Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường

16:50 29/12/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nội dung vắn tắt bài viết “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường” của TS. Đoàn Thị Quý (Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam). Bài viết phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường (BVMT) thể hiện trong các văn kiện của Đảng, từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, chỉ ra sự phát triển quan điểm đó của Đảng qua ba giai đoạn cụ thể: giai đoạn đặt nền móng (từ Đại hội VI-VIII), giai đoạn định hình quan điểm về xây dựng văn hóa BVMT (từ Đại hội IX-XII) và giai đoạn thể chế hóa quan điểm (từ Đại hội XIII đến nay). Toàn văn bài viết đã được đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội số 12/2025.

 

1. Mở đầu

 Xây dựng văn hóa BVMT là mục tiêu quan trọng mà nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang hướng tới. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước cũng rất coi trọng công tác BVMT. Dù chưa đưa ra hệ thống lý luận thống nhất về xây dựng văn hóa BVMT, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những quan điểm rõ ràng và nhất quán về vấn đề này.

2. Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường

 Căn cứ vào mức độ thể hiện nội dung “văn hóa BVMT” và mức độ thể chế hóa định hướng, quan điểm của Đảng về BVMT thành chiến lược, chính sách và pháp luật… có thể chia sự phát triển trong nhận thức của Đảng về BVMT và xây dựng văn hóa BVMT từ Đổi mới đến nay thành ba giai đoạn.

2.1. Giai đoạn đặt nền móng cho quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường (từ Đại hội VI đến Đại hội VIII)

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) tuy chưa đề cập rõ ràng đến BVMT, nhưng ngay ở thời kỳ này, Đảng đã có tư duy về phát triển bền vững (PTBV), được thể hiện qua quan điểm: thống nhất giữa chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội, tránh thái độ coi nhẹ chính sách xã hội và tư tưởng khai thác tài nguyên môi trường phải để ý đến “cân bằng sinh thái”. Trong Văn kiện Đại hội VI, Đảng đưa ra định hướng: “trong việc khai thác, cần đề cao kỷ luật, giữ đúng quy trình kỹ thuật, có tính tới cân bằng sinh thái, BVMT sống”.

Vấn đề BVMT được Đảng đề cập lần đầu tiên với tư cách là một trong những trụ cột của phát triển đất nước, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta chính là ở Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991): “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và BVMT”. Cũng ở văn kiện này, lần đầu tiên Đảng đưa ra cụm từ “cải thiện môi trường” và khẳng định BVMT không chỉ ở việc ngăn ngừa, phòng chống ô nhiễm môi trường, mà còn ở việc “cải thiện môi trường”.

Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996), Đảng tiếp tục thể hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội và BVMT, đưa ra những định hướng cụ thể, sâu sắc hơn trong công tác BVMT. Chỉ thị số 36/1998/CT-TW - Chỉ thị đầu tiên của Đảng về BVMT đã được ban hành trong giai đoạn này, cho thấy một số điểm mới, thể hiện sự tiến bộ trong quan điểm của Đảng về công tác BVMT, trong đó có một số nội dung của công tác BVMT gắn liền với PTBV. Đây là lần đầu tiên Đảng sử dụng thuật ngữ PTBV, qua đó cho thấy quan điểm của Đảng về văn hóa BVMT cũng đã được thể hiện rõ. Đồng thời, Đảng cũng chỉ rõ BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nói cách khác, Đảng đã làm rõ chủ thể BVMT trong xây dựng văn hóa BVMT.

2.2. Giai đoạn định hình quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường (từ Đại hội IX đến Đại hội XII)

Văn kiện Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định BVMT là một trong những trụ cột của PTBV và gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Quan điểm của Đảng về BVMT, PTBV trong Đại hội IX được xem là cơ sở lý luận khoa học để Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về định hướng Chiến lược về PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước về PTBV ở Việt Nam. Trên cơ sở thẳng thắn chỉ ra những nguyên nhân của tồn tại trong công tác BVMT, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị đã đưa ra định hướng trong xây dựng văn hóa BVMT: “Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và BVMT: mọi người đều có ý thức BVMT, sống thân thiện với thiên nhiên”.

