Di cư và phát triển của các tộc người trong bối cảnh mới: góc nhìn từ Hội thảo Dân tộc học Quốc gia thường niên năm 2025

17:37 26/11/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Trong bốn thập niên đổi mới, Việt Nam đã chứng kiến những chuyển động mạnh mẽ của xã hội, kinh tế và văn hóa. Một trong những hiện tượng nổi bật nhất nhưng cũng phức tạp và nhạy cảm là sự gia tăng của các dòng di cư. Di cư từ nông thôn ra đô thị, từ miền núi xuống đồng bằng, từ các tỉnh nghèo đến các trung tâm công nghiệp và từ Việt Nam ra thế giới đã làm thay đổi đáng kể bức tranh dân cư, cấu trúc lao động, sinh kế và quan hệ xã hội của các tộc người.
TS. Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội, GS.TS. Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm và PGS.TS. Lâm Bá Nam, Chủ tịch Hội Dân tộc học và Nhân học Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo

Hội thảo Dân tộc học Quốc gia thường niên năm 2025 với chủ đề “Những vấn đề về di cư và phát triển của các tộc người ở nước ta hiện nay” do Viện Dân tộc học và Tôn giáo học tổ chức ngày 26/11/2025 tại Hà Nội đã mở ra một diễn đàn khoa học quan trọng, nơi các nhà nghiên cứu, chuyên gia và nhà quản lý cùng nhìn nhận lại những xu hướng mới, những thách thức sâu sắc và các cơ hội chính sách mới trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới.

Di cư – hiện tượng xã hội toàn cầu đang thay đổi diện mạo các cộng đồng tộc người

Di cư vốn là một phần của lịch sử loài người. Tuy nhiên, như các báo cáo tại Hội thảo chỉ ra, vài thập niên gần đây chứng kiến sự bùng nổ chưa từng có của di cư với quy mô và tính chất đa dạng. Điều này không chỉ diễn ra ở các quốc gia phát triển mà trở thành xu thế xuyên biên giới. Việt Nam, với 54 tộc người, đang trải qua những biến đổi sâu sắc dưới áp lực của hội nhập, đô thị hóa, công nghiệp hóa và biến đổi khí hậu.

Trao đổi về vấn đề di cư ở vùng biên giới nước ta, TS. Nguyễn Công Thảo, Viện Dân tộc học và Tôn giáo học cho rằng: thực tế cho thấy di cư dã trở thành một hiện tượng toàn cầu, điều này đã và đang góp phần khiến di cư nội địa, di cư xuyên quốc gia có khuynh hướng gia tăng, đặc biệt là ở khu vực biên giới của nhiều quốc gia.

TS. Nguyễn Công Thảo, Viện Dân tộc học và Tôn giáo học trình bày tham luận tại Hội thảo

Tại Việt Nam, tính đến tháng 11/2025, nước ta có 23 tỉnh có đường biên giới đất liền, 1.516 xã nằm trong vùng biên giới. Đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc thiểu số. Vì vậy, việc nghiên cứu về quá trình di cư lao động của đồng bào dân tộc thiểu số là rất cần thiết, nhằm đưa ra những khuyến nghị, giải pháp kịp thời, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, duy trì hài hòa quan hệ xã hội, bảo tồn và bảo vệ môi trường.

Đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số, di cư không chỉ là việc rời khỏi một nơi này để đến nơi khác. Đó là sự thay đổi đồng thời của nhiều lớp giá trị như: Thay đổi không gian sinh tồn truyền thống (vốn gắn liền với lịch sử, môi trường và hệ thống tín ngưỡng); đứt gãy một phần quan hệ cộng đồng – dòng họ (vốn đóng vai trò là “vòng an toàn” trong đời sống xã hội tộc người); tái định hình hệ giá trị văn hóa, khi người trẻ buộc phải thích ứng với nhịp sống công nghiệp, công nghệ và đô thị; tái cấu trúc mô hình gia đình, với nhiều hộ gia đình phải “di cư phân mảnh” – người đi, người ở,…

Sự dịch chuyển này tạo nên những cộng đồng mới – “cộng đồng tộc người mở rộng”, vượt ra khỏi không gian truyền thống để hình thành tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, đô thị lớn hoặc thậm chí ở nước ngoài.

