TS. Hà Huy Ngọc
Viện Kinh tế Việt Nam
Xu hướng chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược và là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm phát triển thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội. Tại COP26, 147 quốc gia đã cam kết PTR0 vào giữa thế kỷ XXI và đến hết năm 2021, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ ban hành chiến lược phát thải thấp theo hướng xanh, sạch với tầm nhìn dài hạn đến giữa thế kỷ XXI. Chuyển đổi xanh, KTTH đã trở thành ưu tiên mang tính chiến lược của Chính phủ để giải quyết các thách thức nói trên. Hiện nay, chúng ta đang trong kỷ nguyên mới[1], kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Và lực lượng doanh nghiệp lớn sẽ đảm trách vai trò chủ đạo, dẫn dắt xứ mệnh phát triển đất nước. Những thành tựu của Đổi mới đã giúp Việt Nam từ quốc gia đi sau đã đuổi kịp, tiến cùng, vượt trước xu hướng văn minh của nhân loại và các nước trong khu vực, để trở thành quốc gia tiên phong, hình mẫu tiêu biểu toàn cầu trong chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
1. Xu hướng chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn trên thế giới
Trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới đang quan tâm hơn đến với mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH). Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVID-19 từ năm 2020, các quốc gia cũng nhìn nhận nghiêm túc hơn yêu cầu phát triển bền vững, tăng cường mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế và sức chống chịu của chuỗi cung ứng; theo đó, KTTH được nhìn nhận là một hướng đi quan trọng. Hợp tác quốc tế cũng gia tăng, cả về phát triển bền vững, các nội dung liên quan đến chính sách công nghiệp nói chung và chính sách phát triển ngành gắn với tư duy kinh tế tuần hoàn. Thực tế cho thấy, thúc đẩy áp dụng KTTH đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thống kê của Bộ TN&MT năm 2023[2]cho thấy trên thế giới cho thấy, đến nay ước tính có khoảng hơn 30 quốc gia/vùng lãnh thổ đã, đang và sẽ xây dựng các quy định, lộ trình thực hiện KTTH dưới các tên gọi khác nhau như Kế hoạch hành động KTTH lần thứ 2 của Liên minh Châu Âu, Luật Khuyến khích Kinh tế Tuần hoàn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Luật Cơ bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế tại Nhật Bản, lộ trình thực hiện KTTH đến năm 2040 của Chile hay Lộ trình thực hiện KTTH đến năm 2025 tại Pháp. Đặc biệt, năm 2021, Ủy ban ASEAN ban hành Khung KTTH cho Cộng đồng kinh tế ASEAN. Khung KTTH cho Cộng đồng kinh tế ASEAN đặt ra tầm nhìn dài hạn với các tham vọng về KTTH dựa trên các sáng kiến hiện có và xác định các trọng tâm ưu tiên để hành động với các yếu tố để đẩy nhanh tiến trình hiện thực hóa nền KTTH trong khối ASEAN. Do đó, một số vấn đề có thể rút ra từ kinh nghiệm quốc tế về phát triển KTTH, như sau:
(i) Quyết tâm và tư duy mở hướng mạnh mẽ tới khía cạnh “kinh tế” trong KTTH có ý nghĩa quan trọng, từ đó, mới có cách tiếp cận nền KTTH một cách tổng thể nhất, trên bình diện quốc gia, với một hệ thống khung khổ pháp lý hoàn chỉnh để đạt được một hệ thống chính sách hoàn thiện. Việc phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cần thiết, song sẽ khó có thể phụ thuộc hoàn toàn vào sự chủ động của riêng doanh nghiệp.
(ii) Những thách thức và cơ hội liên quan đến việc chuyển đổi sang KTTH sẽ khác nhau tùy theo sự khác biệt trong giai đoạn phát triển, tài nguyên và thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Phát triển KTTH không thực hiện đồng nhất cho cả nền kinh tế, mà cần có những lĩnh vực ưu tiên, trọng tâm. Dù những lĩnh vực này có sự khác biệt giữa các quốc gia, một yêu cầu chung là phải phát triển các khuôn khổ quản trị mạnh mẽ để giảm thiểu các rủi ro về sức khỏe và môi trường do quản lý kém đối với các hoạt động sản xuất và quản lý chất thải;
(iii) Trong các nền kinh tế sử dụng nhiều tài nguyên, việc chuyển đổi theo hướng KTTH có thể mang lại nhiều cơ hội theo đuổi đa dạng hóa kinh tế và tiếp cận các thị trường có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, việc tiếp tục phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ đặt ra những thách thức đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế.