Đến Đại hội X (năm 2006), lần đầu tiên Đảng đề ra chỉ tiêu cụ thể về môi trường trong báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó đưa ra các chỉ tiêu về môi trường vào năm 2010 như: tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ dân cư thành thị và nông thôn sử dụng nước sạch, tỷ lệ cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ sạch.

Tại Đại hội lần thứ XI (năm 2011), Đảng khẳng định tầm quan trọng của BVMT và nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội trong việc BVMT, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ đối phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) bên cạnh đề cao việc bảo vệ và cải thiện môi trường.

Ở Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016), vấn đề ứng phó với BĐKH đã được Đảng coi là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, từ đó nêu ra nhiều chủ trương cụ thể như: điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường; hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng xanh, thân thiện với môi trường; khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo và các nguyên liệu, vật liệu mới, thân thiện với môi trường…

2.3. Giai đoạn thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường (từ Đại hội XIII đến nay)

Điểm mới trong quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa BVMT ở Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021) chính là Đảng đã đặt vấn đề BVMT lên hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Từ quan điểm mang tính chất nền tảng này, BVMT đã trở thành tiêu chí vô cùng quan trọng trong mô hình phát triển của Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII xác định mô hình phát triển kinh tế nước ta theo hướng tăng cường xây dựng văn hóa BVMT.

Như vậy, mặc dù Đảng chưa đề cập trực tiếp và chưa có hệ thống lý luận thống nhất về văn hóa môi trường hay xây dựng văn hóa BVMT nhưng có thể thấy trong giai đoạn hiện nay, quan điểm về xây dựng văn hóa BVMT của Đảng đã được thể hiện rõ ràng và cụ thể. Thứ nhất, về giá trị, nguyên tắc đạo đức môi trường làm nền tảng để xây dựng văn hóa BVMT, Đảng ta đã nhấn mạnh mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên, nguyên tắc của đạo đức môi trường là nguyên tắc công bằng môi trường. Thứ hai, những định hướng phát triển văn hóa BVMT đã được thể chế hóa thành quy định, pháp luật BVMT. Luật pháp Việt Nam ngày càng có nhiều quy định đề cao văn hóa BVMT, coi đây là ưu tiên hàng đầu của tiến bộ xã hội. Thứ ba, Đảng đã thúc đẩy, tăng cường xây dựng văn hóa BVMT, Nhà nước có cơ chế phát triển kinh tế và xây dựng các thiết chế xã hội gắn với BVMT. Thứ tư, Đảng luôn khẳng định BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị; tăng cường giáo dục văn hóa môi trường cho mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giáo dục cho thế hệ trẻ; đề cao việc nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân về bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động đối phó với BĐKH.

3. Kết luận và kiến nghị

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những tư tưởng đúng đắn và tiến bộ về văn hóa BVMT, xây dựng văn hóa BVMT. Tuy nhiên, công tác xây dựng văn hóa BVMT ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế đáng kể. Để có thể khắc phục được những hạn chế đó, cần phải đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ xây dựng các thể chế về pháp luật, kinh tế, xã hội thúc đẩy văn hóa BVMT, đồng thời phải “môi trường hóa” được toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Theo đó, một mặt, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về BVMT, phát triển kinh tế xanh; có chế tài xử phạt nghiêm minh các hành vi gây ra ô nhiễm môi trường; thiết lập tòa án môi trường; ban hành bộ chỉ số văn hóa BVMT, xem đó là một trong những chỉ tiêu đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của từng tỉnh, ban, ngành. Mặt khác, tích hợp các nội dung về văn hóa môi trường trong mọi chương trình giảng dạy và tài liệu đào tạo; xây dựng hệ thống ấn phẩm, khóa học và các hoạt động nhằm bồi dưỡng văn hóa môi trường cho mọi nhóm dân cư./.

Nguồn: Trang Thông tin điện tử Viện Thông tin Khoa học xã hội

In trang Chia sẻ

Tin khác