Lợi ích và những mâu thuẫn nội tại của di cư: Khi động lực phát triển đi kèm rủi ro xã hội

Một điểm nhấn mạnh mẽ tại Hội thảo năm nay là cách nhìn đa chiều về di cư với những lợi ích đem lại rõ rệt có liên quan đến việc: nâng cao dịch chuyển lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giúp người dân mở rộng sinh kế, tiếp cận việc làm có thu nhập cao hơn; đóng góp vào giảm nghèo ở nhiều địa phương; thúc đẩy giao lưu văn hóa, nâng cao trình độ dân trí và kỹ năng lao động.

Tuy nhiên, các báo cáo trình bày tại Hội thảo cũng chỉ ra những thách thức nổi bật liên quan đến: (1) Khó khăn của người di cư – đặc biệt là lao động tự do hoặc người dân tộc thiểu số khi tiếp cận an sinh xã hội gắn với các dịch vụ cơ bản như: Y tế, đặc biệt là bảo hiểm y tế; Giáo dục, nhất là cho trẻ em đi cùng cha mẹ; Nhà ở, vốn thiếu khu lưu trú giá rẻ và phù hợp; Hỗ trợ pháp lý, thông tin về quyền lợi lao động. Tình trạng này dẫn đến vòng xoáy dễ tổn thương, khiến nhiều gia đình nhập cư không tìm được điểm tựa bền vững tại nơi đến. (2) Mất cân bằng nhân khẩu ở nhiều địa phương. Một số vùng dân tộc thiểu số đang đối diện tình trạng: Già hóa dân số cục bộ, khi người trẻ rời đi; Lao động thiếu hụt, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; Hệ giá trị cộng đồng truyền thống bị mỏng đi. (3) Tác động của biến đổi khí hậu, nhiều báo cáo tại Hội thảo đã nhấn mạnh biến đổi khí hậu, thiên tai và suy thoái tài nguyên đang tạo ra những “dòng di cư môi trường” ngày càng gia tăng. Nhiều cộng đồng phải rời khỏi nơi cư trú truyền thống khi đối mặt với: hiện tượng xói mòn đất, lũ quét, sạt lở; Hạn hán kéo dài; Rừng suy giảm; Nguồn nước cạn kiệt. (4) Mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn. Khi di cư diễn ra ồ ạt, việc gìn giữ bản sắc tộc người trở nên khó khăn. Người trẻ sống xa quê ít có điều kiện thực hành các nghi lễ tộc người, tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng hoặc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Các nhà khoa học khẳng định, đây là những biến đổi mang tính cấu trúc và lâu dài cần có sự đầu tư nghiên cứu trong ngắn, trung và dài hạn.

PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Viện Thông tin KHXH trình bày tham luận tại Hội thảo

Di cư dưới góc nhìn học thuật: Từ lý thuyết đến thực tiễn

Hội thảo cho thấy một bước tiến mới trong cách tiếp cận di cư: không chỉ quan sát hiện tượng, mà đi sâu phân tích động lực, hệ quả và chiều cạnh văn hóa – xã hội – chính trị của nó.

Các lý thuyết và hướng nghiên cứu nổi bật được các chuyên gia và nhà khoa học chỉ ra bao gồm: (1) Lý thuyết di cư đa nhân tố, nhấn mạnh di cư không do một yếu tố duy nhất quyết định, mà là tổng hợp của: Áp lực kinh tế – xã hội tại nơi đi; Sức hút từ nơi đến; Mạng lưới xã hội của người di cư; Chính sách phát triển vùng; Ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu; Cơ hội giáo dục và việc làm. (2)Tiếp cận “di cư và bản sắc tộc người”. Nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận di cư như một quá trình tái tạo bản sắc. Người di cư không chỉ “mất đi” hay “giữ nguyên” văn hóa của mình, mà: Lựa chọn những yếu tố phù hợp để duy trì; Thích ứng với môi trường văn hóa mới; Phát triển “bản sắc lai ghép” (hybrid identity) trong bối cảnh toàn cầu hóa. (3) Di cư và quản trị xã hội đa tầng. Các dòng di cư mới đặt ra yêu cầu thay đổi cách thức quản trị xã hội: Từ quản lý cư trú sang quản lý theo dòng di chuyển dân cư; Từ an sinh truyền thống sang an sinh thích ứng; Từ chính sách dàn trải sang chính sách dựa trên dữ liệu lớn và đánh giá tác động xã hội…

