Tóm tắt: Trên cơ sở nghiên cứu các nguồn tài liệu, bài viết trình bày những đóng góp của một số tổ chức và cá nhân Phật giáo, Công giáo ở Việt Nam đối với Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó, bài viết rút ra một số bài học lịch sử và ý nghĩa hiện thời, như bài học về tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bài học về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò, giá trị và nguồn lực tôn giáo,… Sự đóng góp, ủng hộ của tôn giáo đã góp phần mang đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bài học lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, rất cần phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển đất nước thì vai trò, giá trị, nguồn lực tôn giáo càng không thể bỏ qua.
Từ khóa: Nguồn lực tôn giáo, Cách mạng tháng Tám, bài học lịch sử, ý nghĩa, Việt Nam.
Mở đầu
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một dấu mốc vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân phong kiến và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây không chỉ là thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, mà còn là kết quả của việc huy động sức mạnh tổng hợp từ mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo... không chỉ đóng vai trò như là những thiết chế văn hoá, thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo, phục vụ nhu cầu đời sống tinh thần của người dân, mà còn là những cộng đồng, lực lượng có sự ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống chính trị - xã hội. Nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo ý thức rất rõ về vai trò, trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc, tham gia tích cực vào các phong trào đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, mang lại hạnh phúc cho người dân. Từ góc độ của mình, các tổ chức và cá nhân tôn giáo đã có nhiều đóng góp như tuyên truyền tư tưởng yêu nước, kêu gọi chức sắc, tín đồ ủng hộ cách mạng, quyên góp sức người, sức của cho lực lượng cách mạng và các phong trào cách mạng, bảo vệ cách mạng, bảo vệ các lãnh tụ của phong trào cách mạng, tích cực xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Việc nghiên cứu vai trò, đóng góp của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đối với Cách mạng tháng Tám không chỉ góp phần khẳng định sự thật lịch sử khách quan, mà còn góp phần làm rõ hơn mối quan hệ giữa tôn giáo và cách mạng trong tiến trình giải phóng dân tộc, đồng thời, qua nghiên cứu này, có thể rút ra bài học kinh nghiệm làm cơ sở để tiếp tục phát huy giá trị, vai trò của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, cho đến nay, chưa có nhiều bài viết đề cập đến nội dung này, đa số các bài viết đều tập trung vào những đóng góp của các tôn giáo đối với cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Đề cập đến những đóng góp của Phật giáo và Công giáo giai đoạn trước và trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 thì chưa có các công trình riêng biệt. Nội dung này được đề cập rải rác trong các công trình về lịch sử Phật giáo, Công giáo. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu như sau: Nguyễn Hồng Dương (chủ biên, 2020), Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954); Lê Tâm Đắc (2008), Đóng góp của Phật giáo miền Bắc với sự nghiệp giải phóng dân tộc nửa đầu thế kỷ XX; Đỗ Quang Hưng (2003), Cách mạng và tôn giáo; Đỗ Quang Hưng (2010), Công giáo và cách mạng (1945-1954): bài học lịch sử và ý nghĩa của nó; Bùi Thị Thu Hà (2002), Những đóng góp của tín đồ Phật giáo Hoà Hảo trong hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ (1945-1975); Trương Quế Phương (2002), Người Công giáo Nghệ - Tĩnh với dân tộc; Nguyễn Lang (2014), Việt Nam Phật giáo sử luận, toàn tập (1,2,3); Hồ Khang (2015), Đồng bào Công giáo Việt Nam với Cách mạng tháng Tám 1945; Thích Thọ Lạc, Chu Văn Tuấn (đồng chủ biên, 2022), Bác Hồ với Phật giáo;… đây cũng là những công trình mà bài viết tham khảo. Bài viết này dựa trên các tài liệu thứ cấp để phân tích và trình bày về một số đóng góp của các tổ chức và cá nhân Phật giáo, Công giáo tiêu biểu đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nói cách khác, phạm vi thời gian bài viết đề cập là từ thời điểm ngày 02/9/1945 trở về trước, phong trào cách mạng và cuộc kháng chiến chống Pháp sau năm 1945 không thuộc phạm vi của bài viết này. Tuy nhiên, trong một số phân tích, để nhấn mạnh tính tiếp nối, hệ quả những đóng góp của Phật giáo, Công giáo bài viết có thể liên hệ sau thời điểm này. Khái niệm “đóng góp của tôn giáo” trong bài viết được thao tác trên các phương diện: đóng góp của tổ chức, cá nhân tôn giáo (trong bài viết là Phật giáo và Công giáo) thông qua các hoạt động cung cấp nguồn lực vật chất, tinh thần, nguồn nhân lực cho cách mạng.
