Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay

10:17 16/04/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Sau gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã có hệ thống các quan điểm về bảo vệ môi trường (BVMT) nhất quán, xuyên suốt. Các nhiệm kỳ đại hội thường xuyên tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các quan điểm cho phù hợp với từng bối cảnh phát triển đất nước và ban hành nhiều văn bản về bảo vệ môi trường. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, mối quan hệ lớn “Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được bổ sung thêm thành tố: “bảo vệ môi trường”; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”. Những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước là trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đỏi hỏi các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.

Phát triển các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường

Suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu to lớn, là mối đe dọa chung đối với sự phát triển của cộng đồng nhân loại. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ðây là quan điểm phát triển nhất quán của Ðảng ta. Qua các kỳ đại hội, hệ thống quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường đã dần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Bài viết nói về vai trò của sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ môi trường. Đồng thời đưa ra một số giải pháp để nâng cao vai trờ lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới với trình độ lực lượng sản xuất thấp kém. Sự lạc hậu về công cụ sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán và trình độ sản xuất thấp nên quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, sử dụng tài nguyên sẵn có trong môi trường. Vì vậy, tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng khẳng định: “Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh thái bị phá hoại”. Tuy nhiên, do điều kiện lúc đó, đất nước còn khó khăn nên vấn đề BVMT chưa được quan tâm nhiều như hiện nay [12].

Đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), trước thực trạng tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, môi trường sinh thái bị phá hoại, Đại hội đã chỉ đạo: “Phát triển kinh tế rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên rừng, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái” [3].

Cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, Luật BVMT năm 1993 được thông qua lần đầu tiên cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác BVMT. Luật BVMT gồm 07 chương 55 điều, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác BVMT. Tháng 6/1991, Chính phủ thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991 - 2000. Ðây là văn bản có tính chiến lược đầu tiên đề cập đến tất cả các lĩnh vực môi trường và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.

Nhằm cụ thể quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Cương lĩnh (năm 1991), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII và xuất phát từ thực tiễn BVMT, ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị đã khẳng định: “BVMT là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới” [3]. Đồng thời, nêu lên những quan điểm cơ bản mang tính xuyên suốt: “BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; BVMT là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [3]. Chỉ thị góp phần tăng cường công tác BVMT Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ IX (năm 2001), Đảng khẳng định: “Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hóa dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường” [3].

Cụ thể hơn quan điểm của Đại hội lần thứ IX của Đảng, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [3]: “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”, “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững”. Để BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường.

Tại Đại hội lần thứ XI (năm 2011), Đảng nhận định [3]: “Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp”. Vì vậy, BVMT trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước: “BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân  Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và BVMT sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng có hơn 20 lần nhắc đến vấn đề môi trường và BVMT. Điều này cho thấy, sự quan tâm của Đảng tới vấn đề môi trường đã có sự đổi mới và mở rộng hơn trước.

Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. Nghị quyết cho rằng: “việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản… ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân” [4]. Vì vậy, Nghị quyết chỉ rõ: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội” [4].

Việc thông qua Nghị quyết 24-NQ/TW cho thấy, quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội lần thứ XI đã được cụ thể hóa hơn. Hơn nữa, thực tiễn cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết là biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện hữu và có chiều hướng biến đổi nhanh hơn so với dự báo. Theo đó, BVMT cần gắn liền với việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016), trong bối cảnh: Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Ý thức BVMT của một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên, nhất là hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, thảm thực vật biển giảm cả về diện tích và chất lượng. Công tác bảo vệ rừng còn bất cập, tình trạng chặt phá và cháy rừng còn xảy ra. Nhiều loài sinh vật, nguồn gen quý đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao. Việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn.... Sử dụng năng lượng tái tạo (điện sinh khối, điện gió, điện mặt trời còn ít. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT” [3].

Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” [3].

Điểm mới về BVMT sinh thái trong bối cảnh hiện nay là: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”, “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Đây là giải pháp căn bản và lâu dài của nhiệm vụ BVMT. Bởi vì, chỉ có xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường mới là cơ sở giảm nhẹ phát thải nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thải ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về BVMT, Quốc hội đã ban hành Luật BVMT năm 2020 (ngày 17/11/2020) nhằm tạo ra khung hành lang pháp lý xuyên suốt, cơ chế linh hoạt trong công tác BVMT, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT, đáp ứng tiêu chuẩn phát triển của xã hội.

