tích.
Về việc điền dã, sưu tầm thơ văn hiện còn của chúa Trịnh Sâm có đóng góp nổi bật của nhóm tác giả Võ Hồng Phi, Hương Nao. Nhóm tác giả đã sưu tầm bút tích Trịnh Sâm hiện còn trong những hang động, vách núi, nằm rải rác từ miền xuôi đến miền núi xứ Thanh.
Ngoài ra, thơ ca Trịnh Sâm còn được chép trong các sách: Bình Ninh thực lục, Minh Đô thi tuyển, Lê triều danh nhân thi tập, Trịnh gia chính phả… cũng như được chép lẫn với nhiều tác giả khác trong một số thi tập. Chẳng hạn, trong “Hồng Đức Quốc âm thi tập” có chép lẫn hai bài thơ “Ngưu Lang đãi Chức Nữ thi” và “Chức Nữ ức Ngưu Lang thi” của Trịnh Sâm.
Như vậy, những tác phẩm thơ ca của chúa Trịnh Sâm hiện còn không chỉ nằm trong các tập thơ văn Hán Nôm mà còn được ghi trong các bộ sử, sách địa chí, gia phả,… đặc biệt còn tồn tại ở các dạng thức tư liệu khác (bảng đồng, bia đá…) nằm rải rác ở một số địa phương trong những điều kiện khác nhau. Vì vậy, việc thất tán, tàn khuyết, chưa được biết đến hay lẫn lộn là điều dễ xảy ra. Các nhà nghiên cứu đã nỗ lực khảo sát, sưu tầm tư liệu thơ ca của chúa Trịnh Sâm và đến nay đã đạt được những thành tựu nhất định về văn bản học. Tuy nhiên, so với các tác gia thuộc dòng văn Trịnh phủ, vấn đề văn bản thơ văn Trịnh Sâm khá phức tạp và còn nhiều điều đáng tiếc. Việc truy tìm, khôi phục lại toàn bộ hoặc phần lớn trước tác của Trịnh Sâm là một nhiệm vụ và thách thức.
4. Giá trị thơ ca Trịnh Sâm
4.1. Thơ Nôm
Thơ Nôm Trịnh Sâm khi viết về thiên nhiên mang tính hoài cổ, ngợi ca cảnh sông núi, chùa miếu, thiên nhiên, thời khắc rất hay… bộc lộ cái thú thưởng ngoạn của bậc quân vương. Một số bài thơ Nôm của chúa Trịnh Sâm còn thể hiện cảm hứng đời tư. Chẳng hạn, bài “Giải thương” cho thấy sự đồng cảm và có chút tình tứ của tác giả với giai nhân là góa phụ. Các bài thơ Nôm của Trịnh Sâm có thiên hướng giảm dần tính ước lệ, điển phạm, đi ngược lại âm hưởng ca tụng chung của thơ ca cung đình, bộc lộ một giọng điệu trữ tình thay cho giáo huấn thuyết giảng, gợi mở những tâm tư sâu xa của tác giả, đem đến cho thơ màu sắc, âm hưởng của hiện thực đời sống.
Về mặt hình thức nghệ thuật, thơ Nôm Trịnh Sâm khá chải chuốt, điêu luyện và đa dạng. Đặc biệt, Trịnh Sâm cũng sáng tác thơ Nôm thất ngôn xen lục ngôn, được xem là một nỗ lực Việt hóa thơ Đường luật, là một hiện tượng độc đáo làm nên bản sắc thơ Nôm Đường luật Việt Nam thời trung đại nói chung, thơ Nôm Trịnh Sâm nói riêng.
4.2. Thơ chữ Hán
Thơ chữ Hán Trịnh Sâm được viết theo các thể thơ Đường luật như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú...; ngôn ngữ thơ tinh tế, hình ảnh giàu tính biểu tượng để diễn tả vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên, đồng thời gửi gắm những suy tư, triết lý nhân sinh. Về giọng điệu, thơ chữ Hán Trịnh Sâm kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trữ tình và suy tư triết lý, vừa mang khẩu khí đế vương, vừa phảng phất nỗi u hoài nhân thế.
Thơ chữ Hán của Trịnh Sâm chủ yếu có trong “Minh đô thi tuyển” và còn lưu dấu tại nhiều danh lam thắng tích của đất nước như động Hương Tích, động Tiên Sơn, chùa Tuyết Sơn, núi Hinh Bồng, núi Hồi Hạc, động Từ Thức, động Bạch Á, động Lục Vân, núi Vân Lỗi, núi Chích Trợ, động Hồ Công, động Diệu Sơn… Với những bài thơ đó, Trịnh Sâm đã được tôn vinh là một nhà thơ tiêu biểu cho truyền thống “khắc thạch thi” của Việt Nam thời trung đại.
4.3. Thơ ca trù
Trịnh Sâm là người say mê ca trù và có sáng tác nhiều thơ ca trù. Tương truyền, ông chính là người sáng tạo ra lối “hát thổng”, “hát dồn” trong ca trù. Điều đặc biệt là những bài ca trù tương truyền của Trịnh Sâm thường có 2 phần: (i) bài thơ chữ Hán thất ngôn bát cú; (ii) bài thổng hay dồn theo thể lục bát. Nếu đúng như vậy thì Trịnh Sâm là người có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thơ ca trù nói chung và thơ hát nói về sau nói riêng. Những cứ liệu tương truyền về các tác phẩm thơ ca trù của Trịnh Sâm cho thấy ông là một tác giả tài hoa, lão luyện về thể loại này.
Ngoài ra, chúa Trịnh Sâm cũng viết từ khúc (theo quan niệm thời trung đại là một thể phụ của thơ). Sách “Bình Ninh thực lục” chép một bài từ bằng chữ Nôm của ông là “Ngự chế quốc âm từ khúc”. Bài từ này không sử dụng thể thơ lục bát hay song thất lục bát như các khúc ngâm thông thường mà viết theo lối văn biền ngẫu của thể phú.
5. Kết luận
Dù bị thất truyền nhiều nhưng đến nay di sản thơ ca chúa Trịnh Sâm để lại cho hậu thế vẫn còn những tác phẩm giá trị. Trên bình diện văn học sử, thơ ca Trịnh Sâm vẫn còn nhiều vấn đề phải nghiên cứu như: loại hình tác giả (thi nhân - vua chúa), khuynh hướng thơ ca (thơ ca cung đình), nội dung tư tưởng (văn hóa làm thơ trị nước của các chính khách…), thi học (đóng góp về thi pháp, hình thức thể loại…)./.