1. Lời mở đầu
Sau 8 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, dân chủ, với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân, sáng 1/2/2021, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bế mạc và thành công tốt đẹp. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm 200 đồng chí trong đó có 180 Ủy viên chính thức, 20 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã họp Hội nghị lần thứ nhất, bầu Bộ Chính trị gồm 18 đồng chí. Đồng chí Đinh Tiến Dũng - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính trúng cử vào Bộ Chính trị.
Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết nêu rõ:
Đại hội tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới; định hướng phát triển và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời gian tới nêu trong các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội.
Nghị quyết nêu bật kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII; khẳng định những thành tựu đạt được 5 năm qua là kết tinh sức sáng tạo của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới.
Nghị quyết đánh giá Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tể - xã hội 10 năm 2011 - 2020; nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991).
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nêu tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2025- năm kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030- năm kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045- nămkỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
2. Đánh giá các kết quả đạt được của kinh tế Việt Nam trong kỳ Đại hội XIII
Kể từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Việt Nam đã cơ bản thực hiện thắng lợi việc kiểm soát dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Tăng trưởng kinh tế đạt mức 2,56% trong năm 2021, trong khi nhiều nền kinh tế thế giới tăng trưởng âm. Năm 2022, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng 8,02%, vượt xa mục tiêu đề ra và là mức tăng cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Về quy mô, năm 2022, GDP của Việt Nam đạt khoảng 409 tỷ USD , đứng thứ 4 trong ASEAN, thứ 11 ở châu Á và là một trong 40 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới. Năm 2023, tình hình kinh tế Việt Nam tiếp tục khởi sắc với nhiều điểm sáng. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2023 tăng 2,9% so với tháng 7/2023 và tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8/2023 ước đạt 4,03 triệu tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát ở mức thấp hơn chỉ tiêu được Quốc hội giao. Tỷ giá, lãi suất và nợ công được duy trì trong ngưỡng an toàn, góp phần củng cố niềm tin nhà đầu tư
Bảng 1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2021-2024
Năm
|
2021
|
2022
|
2023
|
2024
|
Tốc độ (%)
|
2,58
|
8,02
|
5,05
|
7,09
|
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục thống kê
Thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều tăng theo tỷ lệ trên hai con số trong các năm 2021 và 2022. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2022 đạt 732,5 tỷ USD, bất chấp đứt gãy chuỗi cung ứng. Năm 2023 Việt Nam vẫn xuất siêu 28 tỷ USD dù kim ngạch giảm nhẹ. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 114,59 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm trước, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 290,94 tỷ USD, tăng 12,3%, chiếm 71,7%. Về các nhóm ngành hàng chủ lực, sự bứt phá trong xuất khẩu công nghệ của Việt Nam phần lớn nhờ vào sự hiện diện của các tập đoàn nước ngoài. Theo dữ liệu từ Tổng cục Hải quan (từ 1/1/2024 - 15/12/2024), giá trị xuất khẩu điện thoại và các loại linh kiện của Việt Nam đạt 51,6 tỷ USD, chiếm khoảng 13,3% tổng kim ngạch xuất khẩu với sự đóng góp không nhỏ từ các nhà máy sản xuất điện thoại của Samsung, Foxconn hay DBG Technology (một trong những công ty sản xuất điện thoại cho Xiaomi)[1].
Bảng 2: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam với thế giới
Đơn vị: Tỷ USD
Năm.
|
2021
|
2022
|
2023
|
2024
|
Tổng
|
668,54
|
730,21
|
683
|
786,29
|
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Hải quan
FDI vào Việt Nam năm 2021 đạt tới 38,85 tỷ USD, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm 2020[2]. Năm 2022, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 27,72 tỷ USD, mức vốn FDI thực hiện đạt kỷ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 10 năm[3]. Vốn FDI trong 8 tháng năm 2023 tiếp tục tăng so với cùng kỳ, đạt hơn 18,15 tỷ USD. Tính đến hết năm 2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đạt gần 38,23 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể, có 3.375 dự án đầu tư mới (tăng 1,8% so với năm 2023), tổng vốn đăng ký đạt hơn 19,7 tỷ USD (giảm 7,6% so với năm 2023); có 1.539 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 11,2% so với năm 2023), tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt gần 14 tỷ USD (tăng 50,4% so với năm 2023); có 3.502 giao dịch GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 2,4% so với năm 2023), tổng giá trị vốn góp đạt gần 4,54 tỷ USD (giảm 48,1% so với năm 2023).