Thực trạng môi trường hiện nay và những vấn đề đặt ra

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã tích cực, chủ động trong kiểm soát, đưa ra phương án, biện pháp khoa học, toàn diện với từng vùng, từng địa bàn chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để phối hợp giải quyết; các chỉ tiêu về môi trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các ngành, địa phương.

Cụ thể là: “Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2% tăng mạnh so với năm 2015 (86,2%). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 khoảng 42%, đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra”.

Hợp tác quốc tế, tham gia vào các hội nghị quốc tế chống biến đổi khí hậu được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, tiêu biểu như: cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero) tại Hội nghị COP26; tham gia Thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với một số nước G7 và đối tác quốc tế khác…

Cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chương trình, dự án của Chính phủ, các địa phương ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, điển hình như Cần Thơ đã đề ra nhiều giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; trong sản xuất nông nghiệp, nhân rộng sản xuất theo quy trình vietGAP, Global GAP, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biến đối khí hậu (tham gia thỏa thuận các thị trưởng toàn cầu về biến đổi khí hậu và năng lượng; tham gia mạng lưới các thành phố BreatheLife; thành viên trong mạng lưới 100 thành phố toàn cầu có khả năng chống chịu…); tổ chức nhiều hội thảo, tập huấn phổ biến thông tin, kiến thức về môi trường, biến đổi khí hậu cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thành phố.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, công tác BVMT, thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Ðiển hình là: lối sống và hành vi tiêu dùng về sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, BVMT còn chưa cao. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về BVMT vẫn là khâu yếu. Ý thức chấp hành pháp luật về BVMT có nơi còn thấp trong khi các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe. Xu hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chậm được khắc phục. Công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên chưa thật đầy đủ, chặt chẽ. Ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển. Nguồn lực đầu tư cho BVMT còn khiêm tốn [10].

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do:

1) Chưa nhận thức đầu đủ về bảo vệ môi trường

Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân và doanh nghiệp nâng cao ý thức BVMT; thấy lợi ích trước mắt về kinh tế mà chưa tính đến việc bảo đảm phát triển bền vững trong mỗi một chủ trương, dự án. “Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu” [13].

Người đứng đầu chính quyền các cấp ở một số địa phương buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu sâu sát kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác BVMT.

2) Hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường còn chưa hoàn thiện 

Hệ thống pháp luật, Luật BVMT tuy khá hoàn chỉnh, song vẫn còn kẽ hở, chưa đủ mạnh để răn đe, chế tài quá nhẹ đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.

Các cơ quan chức năng, ban, ngành chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ trong xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến BVMT.

3) Năng lực thực thi công tác BVMT còn hạn chế

Nguồn nhân lực về BVMT còn chưa tương xứng, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, nhất là ở địa phương, cơ sở.

Thiếu nguồn lực đầu tư là thách thức lớn trong bối cảnh các vấn đề môi trường ngày càng gia tăng, tích tụ, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Việc huy động các nguồn lực trong xã hội còn nhiều khó khăn; nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường” chưa được áp dụng triệt để, mức chi chưa đúng, chưa đủ. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho BVMT từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp [10].

Năng lực dự báo, đánh giá tình hình và xử lý vi phạm đối với tập thể, cá nhân vi phạm đến môi trường chưa thật quyết liệt, mạnh mẽ, còn nể nang, né tránh, bao che, dung túng, tiếp tay cho sai phạm [6].

Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ môi trường

Đại hội XIII của Đảng đánh giá [3]: “Các thách thức về biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Kông, thiên tai, dịch bệnh và thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách về tăng cường hợp tác xử lý, đặt ra nhiều vấn đề, thách thức lớn chưa từng có cho phát triển nhanh và bền vững”. Trong khi đó, yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước là trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng XHCN, đỏi hỏi các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm phát triển bền vững.

Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng "không" (NetZero) vào năm 2050. Ðây là mức cam kết cao so với điều kiện thực tế của Việt Nam, thể hiện sự chủ động, ý thức trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao của Việt Nam nỗ lực cùng với cộng đồng quốc tế BVMT, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên tham gia thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với Nhóm các đối tác quốc tế.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện quan điểm ngày càng coi trọng công tác BVMT, đặt ra mục tiêu cụ thể về môi trường đến năm 2030: “Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%; Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính;100% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường; Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia” [3].

Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu, đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98%, trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%; tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65% [3].

Những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, cấp thiết được đề ra nhằm giải quyết những thách thức thực tiễn như: giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường; bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học; tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, nhất là những cơ sở ô nhiễm mô trường nghiêm trọng. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là những cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt; kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên...; phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đáp ứng yêu cầu phát triển, cùng với đổi mới công nghệ xử lý chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, sản xuất năng lượng từ chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái phù hợp với điều kiện từng vùng, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu...

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ môi trường

Như đã đề cập, BVMT là sự nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân, là trách nhiệm của toàn xã hội; BVMT gắn với cải thiện môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, đem lại cuộc sống văn minh, tươi đẹp cho nhân dân; là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng

Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT đi vào cuộc sống, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành hướng dẫn tuyên truyền BVMT góp phần phát triển bền vững đất nước. Thông qua tuyên truyền phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cũng như các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và BVMT, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân đối với công tác BVMT: Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu chi phối và quyết định việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của nhà nước đối với công tác BVMT đạt kết quả tốt. Bởi vì, chỉ khi có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vấn đề này, thì các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân mới có thể có hành động đúng, đem lại hiệu quả trong BVMT.

Cần đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, huy động sự tham gia của toàn dân vào công tác BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.

2) Lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về BVMT

Đảng ta nhiều lần khẳng định, BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhân dân. Do vậy, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong công tác BVMT, cụ thể là các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp và người dân về tầm quan trọng của môi trường sinh thái, xây dựng ý thức BVMT, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BVMT theo chủ trương của Đảng. 

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lí nhà nước  đối với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với BVMT: Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội tích cực tham gia vào công tác BVMT.

Tăng cường nguồn nhân lực và năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường các cấp: Ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh và tăng cường năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp.

Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý các tổ chức đảng, cán bộ nhà nước, đảng viên, cá nhân và tập thể vi phạm về BVMT: xử lý nghiêm những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong thực hiện chủ trương của Đảng về BVMT. Thông qua công tác này, Đảng nắm được hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, MTTQ, và các đoàn thể chính trị - xã hội, trong các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp vi phạm về BVMT.

3) Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu BVMT đã đề ra

Tiếp tục thể chế hóa quan điểm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành trong cơ chế hiến pháp và cơ chế pháp lý thông thường. Đối với cơ chế hiến pháp cần cụ thể hóa khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013 để hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền con người; với các cơ chế pháp lý thông thường cần phải bảo đảm pháp chế trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các chủ thể có hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cũng như tổ chức, cá nhân và truyền thông đối với quá trình này [8].

Hoàn thiện đồng bộ pháp luật về phát triển bền vững theo nội hàm mở rộng đã được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với các trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Nghiên cứu, hoàn thiện thể chế về mô hình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu để thể chế đầy đủ hơn các quan điểm của Đảng, các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia,

Tăng cường hợp tác quốc tế, khu vực về BVMT theo đường lối đối ngoại của Đảng: Hợp tác quốc tế về môi trường còn là một trong những nội dung quản lý nhà nước về BVMT được đề cập trong Luật BVMT, và là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về môi trường

Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT đi vào cuộc sống, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân đối với công tác bảo vệ môi trường. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lí nhà nước đối với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, mục tiêu, nội dung BVMT theo các quan điểm chỉ đạo của Đảng.

