Tham dự Hội thảo, về phía đại biểu quốc tế có GS.TS. Chris Hann – Viện trưởng Viện Nhân học xã hội Max Planck; TS. Kirsten W. Endres – Trưởng nhóm nghiên cứu đề tài: Người buôn bán, chợ và nhà nước ở Việt Nam (Viện Nhân học xã hội Max Planck); TS. Nir Avieli – Giảng viên cao cấp, Đại học Ben Gurion, Isarel. Về phía đại biểu Việt Nam có TS. Trần Hữu Sơn – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam; PGS.TS. Vương Xuân Tình – Viện trưởng Viện Dân tộc học; PGS.TS. Phạm Quang Hoan, Chủ tịch Hội Dân tộc học, nhân học Việt Nam, cùng đông đảo các đại biểu là giảng viên, NCS, học viên cao học và toàn thể cán bộ của Viện Dân tộc học.
Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS. Vương Xuân Tình, Viện trưởng Viện Dân tộc học cho rằng: Nghiên cứu về chợ dưới góc độ Dân tộc học/ Nhân học từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, chợ không chỉ là nơi trao đổi, mua bán mà còn hàm chứa nhiều khía cạnh xã hội và văn hóa. Thời gian qua, bằng cách tiếp cận Dân tộc học và các tiếp cận liên ngành khác, các nhà nghiên cứu đã có nhiều phát hiện khoa học có giá trị, nhất là lý giải mối quan hệ của chợ làng với kết cấu kinh tế và xã hội tiểu nông; lý giải mối quan hệ của hoạt động buôn bán với ý thức hệ Nho giáo và phân tầng xã hội; Lý giải vai trò của người phụ nữ tiểu thương trong đời sống gia đình và cộng đồng… Tuy nhiên, các nghiên cứu hầu hết dành cho việc soi chiếu thời kỳ lịch sử đã qua, trong khi đó sức sống và sự năng động của việc buôn bán ngoài quốc doanh ở thời bao cấp lại không được các nhà khoa học đương đại quan tâm.
Ngay cả khi thực hiện công cuộc Đổi mới, với sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ của chợ truyền thống thì việc xem xét của các nhà nghiên cứu cũng chưa xứng tầm. Phó giáo sư hy vọng thông qua Hội thảo, các nhà khoa học của cả hai nước sẽ có cơ hội được trình bày và lắng nghe những phát hiện mới của nhóm nghiên cứu của cả Việt Nam và Đức về đề tài: Người buôn bán, chợ và nhà nước.
Các đại biểu tham dự Hội thảo đã nghe các tham luận: Chủ nghĩa xã hội, chợ và thị trường xã hội chủ nghĩa: Kinh nghiệm nào cho Việt Nam và Trung Quốc đương đại từ cải cách ở Hungary (do GS.TS. Chris Hann trình bày); Văn minh hóa chợ: Chợ dân sinh và Chính sách của Nhà nước trong thời kỳ sau Đổi mới ở Việt Nam (TS. Kirsten W. Endres); Hiệu quả hoạt động của chợ vùng cao Lao Cai dưới góc nhìn nhân học (TS. Trần Hữu Sơn); Các phân loại Văn hóa – Tự nhiên và nền kinh tế dựa trên các mối quan hệ trong một chợ ở đô thị Việt Nam (TS. Nir Avieli); Hướng tới tư nhân hóa và thị trường hóa theo giới: Động năng của một xã hội cổ truyền buôn bán ở miền Bắc Việt Nam (Esther Horat – NCS Viện Nhân học xã hội Max Planck); Xem xét lại những người bán hàng rong lưu động ở Hà Nội hiện nay (Lisa Barthelmes – NCS Viện Nhân học xã hội Max Planck).
Thảo luận tại Hội thảo, nhiều đại biểu cho rằng việc phát triển mạnh hệ thống chợ vùng cao và đồng bằng ở Việt Nam đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, do sự không phù hợp về cấu trúc và địa điểm lựa chọn nên chợ mới xây ở nhiều nơi bị bỏ hoang hoặc không dùng hết đã gây tình trạng lãng phí. Khẳng định điều này TS. Kristen W.Endres (Viện Nhân học xã hội Max Planck) cũng cho rằng chính sách phát triển chợ của Việt Nam ở nhiều nơi còn chưa phù hợp, chưa thu hút được đầu tư của người dân, thiếu các nghiên cứu, đánh giá thực tiễn… Bởi vậy, nhiều dự án chợ đã thất bại. Một số chợ ở vùng cao và đồng bằng xây mới nhưng bị bỏ không hoặc bỏ trống phần lớn diện tích kinh doanh. Tại Hà Nội, một số chợ và trung tâm thương mại như Chợ Hàng Da, Trung tâm Thương mại Cửa Nam cũng nằm trong tình trạng tương tự. Điều này đã làm rõ một thực tế rằng quá trình tư nhân hóa chợ dân sinh đã và đang đặt ra cho nghiên cứu Dân tộc học/ Nhân học nhiều vấn đề cần tiếp tục phải đi sâu nghiên cứu, nếu không có những Dự án dài hạn và những đề tài cụ thể, Việt Nam rất có thể phải đứng trước nhiều thách thức cần giải quyết trước những thay đổi của “Chợ” trong cuộc sống và văn hóa của người dân./.
Phạm Vĩnh Hà