(iv) Việc hỗ trợ doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân tham gia thực hiện dự án KTTH là rất cần thiết, chủ thể này sẽ là linh hoàn của chính sách, kế hoạch.
2. Cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
2.1. Một số mô hình kinh tế tuần hoàn mở đường tiên phong
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam từ một nền kinh tế lạc hậu đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, là mắt xích quan trọng trong 16 hiệp định thương mại tự do gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Quy mô nền kinh tế Việt Nam từ 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới tăng lên hơn 450 tỷ USD vào năm 2024[3]. Mặc dù vậy, Việt Nam đang phải đối mặt với không ít thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Những thách thức này trở nên phức tạp hơn khi mà Việt Nam đang tiếp tục quá trình gia tăng dân số và đô thị hóa, quá trình công nghiệp hóa song còn chậm chuyển đổi từ cách tiếp cận kinh tế tuyến tính truyền thống kéo theo hệ lụy ngày càng nghiêm trọng đối với nguồn cung tài nguyên (bao gồm đất đai), lượng chất thải lớn, an ninh môi trường và an ninh nguồn nước. Việt Nam đã có mô hình KTTH từ nhiều thập niên trước, điển hình gắn với cách tổ chức vườn-ao-chuồng (VAC), vườn-ao-chuồng-rừng (VACR)…[4]Tuy nhiên, các mô hình này đều có quy mô tương đối nhỏ, chưa nhấn mạnh các yêu cầu ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo giá trị gia tăng và tăng năng suất, tư duy liên kết giữa các ngành/lĩnh vực. Ngoài ra, trong những năm qua, mô hình sản xuất sạch hơn đã được đẩy mạnh triển khai. Theo thống kê của Bộ Công thương năm 2023 có khoảng hơn 500 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã được hỗ trợ đánh giá nhanh, trong đó gần 150 doanh nghiệp được hỗ trợ sản xuất sạch hơn và trở thành những mô hình điểm. Một số mô hình điển hình theo hướng KTTH trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được tích cực triển khai, như: Xây dựng và triển khai thực hiện mô hình sử dụng thí điểm các dạng năng lượng thay thế và mô hình hộ gia đình tiết kiệm năng lượng; Áp dụng mô hình quản lý năng lượng tại các cơ sở công nghiệp; Xây dựng, phổ biến và nhân rộng mô hình sử dụng năng lượng thay thế tại các cơ sở kinh doanh trên cả nước… (Châu An, 2021). Theo Liên đoàn Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã tiên phong đi đầu trong thực hiện mô hình KTTH. Điển hình là Công ty Coca- Cola Việt Nam đã xây dựng Chiến lược “Vì một thế giới không rác thải” mà Coca-Cola, nhằm việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về việc thu gom và tái chế bao bì là một phần quan trọng trong đang thực hiện. Mục tiêu là đến năm 2030, thu gom và tái chế 100% lượng bao bì mà Coca-Cola bán ra trên toàn cầu; đến năm 2025, đạt tỉ lệ 100% bao bì có thể tái chế và đến năm 2030, sử dụng ít nhất 50% vật liệu tái chế trong bao bì sản phẩm của công ty. Tiếp đến là Công ty La Vie và Công ty Nestlé Việt Nam cùng các thành viên thuộc Tập đoàn Nestlé sẽ cam kết thực hiện các kế hoạch nhằm giảm lượng nhựa dùng lần đầu trong đóng gói sản phẩm, giảm phát thải nhựa ngay tại nguồn và đóng góp cho các sáng kiến thu gom tương đương lượng bao bì đưa ra thị trường đến năm 2025. Hiện gần như toàn bộ sản phẩm của La Vie có thể tái chế 100%. Năm 2021, La Vie trở thành thương hiệu nước khoáng đầu tiên tại Việt Nam sử dụng chai làm từ nhựa tái chế (rPET) đạt tiêu chuẩn bao bì thực phẩm, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất rPET để đẩy nhanh hơn nữa mô hình KTTH, tạo cơ hội tái sinh cho vỏ chai. Nestlé Việt Nam và La Vie cũng là những thành viên sáng lập của PRO Việt Nam (Ngọc Quỳnh, 2021). Ngoài ra Heineken Việt Nam có gần 99% phế thải hoặc phụ phẩm được tái sử dụng hoặc tái chế, 4/6 nhà máy bia sử dụng nhiệt năng từ NLTT và nhiên liệu không phát thải carbon. Unilever Việt Nam triển khai chương trình thu gom tái chế bao bì nhựa và phân loại rác tại nguồn. Trong ngành dệt may, đã xuất hiện các nguyên liệu mới thân thiện với môi trường như vải sợi từ cà phê, vải sợi hàu, vải sợi sen. Ngoài ra, các loại vải tái chế được thu hồi từ vụn vải mặc dù tỷ trọng còn chưa cao (chỉ dưới 5% sản lượng). Tư duy kinh tế tuần hoàn theo mô hình cộng sinh công nghiệp cũng đã được