Phát triển các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường

Suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu to lớn, là mối đe dọa chung đối với sự phát triển của cộng đồng nhân loại. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ðây là quan điểm phát triển nhất quán của Ðảng ta. Qua các kỳ đại hội, hệ thống quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường đã dần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Bài viết nói về vai trò của sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ môi trường. Đồng thời đưa ra một số giải pháp để nâng cao vai trờ lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới với trình độ lực lượng sản xuất thấp kém. Sự lạc hậu về công cụ sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán và trình độ sản xuất thấp nên quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, sử dụng tài nguyên sẵn có trong môi trường. Vì vậy, tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng khẳng định: “Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh thái bị phá hoại”. Tuy nhiên, do điều kiện lúc đó, đất nước còn khó khăn nên vấn đề BVMT chưa được quan tâm nhiều như hiện nay [12].

Đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), trước thực trạng tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, môi trường sinh thái bị phá hoại, Đại hội đã chỉ đạo: “Phát triển kinh tế rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên rừng, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái” [3].

Cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, Luật BVMT năm 1993 được thông qua lần đầu tiên cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác BVMT. Luật BVMT gồm 07 chương 55 điều, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác BVMT. Tháng 6/1991, Chính phủ thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991 - 2000. Ðây là văn bản có tính chiến lược đầu tiên đề cập đến tất cả các lĩnh vực môi trường và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.

Nhằm cụ thể quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Cương lĩnh (năm 1991), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII và xuất phát từ thực tiễn BVMT, ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị đã khẳng định: “BVMT là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới” [3]. Đồng thời, nêu lên những quan điểm cơ bản mang tính xuyên suốt: “BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; BVMT là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [3]. Chỉ thị góp phần tăng cường công tác BVMT Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ IX (năm 2001), Đảng khẳng định: “Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hóa dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường” [3].

Cụ thể hơn quan điểm của Đại hội lần thứ IX của Đảng, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [3]: “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”, “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững”. Để BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường.

Tại Đại hội lần thứ XI (năm 2011), Đảng nhận định [3]: “Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp”. Vì vậy, BVMT trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước: “BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân  Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và BVMT sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng có hơn 20 lần nhắc đến vấn đề môi trường và BVMT. Điều này cho thấy, sự quan tâm của Đảng tới vấn đề môi trường đã có sự đổi mới và mở rộng hơn trước.

Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. Nghị quyết cho rằng: “việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản… ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân” [4]. Vì vậy, Nghị quyết chỉ rõ: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội” [4].

Việc thông qua Nghị quyết 24-NQ/TW cho thấy, quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội lần thứ XI đã được cụ thể hóa hơn. Hơn nữa, thực tiễn cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết là biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện hữu và có chiều hướng biến đổi nhanh hơn so với dự báo. Theo đó, BVMT cần gắn liền với việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016), trong bối cảnh: Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Ý thức BVMT của một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên, nhất là hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, thảm thực vật biển giảm cả về diện tích và chất lượng. Công tác bảo vệ rừng còn bất cập, tình trạng chặt phá và cháy rừng còn xảy ra. Nhiều loài sinh vật, nguồn gen quý đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao. Việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn.... Sử dụng năng lượng tái tạo (điện sinh khối, điện gió, điện mặt trời còn ít. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT” [3].

Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” [3].

Điểm mới về BVMT sinh thái trong bối cảnh hiện nay là: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”, “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Đây là giải pháp căn bản và lâu dài của nhiệm vụ BVMT. Bởi vì, chỉ có xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường mới là cơ sở giảm nhẹ phát thải nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thải ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về BVMT, Quốc hội đã ban hành Luật BVMT năm 2020 (ngày 17/11/2020) nhằm tạo ra khung hành lang pháp lý xuyên suốt, cơ chế linh hoạt trong công tác BVMT, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT, đáp ứng tiêu chuẩn phát triển của xã hội.

Thực trạng môi trường hiện nay và những vấn đề đặt ra

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã tích cực, chủ động trong kiểm soát, đưa ra phương án, biện pháp khoa học, toàn diện với từng vùng, từng địa bàn chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để phối hợp giải quyết; các chỉ tiêu về môi trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các ngành, địa phương.

Cụ thể là: “Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2% tăng mạnh so với năm 2015 (86,2%). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 khoảng 42%, đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra”.