3. Triển vọng trong thời gian tới
Trong giai đoạn 2025–2030, Việt Nam đứng trước nhiều thách thức kinh tế - xã hội đan xen với những cơ hội bứt phá quan trọng. Một mặt, nền kinh tế phải đối mặt với áp lực từ biến động địa chính trị toàn cầu, xu hướng bảo hộ thương mại, rủi ro lạm phát và sự cạnh tranh gay gắt trong chuỗi giá trị quốc tế. Đặc biệt, việc Mỹ xem xét các biện pháp thuế quan mới có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam, trong khi nhu cầu toàn cầu chưa phục hồi ổn định. Bên cạnh đó, các vấn đề nội tại như chênh lệch giàu nghèo, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động thấp và biến đổi khí hậu tiếp tục là những rào cản lớn đối với tăng trưởng bền vững của nước ta.
Bảng 3: Thách thức và định hướng giải pháp cho phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới
Thách thức
|
Hướng giải pháp
|
Rủi ro suy giảm cầu thế giới, căng thẳng thương mại (đề xuất thuế mới của Mỹ)
|
Đa dạng hóa thị trường, tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA); nâng chất xuất khẩu giá trị cao
|
Áp lực lạm phát chi phí & biến đổi khí hậu
|
Đẩy mạnh đầu tư năng lượng tái tạo, logistics xanh; yêu cầu chính sách tiền tệ linh hoạt
|
Chất lượng lao động & đổi mới sáng tạo
|
Đào tạo kỹ năng số, Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (STEM); khuyến khích nghiên cứu và triển khai (R&D), start-up công nghệ
|
Tuy nhiên, triển vọng phát triển được đánh giá vẫn tích cực. Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 8% trong năm 2025, hướng tới mức tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026–2030, với quy mô GDP dự kiến vượt 500 tỷ USD và GDP bình quân đầu người đạt trên 5.000 USD. Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, với GDP bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD. Kinh tế tư nhân được kỳ vọng đóng góp 55–58% GDP và giải quyết 85% việc làm xã hội. Đồng thời, Việt Nam hướng tới việc nằm trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao, với quy mô GDP đạt khoảng 1.760 tỷ USD theo sức mua tương đương (PPP) và GDP bình quân đầu người khoảng 18.000 USD. Kinh tế số được kỳ vọng chiếm ít nhất 50% GDP, và Việt Nam sẽthuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng GDP từ 8% đến 10% mỗi năm trong hai thập kỷ tới.[4].
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam tập trung vào các động lực mới như đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, nâng cao chất lượng thể chế và cải cách hành chính. Đặc biệt, việc đầu tư mạnh vào hạ tầng chiến lược, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước sẽ là chìa khóa để vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội phát triển trong thời gian tới.
Kết luận
Những thành tựu kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2024 khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Chính phủ và tinh thần đoàn kết toàn dân. Trong những năm tới, triển vọng phát triển của kinh tế Việt Nam được đánh giá tích cực. Tuy nhiên, những thách thức đến từ môi trường bên ngoài cũng như hạn chế từ bản thân nội tại của nền kinh tế là các rảo cản đối với việc hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Để giải quyết các thách thức này, Việt Nam cần duy trì ổn định vĩ mô, đẩy mạnh chuyển đổi số, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân…
[1] Báo điện tử Chính phủ (2025), Xuất nhập khẩu năm 2024 'cán mốc' 786 tỷ USD, https://baochinhphu.vn/xuat-nhap-khau-nam-2024-can-moc-786-ty-usd-102250106141936953.htm , truy cập ngày 15/3/2025
[2]Trung tâm WTO (2021), FDI năm 2021 thực tế đạt tới 38,85 tỷ USD https://trungtamwto.vn/thi-truong-duc/20509-fdi-nam-2021-thuc-te-dat-toi-3885-ty-usd-#:~:text=Tin%20t%E1%BB%A9c-,FDI%20n%C4%83m%202021%20th%E1%BB%B1c%20t%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BA%A1t%20t%E1%BB%9Bi%2038%2C85%20t%E1%BB%B7,v%E1%BB%9Bi%20c%C3%B9ng%20k%E1%BB%B3%20n%C4%83m%202020. truy cập ngày 15/3/2025
[3]Tạp chí Tài Chính (2023), Thu hút FDI vào Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh hậu COVID-19, https://tapchitaichinh.vn/thu-hut-fdi-vao-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc-trong-boi-canh-hau-covid-19.html#:~:text=N%C4%83m%202022%2C%20t%E1%BB%95ng%20v%E1%BB%91n%20FDI,10%20n%C4%83m%20(B%E1%BA%A3ng%201), truy cập ngày 15/3/2025
[4] Kinh tế và dự báo (2025), Việt Nam: Những chuyển đổi lớn cho mục tiêu đến năm 2045, https://kinhtevadubao.vn/viet-nam-nhung-chuyen-doi-lon-cho-muc-tieu-den-nam-2045-30890.html?utm_source=chatgpt.com , truy cập ngày 15/3/2025