hiện thực hóa tại các khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2025), mô hình thí điểm chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái tại các tỉnh Ninh Bình, thành phố Cần Thơ và thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng giúp tiết kiệm 6,5 triệu USD/năm; mô hình chế biến phụ phẩm thủy sản; liên minh tái chế bao bì Việt Nam (PRO). Trong ngành khai khoáng, việc thu hồi đất, sử dụng đá thải trong quá trình khai thác khoáng sản để làm vật liệu san lấp mặt bằng cho các công trình, dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã được Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam triển khai thực hiện. Trong lĩnh vực năng lượng, đã có một số dự án đầu tư cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt có phát điện ở Cần Thơ, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh…. Trong ngành xây dựng, với các biện pháp tăng cường sử dụng vật liệu xây dựng tái chế, không nung... giúp thúc đẩy phát triển thị trường thứ cấp cho vật liệu xây dựng, thúc đẩy đổi mới về sử dụng tài nguyên và giải quyết hiệu quả các vấn đề thâm dụng vật liệu.[5]
2.2. Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn
Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020 đã đưa ra qui định về kinh tế tuần hoàn (Điều 142). Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng lần đầu tiên đã khẳng định chủ trương về kinh tế tuần hoàn: “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”, “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn…” Nhằm hướng dẫn chi tiết về tiêu chí, cách thức áp dụng, phân công trách nhiệm và cơ chế khuyến khích áp dụng kinh tế tuần hoàn trong Nghị định số 08/2022/NĐ-CP. Đặc biệt, tại Điều 139 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP về Lộ trình, trách nhiệm thực hiện kinh tế tuần hoàn đã quy định về nôi dung, thời hạn và trách nhiệm xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Kinh tế tuần hoàn trong năm 2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Việc này được đánh giá là một bước đi vô cùng quan trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình hiện thực hóa KTTH ở quy mô quốc gia. Theo đó, để chuyển đổi thành công từ mô hình tuyến tính sang mô hình KTTH, cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức và hộ gia đình. Do đó, với quan điểm Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, cung cấp thông tin, dữ liệu; doanh nghiệp là động lực trọng tâm; quyền và lợi ích của người tiêu dùng là động lực dẫn dắt thực hiện KTTH, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH sẽ được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở đồng thuận, ủng hộ cao của các bên liên quan.
Tiếp đến, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07 tháng 6 năm 2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Quyết định 687/QĐ-TTg ra đời đã khẳng định tính chủ động của Chính phủ trong việc phát triển KTTH, Việt Nam đi cùng với xu hướng khách quan của thời đại, xu hướng phát triển văn minh sinh thái của nhân loại.
3. Những hạn chế, điểm nghẽn, nút thắt trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Thứ nhất, nhận thức về khái niệm, nội hàm KTTH còn nhiều hạn chế, còn nhiều cách hiểu khác nhau, trong giới lãnh đạo, hoạch định chính sách và thực thi chính sách, chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, người tiêu dùng về KTTH.
Thứ hai, cơ chế, chính sách cho phát triển KTTH cũng còn nhiều hạn chế. Theo đó, dù nội dung KTTH đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, những lại chưa có một hướng dẫn cụ thể cho địa phương, doanh nghiệp, hộ gia đình thực hiện. Việc hướng dẫn thực hiện mới chỉ dừng lại ở văn bản cá biệt là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mang nặng tính tuyền truyền thực hiện, chứ chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật để các chủ thể liên quan cần phải thực hiện KTTH. Mặt khác, hệ thống pháp luật về KTTH còn phân tán về chức năng quản lý giữa các bộ ngành (Bộ Kế hoạch&Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công thương,...). Tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn hạn chế. Cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội, thử nghiệm cho phát triển các mô hình KTTH chưa được ban hành.