Hợp tác quốc tế, tham gia vào các hội nghị quốc tế chống biến đổi khí hậu được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, tiêu biểu như: cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero) tại Hội nghị COP26; tham gia Thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với một số nước G7 và đối tác quốc tế khác…

Cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chương trình, dự án của Chính phủ, các địa phương ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, điển hình như Cần Thơ đã đề ra nhiều giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững; trong sản xuất nông nghiệp, nhân rộng sản xuất theo quy trình vietGAP, Global GAP, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biến đối khí hậu (tham gia thỏa thuận các thị trưởng toàn cầu về biến đổi khí hậu và năng lượng; tham gia mạng lưới các thành phố BreatheLife; thành viên trong mạng lưới 100 thành phố toàn cầu có khả năng chống chịu…); tổ chức nhiều hội thảo, tập huấn phổ biến thông tin, kiến thức về môi trường, biến đổi khí hậu cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thành phố.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, công tác BVMT, thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Ðiển hình là: lối sống và hành vi tiêu dùng về sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, BVMT còn chưa cao. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về BVMT vẫn là khâu yếu. Ý thức chấp hành pháp luật về BVMT có nơi còn thấp trong khi các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe. Xu hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chậm được khắc phục. Công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên chưa thật đầy đủ, chặt chẽ. Ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển. Nguồn lực đầu tư cho BVMT còn khiêm tốn [10].

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do:

1) Chưa nhận thức đầu đủ về bảo vệ môi trường

Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân và doanh nghiệp nâng cao ý thức BVMT; thấy lợi ích trước mắt về kinh tế mà chưa tính đến việc bảo đảm phát triển bền vững trong mỗi một chủ trương, dự án. “Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu” [13].

Người đứng đầu chính quyền các cấp ở một số địa phương buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu sâu sát kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác BVMT.

2) Hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường còn chưa hoàn thiện 

Hệ thống pháp luật, Luật BVMT tuy khá hoàn chỉnh, song vẫn còn kẽ hở, chưa đủ mạnh để răn đe, chế tài quá nhẹ đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.

Các cơ quan chức năng, ban, ngành chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ trong xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến BVMT.

3) Năng lực thực thi công tác BVMT còn hạn chế

Nguồn nhân lực về BVMT còn chưa tương xứng, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, nhất là ở địa phương, cơ sở.

Thiếu nguồn lực đầu tư là thách thức lớn trong bối cảnh các vấn đề môi trường ngày càng gia tăng, tích tụ, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Việc huy động các nguồn lực trong xã hội còn nhiều khó khăn; nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường” chưa được áp dụng triệt để, mức chi chưa đúng, chưa đủ. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho BVMT từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp [10].

Năng lực dự báo, đánh giá tình hình và xử lý vi phạm đối với tập thể, cá nhân vi phạm đến môi trường chưa thật quyết liệt, mạnh mẽ, còn nể nang, né tránh, bao che, dung túng, tiếp tay cho sai phạm [6].

Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ môi trường

Đại hội XIII của Đảng đánh giá [3]: “Các thách thức về biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Kông, thiên tai, dịch bệnh và thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách về tăng cường hợp tác xử lý, đặt ra nhiều vấn đề, thách thức lớn chưa từng có cho phát triển nhanh và bền vững”. Trong khi đó, yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước là trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng XHCN, đỏi hỏi các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm phát triển bền vững.

Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng "không" (NetZero) vào năm 2050. Ðây là mức cam kết cao so với điều kiện thực tế của Việt Nam, thể hiện sự chủ động, ý thức trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao của Việt Nam nỗ lực cùng với cộng đồng quốc tế BVMT, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên tham gia thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với Nhóm các đối tác quốc tế.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện quan điểm ngày càng coi trọng công tác BVMT, đặt ra mục tiêu cụ thể về môi trường đến năm 2030: “Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%; Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính;100% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường; Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia” [3].

Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu, đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98%, trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%; tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65% [3].

Những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, cấp thiết được đề ra nhằm giải quyết những thách thức thực tiễn như: giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường; bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học; tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, nhất là những cơ sở ô nhiễm mô trường nghiêm trọng. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là những cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt; kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên...; phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đáp ứng yêu cầu phát triển, cùng với đổi mới công nghệ xử lý chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, sản xuất năng lượng từ chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái phù hợp với điều kiện từng vùng, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu...