Các gợi mở chính sách: Hướng đến phát triển bền vững và bao trùm

Với 4/41 tham luận được lựa chọn trình bày tại Hội thảo và từ các trao đổi, thảo luận các vấn đề chuyên sâu, Hội thảo Dân tộc học Quốc gia thường niên năm 2025 đã đưa ra một số nhóm giải pháp lớn, có giá trị chiến lược tập trung vào những vấn đề trọng tâm, chiến lược như: (1) Hoàn thiện chính sách di cư dựa trên bằng chứng. Các chuyên gia, nhà khoa học cho rằng: Chính sách cần dựa trên dữ liệu cập nhật và phân tích sâu sắc về: Xu hướng dịch chuyển dân cư theo vùng; Đặc điểm của người di cư dân tộc thiểu số; Điều kiện an sinh ở nơi đến; Tác động dài hạn đến cấu trúc cộng đồng. (2) Tăng cường phúc lợi cho người di cư, bao gồm: Mở rộng bảo hiểm y tế; Cải thiện nhà ở giá rẻ; Tăng tiếp cận giáo dục cho trẻ em di cư; Hỗ trợ pháp lý và thông tin về quyền lao động. (3) Chính sách sinh kế bền vững tại vùng dân tộc thiểu số trong đó tập trung vào những giải pháp cốt lõi như: Đẩy mạnh phát triển hạ tầng; Mở rộng đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường; Tạo sinh kế mới: nông nghiệp thông minh, du lịch cộng đồng, nghề truyền thống; Hỗ trợ khởi nghiệp cho thanh niên dân tộc thiểu số. (4). Xây dựng mô hình cộng đồng thích ứng với biến đổi khí hậu. Để thực hiện được các địa phương cần có kế hoạch: Quy hoạch dân cư theo rủi ro khí hậu; Tăng cường cảnh báo thiên tai; Hỗ trợ tái định cư có sự đồng thuận của cộng đồng; Bảo vệ hệ thống rừng – nguồn nước. (5) Bảo tồn bản sắc tộc người trong dòng chảy di cư. Đây là bài toán khó nhưng không thể bỏ qua. Có thể thực hiện bằng việc: Xây dựng không gian văn hóa tộc người tại đô thị; Khuyến khích sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong gia đình và cộng đồng; Tổ chức lễ hội, hoạt động sinh hoạt truyền thống cho cộng đồng di cư; Tăng cường giáo dục văn hóa dân tộc trong trường học.

Di cư – thách thức đồng thời cũng là cơ hội phát triển

Hội thảo Dân tộc học Quốc gia thường niên năm 2025 cho thấy một vấn đề quan trọng: di cư không chỉ là hệ quả của phát triển, mà còn là động lực cho tương lai của các tộc người và của quốc gia. Nhìn nhận đúng, quản trị tốt và đầu tư đúng chỗ sẽ giúp chúng ta khai thác được nguồn lực xã hội to lớn nằm trong các dòng di cư.

Theo PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học xã hội: Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc sâu sắc không gian dân cư và sinh kế dưới tác động của công nghiệp hóa, đô thị hóa và biển đổi xã hội. Di cư trở thành một chỉ báo quan trọng phản ánh năng động phát triển và mức độ hội nhập của các nhóm dân cư.

Toàn cảnh Hội thảo

 

Trong bối cảnh đó, vai trò của giới nghiên cứu, các cơ quan quản lý và chính sách nhà nước càng trở nên quan trọng. Từ góc nhìn khoa học đến thực tiễn, di cư là bài toán của sự cân bằng – giữa phát triển và bảo tồn, giữa cơ hội và rủi ro, giữa hội nhập và bản sắc.

Có thể khẳng định, với nhiều tham luận đạt chất lượng chuyên sâu, các thảo luận, kết luận và gợi mở từ Hội thảo không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận dân tộc học, mà còn phục vụ trực tiếp cho công tác hoạch định chính sách cho Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc trong thời kỳ mới.

Tác Giả: Phạm Vĩnh Hà

In trang Chia sẻ

Tin khác