1. Khái quát chung về tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn Cách mạng tháng Tám
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với sự hiện diện của nhiều tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, sự hình thành và phát triển nhanh chóng của các tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam,... Tôn giáo đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong đời sống tinh thần và văn hóa của người dân Việt Nam, đồng thời, có ảnh hưởng sâu rộng đến các phương diện của đời sống xã hội. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, chính quyền thực dân đã thi hành chính sách lợi dụng tôn giáo để phục vụ mục tiêu cai trị. Với Phật giáo, một tôn giáo có truyền thống lâu đời ở Việt Nam, thực dân Pháp áp dụng chính sách phân hóa và kiểm soát chặt chẽ tăng, ni, khống chế việc tổ chức giáo hội và can thiệp vào các hoạt động Phật sự. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Phật giáo Việt Nam rơi vào khủng hoảng, suy thoái, bởi vậy phong trào Chấn hưng Phật giáo đã diễn ra trên khắp ba miền nhằm phục hưng Phật giáo. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, nhiều nhà sư và cơ sở Phật giáo đã trở thành nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng và tổ chức hoạt động yêu nước. Như nhận định của Giáo sư Trần Văn Giàu, nhiều nhà sư yêu nước đã đứng về phía dân tộc, chống lại thực dân và phong kiến.
Công giáo, du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVI và phát triển mạnh dưới thời Pháp thuộc, cũng chịu sự kiểm soát của cả Tòa thánh Vatican và chính quyền bảo hộ Pháp. Năm 1945, Công giáo ở Việt Nam có khoảng 1,6 triệu người, 15 giáo phận, 330 linh mục người nước ngoài, 1.400 linh mục Việt Nam (Đỗ Quang Hưng, 2010: 3-4). Tuy có những cá nhân, bộ phận chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng thân Pháp, nhưng cũng xuất hiện không ít trí thức và giáo dân Công giáo mang tinh thần yêu nước, tiêu biểu như linh mục Phạm Bá Trực,… Họ không chỉ lên tiếng phản đối chính sách áp bức, mà còn trực tiếp tham gia Mặt trận Việt Minh, góp phần vào khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều địa phương.
Đặc biệt, các tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài (ra đời năm 1926) và Phật giáo Hòa Hảo (ra đời năm 1939) không chỉ mang màu sắc tín ngưỡng, mà còn thể hiện khát vọng canh tân xã hội và giải phóng dân tộc. Với lực lượng tín đồ đông đảo tại Nam Bộ, hai tôn giáo này đã nhanh chóng trở thành một lực lượng xã hội có sức thu hút và ảnh hưởng lớn. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, một số bộ phận trong các tổ chức này đã thiết lập mối quan hệ với Việt Minh, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng phát triển tại vùng nông thôn Nam Bộ. Bên cạnh đó, còn có các tôn giáo nội sinh khác như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam... góp phần tạo nên bức tranh tôn giáo đa dạng của Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung. Tóm lại, tình hình tôn giáo ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám là bức tranh đa dạng, phức tạp với những mâu thuẫn, khủng hoảng. Dù chịu nhiều tác động từ chính sách thực dân và sự phân hóa nội bộ, các tôn giáo ở Việt Nam vẫn có những đóng góp tích cực cho phong trào yêu nước và cách mạng, tạo tiền đề cho sự tham gia sâu rộng hơn của các tổ chức và cá nhân tôn giáo trong cao trào Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Toàn văn bài viết mời xem file đính kèm!