Thứ ba, hiện còn quá nhiều Chiến lược, đề án, kế hoạch có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn: Chiến lược bảo vệ môi trường, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu, chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững…các chiến lược, kế hoạch này đều có mục tiêu hướng đến nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải, ứng phó với BĐKH. Rõ ràng khi xây dựng triển khai Chiến lược nói trên ở địa phương sẽ có nhiều mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trùng nhau, chưa được rà soát, tích hợp, thống nhất trong thực thi, và cũng không có nguồn lực đi kèm để thực hiện. Điều này dẫn đến việc các địa phương “bội thực” chiến lược, kế hoạch, dẫn đến quá trình hiện thực hoá tại các địa phương khó đi phải thực tiễn cuộc sống. Thực tế cho thấy các chủ thể doanh nghiệp, hộ gia đình phải là những chủ thể trung tâm của chính sách KTTH, nhưng vai trò, nguồn lực, các công cụ chính sách dành cho các chủ thể này thường lu mờ, ít được quan tâm trong các chính sách về KTTH.
Thứ tư, qua kết quả đánh giá của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế Việt Nam cho thấy các mô hình KTTH thành công tại Việt Nam còn chưa nhiều để trở thành những hình mẫu cho các địa phương, tham khảo, học tập. Cơ chế, chính sách dẫn dắt kiến tạo cho KTTH ở cấp độ quốc gia, địa phương còn thiếu đồng bộ, mới chỉ dừng ở cam kết chính trị và chủ trương, mà chưa được thể chế toàn diện ở mức độ thực thi chính sách. Đầu tư xanh, tiêu dùng xanh, KTTH chưa trở thành giá trị phổ biến trong cộng đồng xã hội ở địa phương.
Thứ năm, còn nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế khi thực hiện chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái, trong việc tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tín dụng, tài chính, hạ tầng, thuế…) cho việc chuyển đổi sang KTTH, thực tiễn cho thấy nguồn lực này chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho hoạt động R&D, KHCN cho phát triển KTTH còn hạn chế; chưa có sự gắn kết giữa các tổ chức nghiên cứu (viện, trường) với doanh nghiệp. Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, KTTH thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn. Việc thúc đẩy kinh tế xanh, KTTH, tín dụng xanh sẽ khiến các TCTD phát sinh chi phí để đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp, nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ ngân hàng.
4. Kỷ nguyên mới, thời cơ mới, cơ hội mới, yêu cầu mới cho doanh nghiệp Việt trong việc tiên phong, dẫn dắt nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tổng thu nhập quốc nội (GDP) của nền kinh tế đã tăng từ mức 26,3 tỷ USD năm 1986 lên gần 450 tỷ USD năm 2024 và GDP bình quân đầu người cũng đã tăng hơn 58 lần, lên mức khoảng 4.700 USD trong cùng giai đoạn đó. Việt Nam đang tiến tới việc hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030[6]. Đồng thời sau 40 năm Đổi mới Việt Nam đã có hơn 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là DNNVV, khoảng 14,4 nghìn hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Vào năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động.[7] Đặc biệt, ở nước ta đã hình một lực lượng doanh nghiệp tư nhân đủ lớn, đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp hiện đại, có thương hiệu tại thị trường khu vực và thế giới, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế như: Tập đoàn Vingroup, Thaco, Hòa Phát, Tập đoàn TH, Tập đoàn T&T, KN Holdings, SunGroup, Geleximco, Minh Phú, Masan, Sovico, TH, Cơ điện lạnh (REE)…[8]Trong số đó, một số doanh nghiệp tư nhân lớn đã tiên phong đầu tư vào hệ sinh thái cho ngành công nghiệp mới để tạo lực lượng sản xuất mới; tiên phong đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng xanh, tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái: Tập đoàn Vin group đầu tư hệ sinh thái xe điện và nghiên cứu để làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nguồn. Tập đoàn TH tiên phong khai mở con đường sữa tươi sạch thông qua các hoạt động sản xuất bền vững, Tập đoàn TH tuân thủ các nguyên tắc của mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ngay từ khi triển khai Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa công nghệ cao trị giá 1,2 tỷ USD tại Nghệ An vào năm 2009. Tập đoàn FPT đầu tư vào công nghệ thông tin, vi mạch điện tử và đô thị khoa học…. Từng bước phát triển trở thành lực lượng sản xuất mới dẫn dắt, lan tỏa, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Mặc dù, đã xuất hiện đội ngũ doanh nghiệp vừa và lớn, tuy nhiên, chưa thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt nền kinh tế quốc dân như kỳ vọng. Tỷ trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực các lĩnh vực công nghệ mới như: sản xuất năng lượng sạch, chip, vi mạch, bán dẫn, hydrogen, dự án xanh, khu công nghiệp sinh thái...còn thấp, chưa có các dự án quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quy mô doanh nghiệp trong nền kinh tế phần lớn là nhỏ và vừa, chưa có công nghệ lõi, công nghệ nguồn, chưa đủ tiềm lực để số hóa và xanh hóa, tuần hoàn hoạt động sản xuất, kinh doanh.[9]
Bối cảnh thời đại đang có nhiều thay đổi lớn, sự ra đời của các ngành công nghiệp mới, thay đổi chính sách của các nền kinh tế lớn kéo theo sự dịch chuyển các dòng vốn đầu tư, cấu trúc đầu tư. Điều này vừa đặt ra các thách thức nhưng đồng thời cũng mang đến những cơ hội, vận hội mới cho đất nước. Theo đó, mô hình tăng trưởng không chỉ dựa vào, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, mà còn phải chú trọng ưu tiên đầu tư cho động lực tăng trưởng mới: các ngành công nghiệp tiên phong, dẫn dắt đựa trên KH&CN, ĐMST và hình thành hệ sinh thái cho công nghiệp mới, đầu tư các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.[10]
5. Cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội nhằm khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Như phân tích ở trên khu vực kinh tế tư nhân đang đứng trước kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Do đó, để huy động tối đa, hiệu quả các nguồn lực của các khu vực thành phần kinh tế cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới, thì cần phải xem doanh nghiệp, người dân là chủ thể quan trọng nhất, trọng tâm của chính sách, pháp luật. Trong giai đoạn tới, muốn trở thành quốc gia tiên phong, mẫu hình trong chuyển đổi xanh, phát triển xanh, thì chủ thể thực hiện chính là doanh nghiệp và người dân. Nhà nước cần kiến tạo cơ chính sách tốt nhất, nguồn lực tốt nhất để doanh nghiệp và người dân thực hiện các dự án, mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Thứ nhất, lãnh đạo bộ/ngành và các địa phương phải xem chuyển đổi xanh, KTTH là việc yêu cầu thật sự cấp thiết, cấp bách, từ cam kết chính trị thì phải được cụ thể hoá triển khai thực hiện trong thực tế, trước mắt thực hiện một cách thực chất, có hiệu quả việc lồng ghép các mục tiêu và định hướng quan trọng Quy hoạch Tỉnh và chiến lược ngành, liên ngành, kèm theo kế hoạch hành động ưu tiên trong 2025-2030.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng để các doanh nghiệp triển khai dự án đầu tư quy có mô lớn, công nghệ cao, khu công nghiệp sinh thái. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung ngay các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về kinh tế xanh, KTTH còn mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp với thực tiễn. Rà soát, sửa đổi các điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật không phù hợp với thực tế, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp trong triển khai mô hình KTTH.
Thứ ba, khẩn trương xây dựng cơ chế, chính sách cho phát triển doanh nghiệp dân tộc, vì lợi ích và sự phát triển của dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn nhằm phát huy vai trò tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng của kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, công nghệ mới, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Chính phủ cần nghiên cứu các gói chính sách hỗ trợ với quy mô đủ lớn, phù hợp, khả thi để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy đầu tư các động lực tăng trưởng mới của quốc gia.