Nâng cao năng lưc lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ môi trường

Như đã đề cập, BVMT là sự nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân, là trách nhiệm của toàn xã hội; BVMT gắn với cải thiện môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, đem lại cuộc sống văn minh, tươi đẹp cho nhân dân; là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng

Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT đi vào cuộc sống, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành hướng dẫn tuyên truyền BVMT góp phần phát triển bền vững đất nước. Thông qua tuyên truyền phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cũng như các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và BVMT, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân đối với công tác BVMT: Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu chi phối và quyết định việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của nhà nước đối với công tác BVMT đạt kết quả tốt. Bởi vì, chỉ khi có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vấn đề này, thì các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân mới có thể có hành động đúng, đem lại hiệu quả trong BVMT.

Cần đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, huy động sự tham gia của toàn dân vào công tác BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.

2) Lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về BVMT

Đảng ta nhiều lần khẳng định, BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhân dân. Do vậy, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong công tác BVMT, cụ thể là các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp và người dân về tầm quan trọng của môi trường sinh thái, xây dựng ý thức BVMT, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BVMT theo chủ trương của Đảng. 

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lí nhà nước  đối với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với BVMT: Tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội tích cực tham gia vào công tác BVMT.

Tăng cường nguồn nhân lực và năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường các cấp: Ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh và tăng cường năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp.

Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý các tổ chức đảng, cán bộ nhà nước, đảng viên, cá nhân và tập thể vi phạm về BVMT: xử lý nghiêm những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong thực hiện chủ trương của Đảng về BVMT. Thông qua công tác này, Đảng nắm được hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, MTTQ, và các đoàn thể chính trị - xã hội, trong các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp vi phạm về BVMT.

3) Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu BVMT đã đề ra

Tiếp tục thể chế hóa quan điểm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành trong cơ chế hiến pháp và cơ chế pháp lý thông thường. Đối với cơ chế hiến pháp cần cụ thể hóa khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013 để hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền con người; với các cơ chế pháp lý thông thường cần phải bảo đảm pháp chế trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các chủ thể có hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cũng như tổ chức, cá nhân và truyền thông đối với quá trình này [8].

Hoàn thiện đồng bộ pháp luật về phát triển bền vững theo nội hàm mở rộng đã được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với các trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Nghiên cứu, hoàn thiện thể chế về mô hình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu để thể chế đầy đủ hơn các quan điểm của Đảng, các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia,

Tăng cường hợp tác quốc tế, khu vực về BVMT theo đường lối đối ngoại của Đảng: Hợp tác quốc tế về môi trường còn là một trong những nội dung quản lý nhà nước về BVMT được đề cập trong Luật BVMT, và là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về môi trường

Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT đi vào cuộc sống, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp trong đảng, nhà nước và nhân dân đối với công tác bảo vệ môi trường. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lí nhà nước đối với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, mục tiêu, nội dung BVMT theo các quan điểm chỉ đạo của Đảng.

Tài liệu tham khảo

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6.2013 của Ban Chấp hànhTrung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
  5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023), Dự thảo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hànhTrung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
  6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022), Nhận diện thách thức và định hướng bảo vệ môi trường, Tài liệu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ V, năm 2022.
  7. Bùi Đức Hiển (2023), Bảo vệ môi trường và những vấn đề pháp lý đặt ra theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số tháng 2/2022.
  8. Bùi Đức Hiển (2013), Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6 (302), 2013.
  9. Cao Nguyên (2022), Quan điểm, định hướng của Đảng về bảo vệ môi trường, Tạp chí Tuyên giáo, số tháng 9/2021.
  10. Nguyễn Manh (2022), Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số tháng 7/2022.
  11. Lê Thị Thanh Hà (2023), Bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
  12. Lê Thị Thanh Hà (2022), Sự phát triển nhận thức của Đảng về bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 10/2022.
  13. Phạm Thị Vui (2022), Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, Tạp chí Thanh tra, số tháng 5/2022.
  14. Nguyễn Thị Khương (2014), Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

 

Tác Giả: TS. Nguyễn Đình Đáp và TS. Nguyễn Thị Bích Nguyệt, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững

In trang Chia sẻ

Tin khác