Các chính sách và pháp luật hiện hành về hội nhập quốc tế của Việt Nam cơ bản phù hợp với chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, an toàn mà Đảng và Nhà nước đã đề đề ra. Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị, một trong bộ tứ trụ cột đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, tiếp tục khẳng định hội nhập quốc tế là động lực quan trọng cho phát triển đất nước. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn sâu sắc, hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và rất có bản lĩnh. Quan điểm xuyên suốt của Nghị quyết là, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo. Có thể nói, hệ thống chính sách, luật pháp đóng vai trò then chốt, mang tính định hướng và tạo ra khuôn khổ cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, hướng tới đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Tác động của hệ thống chính sách, pháp luật đối với hội nhập quốc tế của Việt Nam
Các đề xuất, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế tạo ra sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị, định hướng cho việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Hệ thống luật pháp là công cụ để nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và tận dụng các quyền lợi. Việc ban hành và sửa đổi luật, nghị định, thông tư liên quan đến thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường... tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, thúc đẩy hoạt động hợp tác và giao thương quốc tế.
Hệ thống pháp luật ổn định, minh bạch, dễ dự đoán và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là yếu tố quan trọng để thu hút FDI. Các quy định về thủ tục đầu tư, ưu đãi thuế, quyền chuyển lợi nhuận... có tác động trực tiếp đến quyết định của nhà đầu tư nước ngoài. Các quy định về cạnh tranh, chống độc quyền và bảo vệ nhà đầu tư giúp tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Việc thực hiện cam kết cắt giảm thuế và bỏ rào cản phi thuế quan trong các FTA giúp tăng cường xuất khẩu và mở rộng thị trường cho hàng hóa dịch vụ của Việt Nam. Các quy định về thủ tục hải quan, kiểm dịch, tiêu chuẩn kỹ thuật... được điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa, hài hòa hóa với thông lệ quốc tế, giúp giảm chi phí và thời gian cho hoạt động thương mại. Các quy định về phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống hỗ trợ, tự bảo vệ) giúp bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước cạnh không lành mạnh từ bên ngoài.
Khuyến khích đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ, các R&D hỗ trợ chính sách, bảo vệ sở hữu trí tuệ và thu hút công nghệ tiên tiến từ nước ngoài góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như các chính sách về giáo dục, đào tạo và thu hút lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập. Việc tiếp tục hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập.
Các chính sách và luật pháp tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục, y tế và giải quyết các vấn đề xã hội xuyên quốc gia. Tham gia vào các cơ chế hoạt động khu vực và toàn cầu, đảm bảo thực hiện các cam kết trong các khuôn khổ hợp tác đa phương, góp phần nâng cao vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể nói, hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành có vai trò quyết định trong việc xác định và thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Một hệ thống pháp luật phù hợp, đầy đủ và được thực hiện hiệu quả sẽ tạo ra môi trường thuận lợi, thu hút nguồn lực bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh và giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cần lưu ý về tác động thực tế của hệ thống chính sách, pháp luật phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả thực thi trên thực tế. Tính đồng bộ và nhất quán giữa các văn bản luật và giữa các cấp quản lý là yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả của hội nhập. Hệ thống pháp luật cần có khả năng đáp ứng nhanh chóng những thay đổi của tình hình quốc tế và yêu cầu phát triển của đất nước.
2. Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, khuyến khích thực thi hiệu quả Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới
Để kiện toàn hệ thống chính sách, pháp luật, khuyến khích thực thi hiệu quả Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Xây dựng kế hoạch hành động chi tiết và lộ trình cụ thể, đối với các bộ, ngành cần khẩn cấp xây dựng và ban hành kế hoạch hành động chi tiết, xác định nhiệm vụ, thời gian hoàn thành và trách nhiệm của từng đơn vị trong việc triển khai Nghị quyết. Cần có cơ chế theo dõi, đánh giá thực hiện tiến trình bất kỳ; Rà soát toàn diện hệ thống luật hiện hành, tiến hành rà soát kỹ lưỡng các luật, nghị định, thông tư hiện hành để xác định những luật, quy định nào cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để phù hợp với các định hướng chính sách, yêu cầu của Nghị quyết và các cam kết quốc tế. Ưu tiên rà soát các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến hội nhập kinh tế, đầu tư, thương mại, khoa học công nghệ và các lĩnh vực hội nhập mới; Xây dựng và sửa đổi luật cần đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa các luật và văn bản dưới luật, tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc khó thực thi; Nâng cao chất lượng xây dựng luật, tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp và các bên liên quan trong quá trình xây dựng luật; thúc đẩy công tác đánh giá hoạt động của chính sách và luật pháp trước khi có lệnh ban hành; Để tăng cường năng lực thực thi luật pháp, cần đầu tư vào đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật ở các cấp, đảm bảo họ có đủ kiến thức và kỹ năng để phát triển hiệu quả các quy định mới; Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thực thi pháp luật, thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên và hiệu quả thực hiện các chính sách, luật về hội nhập quốc tế. Có cơ chế đánh giá tác động định kỳ để điều chỉnh kịp thời và cải thiện.
Hội nhập kinh tế, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch, thuận lợi và cạnh tranh quốc tế; Rà soát và đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, thương mại; Xây dựng các danh sách hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức mạnh cạnh tranh, đổi mới công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ hậu cần để tận dụng hiệu quả các FTA; Xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư vào R&D, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa hóa kết quả nghiên cứu; Hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ và ứng dụng các công nghệ mới (AI, IoT, blockchain...); Xây dựng các chính sách tăng cường giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới; Hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động, đảm bảo quyền của người lao động theo cam kết quốc tế; Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội toàn cầu.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, tăng cường thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, cũng như các cơ hội và thách thức đặt ra; Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quốc tế, luật pháp quốc tế, kỹ năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm cần thiết cho cán bộ các cấp; Cung cấp thông tin, tư vấn và đào tạo cho doanh nghiệp về các cam kết quốc tế, các quy định pháp luật liên quan và cách tận dụng các cơ hội từ hội nhập; Tạo điều kiện để các tổ chức xã hội và dân dân tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách về hội nhập quốc tế.
Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ sở nhà nước trong việc phát triển khai thác các hoạt động hội nhập quốc tế; Tạo kênh đối thoại thường xuyên và hiệu quả để lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp và có những điều chỉnh chính sách phù hợp; Chủ động và tích cực tham gia vào các cơ chế hợp lý khu vực và toàn cầu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và tận dụng các nguồn lực bên ngoài.
Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả hội nhập, thiết lập các công cụ chỉ số để theo dõi và đánh giá kết quả, đánh giá hiệu quả của quá trình hội nhập quốc tế và việc thực hiện Nghị quyết 59; Đánh giá định kỳ tác động của các chính sách, luật pháp về hội nhập quốc tế đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; Dựa trên kết quả theo dõi, đánh giá giá và tình hình thực tế, điều chỉnh kịp thời các chính sách và luật để đảm bảo hiệu quả của quá trình hội nhập.
Tóm lại, việc triển khai hiệu quả Nghị quyết 59-NQ/TW đòi hỏi sự nỗ lực đồng bộ và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội. Những kiến nghị trên nhằm góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Việt Nam trong tình hình mới./.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Cổng thông tin điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam (dangcongsan.vn), các cổng thông tin pháp luật của Chính phủ (chinhphu.vn, thuvienphapluat.vn).
2. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế
3. Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 12/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030", Cổng thông tin điện tử của Chính phủ (chinhphu.vn), Cơ sở dữ liệu Quốc gia về pháp luật (vbpl.vn).
4. Các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực thi CPTPP, EVFTA, RCEP; Nghị định số 110/2020/NĐ-CP ngày 15/9/2020 của Chính phủ; Nghị định số 57/2019/NĐ-CP ngày 26/6/2019 của Chính phủ; Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính (mof.gov.vn), Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (moit.gov.vn), Cơ sở dữ liệu Quốc gia về pháp luật (vbpl.vn).
5. Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW, moit.gov.vn.
6. Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”