Thứ tư, để thực hiện có hiệu quả KTTH trong thực tiễn ở địa phương cần có các dự án và cơ chế thực hiện các dự án tiên phong, quy mô lớn, dẫn dắt như ngọn hải đăng góp phần hiện thực hoá kế hoạch hoạch hành động KTTH ở cấp địa phương, như: hydrogen, thu hồi khí thải carbon, dự án điện gió, điện sinh khối, điện rác, xử lý rác thải tập trung quy mô liên tỉnh theo hướng tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái… Đối với các nhóm dự án này, Chính phủ cần phải phân cấp phân quyền cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”[11]. Đồng thời cần phải thiết lập cơ chế, hành lang pháp luật minh bạch, rõ ràng, có cơ chế chỉ định nhà đầu tư để rút ngắn thời gian, trình tự, thủ tục, để giao cho doanh nghiệp tư nhân lớn trong nước đủ tiềm lực tài chính, nhân lực và công nghệ thực hiện dự án.
Thứ năm, để đưa các chính sách liên quan đến kinh tế xanh, KTTH vào dòng chảy chủ đạo của cuộc sống thì cách tiếp cận tuần tự, truyền thống là không đủ. Vì vậy cần nhanh chóng ban hành là cơ chế thử nghiệm cho ngành và lĩnh vực KTTH để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư, doanh nghiệp sớm thử nghiệm các ý tưởng, sáng kiến kinh tế tuần hoàn, đồng thời đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh, phục hồi xanh ở Việt Nam. Theo đó cơ chế thử nghiệm sẽ tập trung vào các vấn đề lớn sau đây: Tạo đột phá về tư duy chính sách hướng tới mở rộng không gian kinh tế thông qua mô hình kinh tế tuần hoàn; ứng dụng KH&CN và ĐMST trong các mô hình KTTH; Tạo cơ chế thử nghiệm với các ưu đãi chính sách phù hợp nhằm khuyến khích doanh nghiệp sớm đầu tư vào các dự án kinh tế tuần hoàn trong một số lĩnh vực (nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp; năng lượng; vật liệu xây dựng)…
Kết luận
Sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai, đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi mau lẹ, có nhiều yếu tố mang tính thời đại và nếu tận dụng được thì đất nước sẽ đảo ngược tình thế để bứt phá phát triển rất nhanh, bền vững. Do đó, mô hình phát triển trong kỷ nguyên mới của dân tộc sẽ tập trung hướng vào tăng cường khả năng hoán chuyển được bất lợi thế hiện nay thành những lợi thế với một chiến lược phát triển xanh, KTTH đúng đắn để bứt phá, vươn lên, cùng với tầm nhìn vượt trước và tinh thần không ngừng đổi mới sáng tạo; giữa chủ trương mở đường, cơ chế tạo thuận lợi hóa của Trung ương được thể chế hoá, tích hợp và hội tụ với cách làm linh hoạt và sự vận dụng sáng tạo của mỗi địa địa phương cho doanh nghiệp thực hiện các mô hình trong sản xuất, kinh doanh bền vững, tuần hoàn…, nhằm hóa giải bài toán giữa phát triển kinh kinh tế với bảo vệ môi trường, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa con người. Cùng với cách tiếp cận đa chiều, toàn diện và bền vững rất cần có các giải pháp chính sách đặc thù, vượt trội nhằm phát triển các ngành/lĩnh vực xanh, KTTH.
[1] Trích dẫn ý của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại phiên họp của Thường trực Tiểu ban Văn kiện, ngày 27/8/2024.
[2] Bộ TN&MT (2023), Báo cáo thuyết minh phục vụ xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn, Hà Nội-2023.
[3] Tổng Cục Thống kê (2024), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và 12 tháng năm 2024
[4] https://isponre.gov.vn/vi/news/doi-thoai/mo-hinh-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-tren-the-gioi-va-bai-hoc-cho-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-o-viet-nam-2273.html
[5] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Đại sứ quán Australia tại Việt Nam (2024), Việt Nam: 40 năm Đổi mới và Tầm nhìn 2045, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội.
[6] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Đại sứ quán Australia tại Việt Nam (2024), Việt Nam: 40 năm Đổi mới và Tầm nhìn 2045, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội.
[7] Bộ KH&ĐT (2023), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2023.
[8] Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước ngày 21/9/2024 tại Hà Nội.
[9] Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước ngày 21/9/2024 tại Hà Nội.
[10] Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước ngày 21/9/2024 tại Hà Nội.
[11] Trích lời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong diễn văn khai mạc và bế mạc Hội nghị Trung ương 10 Khóa XIII.
Nguồn: Tác giả